Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Chế độ BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.5 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG:...............................................................................5
1.1 Hồn cảnh ra đời:.............................................................................................5
1.1.1 Mơ tả tình huống:......................................................................................5
1.1.2 Mục tiêu xử lý tình huống:........................................................................6
II. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:..............................................................9
2.1 Mục tiêu, cơ sở lý luận và phân tích diễn biến tình huống:.............................9
2.2 Nguyên nhân tình huống:...............................................................................10
2.3 Hậu quả của tình huống:.................................................................................11
III. XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG......12
3.1 . Xây dựng phương án :..................................................................................12
3.2. Lựa chọn Phương án tối ưu:..........................................................................14
3.3 Các bước để thực hiện phương án 3 :.............................................................15
IV. KẾT LUẬN.......................................................................................................18
V. KIẾN NGHỊ.......................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................22

1


LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển sức khỏe con người ngày càng được coi trọng
hơn, chính vì vậy mà Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính
vì đây là một chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội
nên Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu
thành lập. Sau khi hồ bình được lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm
1959, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều


lệ tạm thời về các chế độ BHXH. Hơn mấy chục năm qua, các chế độ, chính sách
về Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công
nhân, viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng
cảm chiến đấu góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của
đất nước, bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phương
thức quản lý về BHXH theo các quy định trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ nhiều
điểm khơng cịn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghị quyết
của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, số thu quá ít so với
tổng số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ BHXH đã trở thành gánh nặng cho Ngân
sách Nhà nước; Đối tượng tham gia BHXH cịn bó hẹp trong lực lượng cán bộ công
nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, chưa được mở rộng đến người lao
động ở các thành phần kinh tế khác, chưa tạo được sự cơng bằng xã hội và làm
giảm tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội đối với người lao động.
Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách,
phương thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Thực
2


hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền
lương, các chế độ chính sách về BHXH cũng được cải cách một bước cơ bản. Sau
ngày Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP
ngày 26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối
với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh
tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời cũng đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày
16/2/1995 thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cơng
tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH theo quy định của Pháp
luật. BHXH Việt nam được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ương đến
tỉnh, Thành phố và quận, huyện, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995 trên
phạm vi cả nước.

Kể từ đó đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội khơng ngừng xây dựng, phát triển và
trường thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính sách về Bảo hiểm xã hội
ngày càng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng kịp thời với xu
thế phát triển của thời đại.
Xuất phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Vịêt
nam đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm
2006 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo hiểm
xã hội tự nguyện thì có hiệụ lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối với
Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Gần đây,
Quốc Hội đã ban hành Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm
2008 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009.
Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và
người lao động, ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam
từng bước được củng cố, hồn thiện và khơng ngừng phát triển. Công tác thu, chi,
3


quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối
tượng theo Luật định đã đi vào nề nếp tạo điều kiện thuận lợi cho những người
tham gia và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Đặc biệt, việc thực hiện cải cách hành chính theo qui trình giao dịch một cửa,
chuyển đối tác phong làm việc hành chính sang tác phong phục vụ thực sự đã đem
lại những chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các chế độ BHXH cho người
lao động. Hệ thống BHXH đi vào hoạt động theo một thể thống nhất , các chế độ
BHXH đến với người lao động tham gia và thụ hưởng thuận lợi hơn rất nhiều. Các
chế độ được giải quyết nhanh hơn, kịp thời hơn giúp cho các chủ sử dụng lao động
và người lao động an tâm đầu tư lao động sản xuất.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội vẫn

cịn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề quan trọng là chế độ Bảo hiểm xã hội
của người lao động chưa được giải quyết thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi hỏi trách
nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải xem xét giải quyết.
Qua thời gian học lớp bồi dưỡng kế toán viên nhằm để áp dụng kiến thức vào
thực tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ năng viết của bản thân nên tôi mạnh
dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã hội với đề tài: “ Chế độ BHXH
của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?”
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có hạn
nên khơng tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế sẽ
giải đáp và trả lời được một số thắc mắc cịn vướng phải trong việc thực hiện các
chế độ chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà Đảng và
Nhà nước đang ngày một hồn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh .
Kính mong được sự giúp đỡ, hướng dẫn của các Thầy giáo, cơ giáo Trường ....
góp ý kiến bổ sung để tơi có thể hồn thiện, nâng cao kiến thức của mình phục vụ
thiết thực cho cơng việc chun môn.
4


