Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Đề tài pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng techcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.3 KB, 64 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Ngày nay, sự bùng nổ về cơng nghệ, thơng tin và kỹ thuật kết hợp với tính năng động của thị trường đã làm xuất
hiện nhiều loại hình kinh doanh và sản xuất mới, tuy nhiên để theo kịp với xu hướng và sự phát triển nhanh chóng này thì
khơng phải mọi doanh nghiệp, tổ chức đều có đủ khả năng về tài chính. Do đó, hiện nay một trong những vấn đề quan
trọng nhất để các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế tiến hành kinh doanh hiệu quả là phải huy động đủ vốn từ các nguồn
khác nhau để đáp ứng đủ cho q trình đó.
Với chức năng là trung gian tín dụng, hoạt động của các NHTM và các TCTD hiện nay đóng vai trị quan trọng
trong việc huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Các NHTM thực hiện huy
động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cơ quan, cá nhân ... và sử dụng nguồn vốn này để cho vay, đáp ứng nhu
cầu vốn trong hoạt động kinh tế, góp phần kích thích q trình ln chuyển vốn của tồn xã hội và thúc đẩy quá trình tái
sản xuất.
Hiện nay, cho vay là một hình thức cấp tín dụng chủ yếu trong hoạt động tín dụng của các NHTM tại Việt nam.
Trong q trình cho vay, các NHTM phải có trách nhiệm với khoản tiền cho vay, đảm bảo thu hồi được vốn và lãi, nên việc
áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay là điều tất yếu tại các ngân hàng. Cũng như các NHTM khác, Techcombank (Ngân
hàng Thương Mại cổ Phần Kỹ Thương) cũng thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng
các biện pháp bảo đảm tiền vay, các NHTM cịn gặp một số khó khăn, đặc biệt trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm.
Với lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm Những vấn đề lý luận và thực tiên áp dụng tại Ngân hàng Techcombank” cho báo cáo thực tập của mình. Trong đề tài này,
các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng; bảo lãnh bằng tài sản
của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đây là ba biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
quan trọng được các NHTM và các TCTD nói dung và Techcombank nói riêng sử dụng.
Báo cáo này bao gồm ba phần sau:
I/ Cơ sở pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm
II/ Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản và việc xử lý tài sản bảo đảm tại ngân hàng Techcombank
III/ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm tại ngân


hàng Techcombank



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

TMCP

Thương mại cố phẩn

TCTD

Tổ chức tín dụng

DVKH

Dịch vụ khách hàng

SME

Khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ

Techcombank

Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam

Nghị định 165/1999/NĐ-CP
Nghị định 178/1999/NĐ-CP

Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm

Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày
29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng

Nghị định 163/2006/NĐ-CP

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày

Nghị định 05/2005/NĐ-CP

29/11/2006 về giao dịch bảo đảm
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của
Chính phủ về ban hành quy chế bán đấu giá tài sản

Nghị định 08/2000/NĐ-CP

Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm

TTLT 03/2001/TTLT-NHNN- BTP-

Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP- BCA-

BTC-TCĐC

BTC-TCĐC ngày 23/04/2001 hướng dẫn việc xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín

dụng
Quyẻt
định

1627/2001/QĐNHNN
số tịch
1627/2001/QĐ-NHNN
của Thống đốc
TTLT 05/2005/TTLT-BTP- BTNMT Quyẻt
Thơng định
tư liên
số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT
ngày
Ngân
hàngcủa
NhàBộ
nước
ngày 31/12/2001
về việc
ban hành
16/6/2005
Tư pháp,
Bộ Tài ngun
và Mơi
quy
chếhướng
cho vay
tổ đăng
chức ký
tín thế
dụng
đối bảo
với khách
hàng

trường
dẫncủa
việc
chấp,
lãnh bằng
Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN

quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quy chế cho vay của TCTD đối
với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số

1627/2001/QĐ-NHNN
Quy chế về bảo đảm bằng tài sản
Quy chế về đảm bảo bằng tài sản của Ngân hàng
tại ngân hàng TMCP Kỹ Thuong Việt TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Ban hành kèm theo quyết
Nam

định số 238/QĐ-HĐ ngày 23/02/2001 của Chủ tịch Hội
Đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam)


CHƯƠNG I
Cơ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
I/ KHÁI QUÁT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ CÁC BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH
1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản

1.1 Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các
tổ chức tín dụng.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp cần có nguồn vốn tốt.
Nguồn vốn này có thể là vốn tự có, và có thể là vốn vay từ các ngân hàng và các TCTD.
Chính vì thế, trong khoảng 10 năm trở lại đây, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp lý
xung quanh vấn đề bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, khơng có một văn
bản có hiệu lực pháp lý nào định nghĩa về “bảo đảm tiền vay”. Ngày 29/12/1999, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
(sau đây gọi là Nghị định 178/1999/NĐ-CP) trong đó có định nghĩa “bảo đảm tiền vay” như
sau: “Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ
sở kinh tế và pháp luật để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay” (Điều 2.1 Nghị
định 178/1999/NĐ-CP). Tuy nhiên, ngày 29/11/2006, Chính phủ lại ban hành Nghị định
163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là Nghị định 163/2006/NĐ-CP), thay thế
cho Nghị định 178/1999/NĐ-CP. Nghị định 163/2006/NĐ-CP không đưa ra định nghĩa về
“bảo đảm tiền vay” mà chỉ quy định thế nào là “bên bảo đảm”, “bên nhận bảo đảm”, “bên
bảo đảm ngay tình”. Như vậy, trong tất cả các văn bản pháp lý có hiệu lực tính đến năm 2009,
không một văn bản nào đưa ra khái niệm chuẩn về “bảo đảm tiền vay”. Tuy vậy, với quan
điểm riêng của mình và căn cứ vào các quy định của Nghị định 163/2006/NdĐ-CP thì “bảo
đảm tiền vay” chính là “những biện pháp được các TCTD áp dụng cho các hoạt động tín
dụng của mình với mục đích làm tăng khả năng thu hồi khoản tiền đã cho vay”.


Với định nghĩa trên, ta thấy bảo đảm tiền vay có ba vai trị chính và quan trọng nhất,
đó là:
Thứ nhất, bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý đế các TCTD thu hồi khoản nợ của
khách hàng đổi với mình.
Trước khi cho vay một khoản tiền, các TCTD thường yêu cầu khách hàng của mình
phải đảm nảo cho khoản tiền vay bằng tài sản để lương trước sự rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của khách hàng. Thông qua hợp đồng tín dụng, hai bên thỏa thuận về quyền và nghĩa
vụ của của mình đối với tài sản bảo đảm đó. Trường hợp khách hàng vay khơng có khả năng

trả nợ, ngân hàng có tồn quyền quyết định việc xử lý tài sản bảo đảm đã thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng và sử dụng tài sản đó để khấu trừ vào khoản nợ của khách hàng. Để hoạt
động kinh doanh tiến hành thuận lợi, đảm bảo lợi ích của các bên, TCTD dùng các biện pháp
bảo đảm tiền vay đảm bảo cho ngân hàng thu hồi nợ.
Thứ hai, bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng
của các TCTD.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của các TCTD là điều không thể tránh khỏi. Các
TCTD cho khách hàng vay tiền với mục đích gián tiếp đầu tư khoản tiền đó, thông qua các
hoạt động kinh doanh, hoạt động sản xuất, dự án đầu tư... của khách hàng và thu lợi nhuận từ
khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, các dự án kinh doanh, sản xuất hay đầu tư của khách hàng khơng
phải lúc nào cũng diễn ra sn sẻ và có lợi nhuận. Điều này phụ thuộc vào sự biến động của
thị trường và cơ hội kinh doanh của khách hàng, là những yếu tố khó đốn trước (mặc dù khi
đi vay, khách hàng luôn đưa ra lý do thuyết phục nhất, thể hiện khả năng thu lời cao nhất để
TCTD cho mình vay tiền). Vì vậy, ngân hàng cần áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để
đảm bảo rằng trong trường hợp khách hàng của mình khơng thể trả khoản nợ đã vay, ngân
hàng vẫn có thể thu hồi khoản tiền đã cho vay (một phần hoặc tất cả khoản vay). Bảo đảm
tiền vay là biện pháp giúp ngân hàng giảm rủi ro trong hoạt động cho vay tài chính của mình.
Thứ ba, bảo đảm tiền vay bảo vệ quyền lợi và hạn chế tranh chấp xảy ra giữa các
bên tham gia hoạt động tín dụng.


Trong hợp đồng tín dụng được kí kết giữa khách hàng và các TCTD, các bên có
quyền thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp khách hàng không trả nợ được khoản tiền đã vay, TCTD có tồn quyền đối
với tài sản bảo đảm theo như đã thỏa thuận trong hợp đồng và quyền lợi của TCTD sẽ không
bị xâm phạm. Tranh chấp giữa khách hàng vay và TCTD cũng sẽ được hạn chế bởi các bên
chỉ bị xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận đã nêu trước đó trong hợp đồng tín dụng.
1.2.

Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản


1.2.1.

Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản.