5


I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG:
1.1 Hồn cảnh ra đời:
1.1.1 Mơ tả tình huống:
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhậpcủa
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tainạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và
được thụ hưởng. Tuy nhiên, nhiều đơn vị, nhất là các doanh nghiệp tư nhân khi có
sự việc xảy ra đã trốn tránh trách nhiệm, không thực hiện hoặcthực hiện không đầy

đủ các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội đối với ngườil ao động:
Ông tên là Nguyễn Hải Anh trú quán tại Tổ 10, Thị Trấn Trại Cau, Huyện Đồng
Hỷ, Tỉnh Thái Nguyên có con trai tên là Nguyễn Văn Thành sinh ngày 20/7 1982 là
công nhân Cơng ty M.
Cơng nhân Nguyễn Văn Thành có thời gian tham gia BHXH như sau:
Từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2016 hệ số lương: 1,67 + 0,4 phụ cấp khu vực;
Từ tháng 01/2017 đến tháng 3/2018 hệ số lương: 1,67 (Từ tháng 1/2017 BHXH
khơng đóng phụ cấp khu vực)
Theo lời kể của ơng Anh thì tháng 4/2018 anh Nguyễn Văn Thành chưa thực
sự nghỉ việc tại Công ty M, đến sáng ngày 27/4/2018 (ngày chủ nhật) trên đường
lên Công ty để sáng thứ 2 làm việc thì anh đã bị tai nạn giao thông và chết vào lúc
7h sáng 27/4/2018. Gia đình đã gọi điện báo cho Cơng ty M và Cơng ty đã hỗ trợ
cho gia đình một phần tiền để gia đình lo mai táng cho anh Nguyễn Văn Thành.
Đến tháng 7/2019 vừa qua, gia đình nhận được thông báo của Công ty M lên
trực tiếp công ty để làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh Thành. Ơng Anh một
mình lặn lội gần 100 km lên tận Cơng ty con trai làm việc thì được cán bộ phòng tổ
chức đưa ra một bản quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với anh Nguyễn Văn
Thành của Công ty M từ ngày 02/4/2018 và hướng dẫn làm đơn đề nghị hưởng trợ
6


cấp một lần – mẫu 14-HSB. Do không hiểu biết về chính sách BHXH nên ơng quay
về làm đơn xin xác nhận của chính quyền địa phương và ơng đã thay mặt con trai
ký tên vào mục người làm đơn. Sau đó, ơng Anh lại trở lại Cơng ty M để nộp đơn.
Vừa qua, tháng 8/2019 gia đình ơng Anh nhận được thơng báo của Cơng ty M mời
gia đình lên nhận lại các thủ tục hồ sơ trong đó có sổ BHXH, quyết định hưởng trợ
cấp một lần, bản quá trình tham gia BHXH và hướng dẫn gia đình trực tiếp cơ quan
Bảo hiểm xã hội Huyện Đồng Hỷ để nhận tiền trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn
Thành. Ơng Anh hỏi rằng: Tại sao con ơng chết lại khơng được hưởng mai táng
phí? Ơng đề nghị cơ quan Bảo hiểm xã hội không giải quyết việc nhận trợ cấp một

lần của anh Thành mà làm đơn đề nghị giải quyết cho gia đình họ được nhận chế độ
tử tuất của anh Thành.
1.1.2 Mục tiêu xử lý tình huống:
Không gây xáo trộn nhiều trong việc tổ chức nhân sự; xử lý sự việc
nhanhchóng, làm dịu ngay được dư luận xã hội.
Làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá nguyên nhân, hậu quả và tìm ra các giải pháp
giải quyết nhằm giải quyết dứt điểm, đảm bảo đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nước Việt Nam mang tính xã hội sâu
sắc và mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai cấp
công nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; phục
vụ cho lợi ích của mọi người dân trong xã hội chứ không phải lợi ích của một
giai cấp riêng biệt nào.
Luật pháp của Nhà nước Việt Nam là nhân tố bảo vệ sự ổn định xã hội, thể chế
hoá quyền con người, quyền công dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho những
quyền đó được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Mặt khác các thành viên trong xã hội
7


nhờ vào phương tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
mình, đấu tranh chống mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một xã hộivăn minh,
công bằng và dân chủ.
Công chức, viên chức nhà nước là những người đại diện cho Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật. Cơng cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật và
bản thân họ cũng có nghĩa vụ phải tn thủ pháp luật, khơng được làm trái với
những gì mà pháp luật qui định. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có khơng ít
một số cán bộ cơng chức Nhà nước có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để
sách nhiễu nhân dân hoặc do trình độ chun mơn thấp kém, thiếu tinh thần trách
nhiệm, thiếu hiểu biết về chính sách của Nhà nước dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi

của người dân, thiếu công bằng xã hội, nhân dân mất lịng tin vàochính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nhà nước tham gia
Bảo hiểm xã hội với tư cách là người bảo hộ cho người lao động. Sự bảo hộ của
Nhà nước thể hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều tiết
các hoạt động Bảo hiểm xã hội đưa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của
chính sách kinh tế xã hội.
Tại Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng SảnViệt
Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thịtrường lao
động, bảo đảm hài hồ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động.
Đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hố hình thức bảo hiểm vàphù hợp
với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế
độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động. Để tăng cường lãnh
đạo thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo luật định cần phát huy vai trò lãnh
đạo của tổ chức Đảng ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với
người lao động, trọng tâm là thu nộp bảo hiểm xã hội, bảo đảm nguyên tắc có
8


tham gia thì mới hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Đồng thời,chỉ đạo thực hiện
tốt công tác giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Đây là vấn đề quan trọng liên
quan đến hàng triệu người lao động vì vậy cần phải có biệnpháp thực hiện triệt
để nhằm bảo đảm chặt chẽ, công bằng, tạo động lực thúc đẩy người lao động
công tác tốt, tăng năng suất lao động.
Bên cạnh đó, cần tích cực chống các biểu hiện tiêu cực, thất thoát trong công
tác bảo hiểm xã hội. Các cơ quan thanh tra phải kết luận giải quyết dứt điểm
những vi phạm đã được phát hiện, đồng thời thường xuyên kiểm tra , phát hiện
và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các chế độ bảo hiểm xã hội, những trường

hợp nghiêm trọng phải truy tố trước pháp luật.
Để các qui định về chế độ bảo hiểm xã hội thực sự đi vào cuộc sống, để mọi
người dân hiểu rõ về chế độ bảo hiểm xã hội cần coi trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đúng về ý nghĩa của bảo hiểm xã
hội, động viên mọi người tích cực và chủ động tham gia công tác bảo hiểm xã
hội.

9


II. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
2.1 Mục tiêu, cơ sở lý luận và phân tích diễn biến tình huống:
Qua việc nghiên cứu tình huống ta thấy đây là một vấn đề cần nghiên cứu kỹ,
phân tích cụ thể để tìm ra sự đúng, sai trong tình huống này.
Rõ ràng, ông Nguyễn Hải Anh thắc mắc tại sao con ông chết vào ngày 27
tháng 4 năm 2018 (Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động ngày 02 tháng 4 năm
2018) lại không được giải quyết chế độ tử tuát là có cơ sở. Như vậy, anh Nguyễn
Văn Thành thuộc đối tượng bảo lưu thời gian đóng Bảo hiểm xã hội theo qui định
tại điều 57 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm 2016 và bị chết
trong thời gian bảo lưu. Gia đình đã thơng báo cho Công ty M và đã được Công ty
hỗ trợ một phần chi phí mai táng phí. Như vậy, mọi sự việc về cái chết của anh
Nguyễn Văn Thành, Công ty M biết rõ. Vậy thì tại sao người làm công tác chế độ
bảo hiểm xã hội của đơn vị không hướng dẫn ông Anh làm thủ tục đề nghị giải
quyết chế độ tử tuất cho anh Thành mà lại hướng dẫn ông Anh làm thủ tục giải
quyết chế độ trợ cấp một lần? Điều đó, chứng tỏ Cơng ty M cũng có trách nhiệm
với quyền lợi của người lao động là đã đề nghị giải quyết trợ cấp một lần nhưng do
thiếu hiểu biết về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội dẫn đến việc quyền lợi của
người lao động chưa được đảm bảo mà đúng ra là được giải quyết chế độ tử tuất
theo qui định tại điều 63, điều 66, điều 67 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH11 ngày
29 tháng 6 năm 2006; điều 35, điều 38, điều 39 Nghị định số 152/NĐ-CP ngày 22

tháng 12 năm 2006.
Vấn đề thứ hai: Ông Nguyễn Hải Anh do khơng hiểu biết về chế độ chính
sách bảo hiểm xã hội nên hồn tồn thụ động khi được Cơng ty M hướng dẫn làm
thủ tục đề nghị giải quyết trợ cấp một lần nên ơng đã tự mình ký tên Nguyễn Văn
Thành vào mục người làm đơn và đề nghị Uỷ ban nhân dân xã C ký xác nhận.
Vấn đề thứ ba: Uỷ ban nhân dân xã C cấp đơn đề nghị hưởng trợ cấp một lần
cho anh Nguyễn Văn Thành vào ngày 10 tháng 8 năm 2019 (trong khi đó anh
10


Thành đã chết) là khơng có cơ sở, thiếu sự kiểm tra, thiếu tinh thần phối hợp giữa
bộ phận tư pháp với cơng an xã quản lý hộ khẩu. Vì thực tế tại các xã hiện nay
công tác giao ban hàng tháng của các công an viên tại các thôn, xóm rất chặt chẽ
trong đó có việc báo cáo về số người biến động do chuyển đi, chuyển đến, chết…
Vấn đề thứ tư: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên nhận hồ sơ giải quyết chế độ
BHXH từ đơn vị sử dụng lao đông là Công ty M với thủ tục hồ sơ trợ cấp một lần
đầy đủ theo quyết định 815 QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo
hiểm xã hội Việt Nam. Vì vậy, Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên đã giải quyết cho
anh Thành hưởng trợ cấp một lần là đúng với qui định tại điều 55 Luật bảo hiểm xã
hội số 71/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006.
2.2 Nguyên nhân tình huống:
Như vậy, chúng ta thấy rằng từ một sự việc hết sức đơn giản nếu như người làm
công tác Bảo hiểm xã hội của Công ty M thực sự hiểu biết, nắm chắc các chế độ
BHXH để hướng dẫn thân nhân người lao động ngay từ đầu thì việc giải quyết chế
độ cho người lao động hết sức nhanh gọn kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người
tham gia bảo hiểm xã hội.
Đối với tình huống cụ thể này, điều quan trọng là cán bộ làm công tác tư
pháp của Uỷ ban nhân dân xã C quản lý nhân khẩu, hộ khẩu chưa chặt chẽ, thiếu sự
kiểm tra, cán bộ tư pháp của xã C thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện
chuyên mơn của mình dẫn đến sai sót nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng hiện nay cơng tác tun truyền các chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự có hiệu quả cao. Tuy
nhiên, vẫn còn một số hạn chế ở khả năng tiếp thu của một số người dân, kể cả một
bộ phận không nhỏ cán bộ, cơng chức, viên chức khơng có tinh thần học hỏi, không
nghiên cứu cập nhật văn bản để nâng cao năng lực chun mơn cơng tác của mình

11


dẫn đến sự việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại hướng dẫn thực hiện sai. Điều
đó, thực sự đã làm ảnh hưởng tới người dân cả về mặt kinh tế lẫn tinh thần.
2.3 Hậu quả của tình huống:
Việc nghiên cứu hậu quả của tình huống nhằm giúp ta tránh được sự cứng nhắc,
nguyên tắc, giáo điều trong việc thực hiện chế độ chính sách của người lao động.
Đồng thời, lường trước được hậu quả của tình huống giúp ta có thể đề ra giải pháp
hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế nhằm giải quyết đúng, kịp thời, đảm bảo
quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Từ đó, có biện pháp xử lý việc chấp
hành không đúng qui định trong việc thực hiện chế độ chính sách của Nhà nước và
đề ra những biện pháp phù hợp tránh lạm dụng quỹ bảo hiểm xã hội.
Tôi xin nêu một số hậu quả xảy ra với tình huống trên.
- Nếu xử lý giải quyết một cách máy móc thì người lao động sẽ bị thiệt thịi về
quyền lợi chính đáng do sự thiếu hiểu biết của cán bộ làm công tác chuyên môn tại
đơn vị sử dụng lao động.
- Nếu không điều chỉnh kịp thời những sai sót trên thì dẫn đến người dân có
thể bị mất niềm tin vào chính sách của Nhà nước ta. Trong khi đó, Đảng ta chủ
trương quan tâm đúng mức tới quyền lợi của người lao động, một ưu việt của Chủ
nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
- Có thể dẫn đến đổ lỗi trách nhiệm cho nhau.
- Nếu quá chủ quan trong việc tiếp nhận hồ sơ giải quyết có thể dẫn đến việc
lợi dụng lập hồ sơ để được xét hưởng trợ cấp Bảo hiểm xã hội có lợi hơn về mặt

kinh tế.