Hiện nay trong các văn bản pháp luật hiện hành, không một văn bản nào đưa ra định
nghĩa về “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản”. Căn cứ vào cách giải thích từ ngữ quy
định tại Điều 2 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ta có thể hiểu “biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
tài sản” chính là việc sử dụng tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Nghị định 163/2006/NĐ-CP không quy định rõ các biện pháp nào là biện pháp bảo
đảm tiền vay bằng tài sản, tuy nhiên Khoản 1 Điều 3 Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP lại quy
định: “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách
hàng vay; Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn
vay.”
về bản chất, bảo đảm tiền vay bằng tài sản chính là việc bên bảo đảm xác nhận trong
hợp đồng tín dụng về quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản mà bên bảo đảm đưa ra để
bảo đảm cho khoản vay của mình, trong trường hợp bên bảo đảm khơng thực hiện được nghĩa
vụ trả nợ. Bên nhận bảo đảm sẽ có tồn quyền quyết định đối với tài sản đó. Nếu bảo đảm
tiền vay bằng cầm cố, thế chấp chính tài sản của khách hàng vay thì đối tượng trực tiếp được
đưa ra bảo đảm là tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của người bảo đảm. Tài sản đó được đem ra
bảo đảm cho chính nghĩa vụ trả nợ của người đó đối với ngân hàng. Nếu bảo đảm tiền vay
bằng cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh thì đối tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là
sự cam kết. Khi nghĩa vụ đã cam kết giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo đảm bị vi phạm
thì bên bảo lãnh mới sử dụng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.


Nếu bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay thì tài sản bảo đảm là tài sản hình
thành trong tương lai.
Như vậy, nhìn chung các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản có những đặc điểm
sau:

Thứ nhất: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là sự thỏa thuận của các bên
tham gia quan hệ tín dụng.
Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004 quy định:
“TCTD có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc khơng có bảo đảm
bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. TCTD khơng được cho vay trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu
của chính TCTD cho vay.”
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hồn tồn khơng bắt buộc, và phụ
thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, các bên thỏa thuận để
bảo đảm quyền lợi của mình khơng bị xâm phạm khi một bên vi phạm hợp đồng tín dụng.
Thứ hai: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp mang tỉnh dự
phịng.
Tính dự phịng của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thể hiện ở chỗ tài sản
bảo đảm chỉ được đem ra xem xét và giải quyết khi người đi vay không thực hiện được nghĩa
vụ hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình đối với bên cho vay. Tính dự phịng này
giúp kích thích người đi vay nâng cao nghĩa vụ trả nợ của mình. Tài sản của họ sẽ khơng bị
xử lý nếu họ thực hiện đúng theo thỏa thuận đã nêu trong hợp đồng bảo đảm tiền vay, hợp
đồng tín dụng.
1.2.2,

Các loại biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản

Trong 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự quy định tại Khoản 1 điều 318
BLDS 2005. Trên thực tế có những biện pháp sau: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách
hàng; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay, là các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được ngân hàng áp dụng:


- Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền
sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

dân sự (Điều 326 BLDS 2005).
Việc chuyển giao tài sản bảo đảm trong cầm cố là chuyển giao thực tế, do đó chỉ
được coi là hồn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản khi bên nhận cầm cố hoặc người thứ ba
được bên nhận cầm cố ủy quyền đã giữ tài sản. Như vậy, tài sản cầm cố có thể do bên nhận
cầm cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy quyền cho người thứ ba giữ tài sản. (Điều 16 Nghị định
163/2006/NĐ-CP)
- Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở
hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận
thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều 342 BLDS
2005).
Hợp đồng cầm cố tài sản và thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, ghi rõ giá
trị tài sản và thời hạn đảm bảo.
Có hai điểm khác biệt quan trọng giữa hai biện pháp cầm cố và thế chấp mà ta cần
lưu ý như sau:
Thứ nhất: Việc chuyển giao tài sản: Nếu áp dụng biện pháp cầm cổ thì tài sản phải
được chuyển giao cho bên nhận cầm cổ giữ.
BLDS 2005 không căn cứ vào việc phân biệt tài sản bảo đảm là động sản hay bất
động sản để quy định hình thức hợp đồng bảo đảm là cầm cố hay thế chấp, mà căn cứ vào
tiêu chí là khả năng dịch chuyển của tài sản. Nếu là cầm cố tài sản thì phải chuyển giao tài
sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố. Cịn nếu là thế chấp tài sản thì khơng phải chuyển
giao tài sản từ bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp chỉ phải giao các
giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng của mình đối với tài sản cho bên nhận thế chấp.
Thứ hai: Người thứ ba giữ tài sản cầm cổ và người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp, việc người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải do cả hai bên
thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận và thống nhất ý kiến, đồng thời người này có các
quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 352 và Điều 353 BLDS 2005. Còn trường hợp cầm