12


13


III. XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1 . Xây dựng phương án :
Cơ sở để xây dựng phương án:
- Theo qui định điều 63 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm
2006, điều 35 nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 qui định các
đối tượng sau khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng 10
tháng tiền lương tối thiểu chung.
- Theo qui định tại điều 67 Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH ngày 29 tháng 6 năm
2006, điều 39 ghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 qui định mức
hưởng trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân người lao động đang đóng bảo hiểm
xã hội hoặc người bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Đối chiếu với các quy định trên , trường hợp của anh Thành con ông Anh
thuộc đối tượng người lao động bảo lưu thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bị chết.
Như vậy, tôi xin nêu ra một số phương án xử lý tình huống như sau:
a. Phương án 1 :
Từ chối việc giải quyết lại chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Thành và hướng
dẫn ông Nguyễn Hải Anh làm đơn có xác nhận của chính quyền địa phương về việc
con trai ơng đã chết (vì khơng thể làm thủ tục uỷ quyền hợp lệ) trực tiếp đến Bảo
hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ để nhận trợ cấp một lần của anh Thành.
- Ưu điểm :
+ Thủ tục đơn giản, giải quyết việc nhận tiền nhanh chóng kịp thời.
+ Có cơ sở để giải quyết như vậy, vì tại thời điểm tháng 8 năm 2009 đã có đơn

đề nghị hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành có xác nhận của chính
quyền địa phương xã C.
- Nhược điểm :
14


+ Chưa thoả đáng về quyền lợi của người lao động cũng như thân nhân họ.
b. Phương án hai:
Không thực hiện chi trả trợ cấp một lần của anh Thành cho ơng Nguyễn Hải
Anh. Đồng thời, tiếp nhận đơn có xác nhận của chính quyền địa phươngvề sự việc
trên và thủ tục hồ sơ để giải quyết chế độ tử tuất cho anh Nguyễn Văn Thành.
Ưu điểm :
+ Đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội, khơng mất nhiều thời
gian của đối tượng, khơng cịn sự khiếu kiện.
+ Tạo được niềm tin của nhân dân.
Nhược điểm :
+ Nếu thực hiện theo phương án này thì cịn chủ quan, thiếu sự kiểm tra thực
tế có thể dẫn tới thực hiện xét duyệt chế độ sai quy định, gây hậu quả lâu dài. Có
thể gây thất thốt nghiêm trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế của đát nước.
c. Phương án 3:
Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ mời ơng Nguyễn Hải Anh trực tiếp trình
bày lại tồn bộ sự việc nhằm làm rõ thêm đơn đề nghị của ông. Từ đó, tư vấn để
ông hiểu hơn về chế độ chính sách Bảo hiểm xã hội và quyền lợi, nghĩa vụ của
người tham gia bảo hiểm xã hội. Đồng thời, hiểu rõ hơn trách nhiệm của chủ sử
dụng lao động đối với người lao động. Hướng dẫn ông nộp đầy đủ hồ sơ trợ cấp
một lần đã được Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên giải quyết và kèm theo giấy
chứng tử của anh Nguyễn Văn Thành đã được Uỷ ban nhân dân xã C cấp ngày 01
tháng 09 năm 2019.
Tiếp theo, Bảo hiểm xã hội huyện sẽ trực tiếp làm việc với Cơng ty M tìm ra
ngun nhân từ đó đưa ra hướng giải quyết đúng qui định. Đồng thời, Bảo hiểm xã

hội huyện Đồng Hỷ sẽ trực tiếp xuống tận địa bàn nơi gia đình ơng Anh sinh sống
15


để xác minh ngày, tháng, năm chết thực tế của anh Nguyễn Văn Thành. Từ đó, có
cơ sở để làm việc với Uỷ ban nhân dân xã C. Nếu thực tế anh Thành chết đúng với
ngày tháng năm đã ghi trên giấy chứng tử Uỷ ban nhân dân xã C đã cấp thì Bảo
hiểm xã hội huyện sẽ phối hợp với chính quyền địa phương hướng dẫn ơng Anh
làm các thủ tục tiếp theo để trình Bảo hiểm xã hội tỉnh xem xét giải quyết.
Ưu điểm:
+ Làm rõ được trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã C là phải thường xuyên
cập nhật sổ quản lý hộ khẩu các đối tượng đã chết, tăng cường công tác kiểm tra
trước khi ký xác nhận. Đồng thời, cũng làm rõ được trách nhiệm của Công ty M đối
với người lao động.
+ Bản thân ơng Anh và gia đình được hiểu biết hơn về các chế độ chính sách
bảo hiểm xã hội.
+ Thể hiện được tính nhân văn sâu sắc của chính sách Bảo hiểm xã hội là
ln ln bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động.
Nhược điểm:
+ Nếu xử lý theo tình huống này thì ngành Bảo hiểm xã hội phải đầu tư
nhiều thời gian để xác minh thực tế theo đơn trình bày của ơng Anh.
3.2. Lựa chọn Phương án tối ưu:
Từ sự phân tích đánh giá ưu, nhược điểm của các phương án trên, nên chọn
phương án 3, bởi vì:
Đây là phương án hữu hiệu nhất vừa đảm bảo thực hiện đúng pháp luật của
Nhà nước, vừa giải quyết thoả đáng chế độ cho người lao động hợp tình, hợp lý.
Đồng thời, bảo đảm nguyên tắc của ngành thu đúng, thu đủ, chi đúng, chi đủ, tránh
gây thất thốt của Nhà nước. Bên cạnh đó, làm tốt cơng tác tuyên truyền, động viên
để mọi người tham gia thực hiện tốt chế độ Bảo hiểm xã hội
16



3.3 Các bước để thực hiện phương án 3 :
Bước 1 : Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ căn cứ vào đơn trình bày của ơng
Anh, trực tiếp xuống làm việc với Uỷ ban nhân dân xã C xác minh ngày, tháng,
năm chết của anh Thành thông qua làm việc với các bộ phận tư pháp, cơng an,
đồng chí trưởng thơn 2, đồng chí bí thư chi bộ thơn 2 và người phụ trách công tác
dân số ở thôn 2.
Bước 2: Sau khi xác minh ngày chết của anh Thành đúng với giấy chứng tử
Uỷ ban nhân dân xã C đã cấp. Uỷ ban nhân dân xã C làm tờ trình giải trình về việc
đã sai sót trong việc ký xác nhận vào đơn hưởng trợ cấp một lần của anh Thành
(khi đó anh Thành đã chết) có xác nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Đồng Hỷ và đề
nghị Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ, Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên xem xét
giải quyết. Đồng thời, có trách nhiệm xử lý vi phạm hành chính đối với cán bộ
chuyên môn đã tham mưu cho lãnh đạo ký xác nhận.
Bước 3: Yêu cầu Công ty M làm tờ trình gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái
Nguyên, Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ giải trình sự việc đã lập hồ sơ đề nghị
giải quyết sai chế độ cho người lao động và đề nghị Bảo hiểm xã hội các cấp xem
xét, giải quyết lại chế độ BHXH cho anh Thành.
Bước 4: Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ có trách nhiệm hướng dẫn ơng
Anh lập đầy đủ thủ tục hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ tử tuất cho anh Thành hoàn
chỉnh gồm các giấy tờ sau:
- Sổ BHXH và quyết định hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn Thành;
- Đơn đề nghị không nhận trợ cấp một lần và đề nghị được hưởng chế độ tử tuất:
01 bản;
- Tờ khai hoàn cảnh gia đình: 04 bản;
- Giấy chứng tử: 4 bản (1 bản chính +3 bản sao hoặc cơng chứng)
17



Bước 5: Ông Anh trực tiếp đến bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội
huyện Đồng Hỷ nộp toàn bộ hồ sơ nêu trên. Cán bộ chuyên trách tại bộ phận giao
dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện kiểm tra hồ sơ đầy đủ tiếp nhận, lập phiếu hẹn
trả kết quả trong thời gian là 15 ngày làm việc theo Quyết định số 02/QĐ-BHXH
ngày 15 tháng 02 năm 2009 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ và
Quyết định số 132/QĐ-BHXH ngày 11 tháng 02 năm 2009 của Giám đốc bảo hiểm
xã hội tỉnh Thái Nguyên.
Bước 6 : Bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ
chuyển bàn giao cho bộ phận chế độ bảo hiểm xã hội xử lý nghiệp vụ. Tiếp theo, bộ
phận chế độ bảo hiểm xã hội phối hợp với bộ phận kế toán đối chiếu với danh sách
chuyển nguồn tháng 8 năm 2019 để xem số tiền trợ cấp một lần của anh Thành mà
Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên cấp về trong tháng 8 năm 2019. Đồng thời, thực
hiện ý kiến chỉ đạo của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ soạn thảo văn
bản gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên xem xét, giải quyết. Trong đó, xác nhận
rõ Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ chưa thực hiện chi trả trợ cấp một lần cho thân
nhân anh Nguyễn Văn Thành.
Bước 7: Bộ phận chế độ chính sách bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ tiến
hành thu thập toàn bộ đầy đủ hồ sơ của anh Thành (Bao gồm: hồ sơ ông Anh nộp;
Biên bản xác minh ngày, tháng, năm chết của anh Thành; Công văn đề nghị của
Bảo hiểm xã hội huyện; Tờ trình của Cơng ty A) nộp cho Phòng tiếp nhận – quản lý
hồ sơ Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên. Phòng tiếp nhận – quản lý hồ sơ sẽ lập
phiếu hẹn trả kết quả trong thời gian ngắn nhất là 10 ngày làm việc.
Bước 8: Các phòng nghiệp vụ ở Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên sẽ phối
hợp xử lý, rút hồ sơ trợ cấp một lần của anh Thành để tính tốn lại số tiền trợ cấp tử
tuất một lần dựa trên hồ sơ tham gia BHXH của anh Thành và tiền mai táng phí.
Sau đó, sẽ đối trừ với số tiền trợ cấp BHXH một lần đã được xét duyệt trước đó.
Tiến hành cấp nguồn kinh phí về cho Bảo hiểm xã hội huyện kịp thời. Đồng thời,
18



đính kèm hồ sơ giải quyết trợ cấp tử tuất một lần cho anh Thành với hồ sơ trợ cấp
một lần trước đó và lưu trữ đúng qui định.
Bước 9: Đến ngày hẹn Bảo hiểm xã hội huyện Đồng Hỷ trực tiếp phòng giao
nhận hồ sơ Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên nhận lại 2 bộ hồ sơ hưởng trợ cấp tử
tuất một lần của anh Nguyễn Văn Thành. Sau đó, Bảo hiểm xã hội huyện có trách
nhiệm thơng báo cho ông Anh đến nhận kết quả giải quyết theo đúng thời gian đã
hẹn. Đồng thời, tách hồ sơ, 01 bộ chuyển bộ phận hồ sơ đưa vào lưu trữ và tiến
hành bàn giao 01 bộ hồ sơ trợ cấp tử tuất một lần cho ông Anh.

19


IV. KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội có vị trí quan trọng đối với công tác an sinh xã hội của mỗi
quốc gia. Cùng với yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa,
từng thời kỳ khác nhau, các quy định về chính sách Bảo hiểm xã hội được sửa đổi
bổ sung một cách linh hoạt, phù hợp nhằm đáp ứng, huy động tối đa về sức người,
sức của của nhân dân cho công cuộc Cách mạng, ổn định dần dần và ngày càng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động.
Vấn đề mà tình huống đưa ra đã được phân tích đúng, sai, có phương án tối ưu
để thực hiện giải quyết chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động, vừa đúng với
các qui định của nhà nước, vừa thấu tình đạt lý. Điều quan trọng nhất là chế độ của
người lao động được đảm bảo, các đơn vị sử dụng lao động có liên quan đến tình
huống trên nhận thấy được những khuyết điểm của cán bộ mình đang quản lý. Từ
đó, có những biện pháp khắc phục kịp thời và có hình thức xử lý vi phạm đúng đắn.
Đồng thời, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra khi xử lý nghiệp vụ hàng ngày.
Cán bộ trực tiếp làm công việc chuyên môn cũng nhận thấy được những sai sót và
rút kinh nghiệm trong xử lý nghiệp vụ và cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để nâng
cao kiến thức, năng lực chuyên môn nhằm phục vụ tốt hơn cơng tác.
- Việc thực hiện giải quyết chế độ chính sách cho người lao động theo Luật baỏ

hiểm xã hội được đối tượng cũng như chủ sử dụng lao động yên tâm và thực sự tin
tưởng vào sự nghiệp phát triển của ngành Bảo hiểm xã hội.
Qua gần 25 năm ra đời và đi vào hoạt động , kết quả đạt được của ngành Bảo
hiểm xã hội hết sức khả quan , đặc biệt là vấn đề thu nộp Bảo hiểm xã hội . Kết quả
thu được cao gấp hàng chục lần những năm trước đây. Thực hiện lộ trình cải cách
hành chính theo cơ chế một cửa đã thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt. Việc giải quyết
các chế độ BHXH cho người lao động được tiến hành kịp thời và khoa học hơn ,
chính xác hơn , tránh được tình trạng gian lận hồ sơ. Thực hiện tốt chính sách bảo
hiểm xã hội nhằm đảm bảo ổ định kinh tế, an ninh, an toàn trật tự xã hội.
20


V. KIẾN NGHỊ
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước , thể hiện sự
quam tâm đối với quyền lợi của người lao động .Việc thực hiện các chế độ chính
sách Bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới phù hợp với cơ chế thị trường, dựa trên
nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH là hoàn toàn đúng .
1. Sau khi thực hiện Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH11 ngày 29 tháng 6 năm
2006 chúng ta thấy rằng: Luật bảo hiểm xã hội là hành lang pháp lý cao nhất để
mọi tổ chức, cá nhân chấp hành qui định về chính sách bảo hiểm xã hội theo qui
định của Pháp luật. Trong q trình thực hiện cơng tác ngành Bảo hiểm xã hội đã
góp phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội của Đảng và
Nhà nước đề ra, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong q trình thực
hiện vẫn cịn nhiều vấn đề tồn tại và bất cập.
- Về qui định mức đóng vào quỹ ốm đau và thai sản bằng 3%; trong đó người
sử dụng lao động giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện
hưởng các chế độ ốm đau, thai sản. Thực tế, hiện nay ở Hà Tĩnh phần lớn các đơn
vị sử dụng lao động có số lao động ít, số 2% tổng quỹ lương để lại hàng quý là rất
nhỏ, không đủ để chi trả cho người lao động khi họ hưởng chế độ thai sản. Trong
khi đó, nhiều đơn vị nguồn kinh phí hạn hẹp nên họ khơng chủ động được nguồn

kinh phí để thanh tốn cho người lao động mà phải chờ đến đầu quý sau quyết tốn
xong với cơ quan Bảo hiểm xã hội mới có tiền để trả cho người lao động. Như vậy,
chúng ta khơng thể nói là chi trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản cho người lao
động. Xuất phát từ những bất cập đó Nhà nước chúng ta cần phải có giải pháp khắc
phục tình trạng trên để đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia bảo
hiểm xã hội.
- Về chế độ trợ cấp tuất hàng tháng cho các đối tượng là con từ 15 tuổi trở lên;
vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, cha chồng, mẹ vợ, mẹ chồng nếu dưới 60 tuổi đối nam,
dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mới được
21


hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Nhưng việc qui định thời hạn giới thiệu giám định
mức suy giảm khả năng lao động trong vòng 2 tháng kể từ khi người lao động chết
là q ngắn.
2. Bên cạnh đó, cơng tác thông tin tuyên truyền chưa làm được nhiều, đội
ngũ làm cộng tác tuyên truyền chưa đủ mạnh cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy
cần sớm có chính sách, biện pháp đầu tư thoả đáng vào công tác thông tin - tuyên
truyền , không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền các chế độ , chính sách của Đảng và
Nhà nước mà cần phải đẩy mạnh tuyên truyền về mọi mặt hoạt động của hệ thống
BHXH việt nam cũng như kinh nghiệm về BHXH trong mọi tầng lớp người lao
động và tồn xã hội, tiến tới xã hội hố về BHXH. Thơng qua đó giúp người lao
động thấy rõ được quyền lợi và nghĩa vụ và nâng cao trách nhiệm của mình trong
việc tham gia BHXH . Cần khẳng định rằng : Chỉ khi nào người lao động có nhận
thức đầy đủ về lĩnh vực BHXH thì chính họ sẽ là người giám sát chủ sử dụng lao
động trong việc chấp hành , thực hiện nghiêm túc các chế độ , chính sách Bảo hiểm
xã hội.
3. Một số đơn vị, doanh nghiệp tuy có thành lập tổ chức cơng đồn, nhưng tổ
chức này mới chỉ hoạt động có mức độ, chưa nghiên cứu thật sâu các chế độ, chính
sách BHXH nên cũng chưa đòi hỏi quyền lợi cho người lao động. Trong khi đó ,

các chủ sử dụng lao động vì lợi ích cá nhân, bằng mọi cách cố tình trốn tránh nghĩa
vụ tham gia BHXH. Cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội tại một số đơn vị chưa
thực sự nắm bắt được các qui định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, làm việc
thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến những sai sót khơng đáng có. Vì vậy, cần phải
bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác bảo hiểm xã hội cho các đơn vị sử dụng lao động
thôg qua các kênh thông tin tuyên truyền, các lớp tập huấn…
4. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành cùng với ngành
Bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội.
22


5. Qua nhìn nhận tình huống trên ta thấy rằng cần phải coi trọng yếu tố con
người. Để có một xã hội trong sạch vững mạnh chúng ta cần có những con người
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có tinh thần trách
nhiệm, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Luôn đấu tranh với tệ tham
nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý
nghiệp vụ hàng ngày. Làm được như vậy là chúng ta đã góp phần làm cho bộ máy
Nhà nước ta ngày càng vững mạnh.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam số
71/2006/QH 11 ngày 29 tháng 6 năm 2006;
2. Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số
điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc;
3. Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 hướng dẫn một số điều
của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006.
4. Quyết định 815/QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã

hội Việt Nam.

24



×