cố, việc người thứ ba giữ tài sản hoàn toàn do ý chí của bên nhận cầm cố thơng qua việc ủy
quyền. Thực chất, quan hệ giữa bên nhận cầm cố và người thứ ba giữ tài sản cầm cố là quan

hệ độc lập mang tính chất của hợp đồng gửi giữ tài sản. Do đó, ngay cả khi người thứ ba giữ
tài sản thì bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm trước bên cầm cố về việc thực hiện các
nghĩa vụ theo quy định tại Điều 332 BLDS 2005 và các nghĩa vụ khác mà các bên đã thỏa
thuận.
- Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh), sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo
lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình (Điều 361 BLDS 2005).
Thơng qua biện pháp bảo lãnh, chủ nợ (bên có quyền) có được một con nợ dự bị (bên
có nghĩa vụ), bên cạnh con nợ chính. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng vay trở thành con
nợ của ngân hàng thơng qua hợp đồng cho vay. Đó là con nợ chính. Cịn người bảo lãnh cho
khách hàng vay sẽ phải thực hiện nghĩa vụ như con nợ, nếu con nợ khơng thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình, dựa trên cam kết bảo lãnh. Đó chính là con nợ dự bị.
Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một quan hệ độc lập, có thể phát
sinh từ thỏa thuận giữa hai bên (đặc biệt là trong trường hợp bảo lãnh có thù lao) hoặc phát
sinh từ quyền yêu cầu hoàn trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Bên bảo lãnh phải có tài sản lớn hơn
tài sản mà họ đứng ra bảo lãnh.
Thay đối về các biện pháp bảo lãnh.
BLDS 2005 không định nghĩa “bảo lãnh bằng tài sản” như các văn bản trước đây và
cũng khơng có quy định về việc cấm các bên xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự theo hình thức “bảo lãnh bằng tài sản” và trong trường hợp này gọi là bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.


BLDS 2005 đưa ra quy định riêng về xử lý tài sản bảo lãnh. Điều 369 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà
bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa

tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”.
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay và các điều kiện về tài sản bảo đảm.
1.3.1.

Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay.

Với ba vai trị chính và quan trọng của bảo đảm tiền vay như đã phân tích tại Phần
1.1- Chương I (là cơ sở pháp lý đế các TCTD thu hồi khoản nợ của khách hàng đổi với mình
và là biện pháp giúp giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng của các TCTD), biện pháp bảo
đảm tiền vay được hầu hết tất cả các ngân hàng và các TCTD hiện nay áp dụng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản lại được ưu tiên sử dụng rộng rãi và thường xuyên hơn
cả. Các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản có độ an tồn cao hơn những khoản vay áp dụng
các biện pháp bảo đảm khác. Trường hợp có vi phạm hợp đồng và có tranh chấp giữa bên vay
(khách hàng) và bên cho vay, thì độ rủi ro của khoản vay có tài sản bảo đảm cũng giảm thấp
hơn so với các khoản vay khơng có tài sản bảo đảm. Với sự biến động khó lường của thị
trường, sự cạnh tranh cao giữa các nhà sản xuất, những khó khăn khơng thể đốn trước được
trong q trình hoạt động kinh doanh ... khiến thua lỗ, phá sản có khả năng xảy ra cao. Các
biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản sẽ tăng độ an toàn cho các khoản vay, hạn chế các
tổn thất của các TCTD khi khách hàng khơng có khả năng trả nợ cho khoản tiền mình đã vay.
Như vậy, tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng, chủ yếu nhất trong hoạt động cho vay của
các TCTD.
Khoản 7 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP định nghĩa về tài sản bảo đảm như sau:
“Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối
với bên nhận bảo đảm”.
Tài sản được dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay rất phong phú và đa dạng. Ngoài các
loại tài sản được quy định tại BLDS 2005: Bất động sản và động sản; quyền tài sản, hiện nay
pháp luật Việt Nam cũng cho phép sử dụng tài sản hình thành trong tương lai làm tài sản bảo
đảm nghĩa vụ. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định: “Tài sản hình thành



trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập
hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản
đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết
giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm.”
Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai
thì khi bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm, bên nhận bảo
đảm có các quyền đối với một phần hoặc tồn bộ tài sản đó. Ví dụ: “Ngân hàng nhận bảo
đảm bằng cơng trình xây dựng hình thành trong tương lai, thì khi bên bảo đảm hồn thành
hạng mục nào của cơng trình, ngân hàng cũng có ngay quyền xử lý đối với hạng mục đó để
thu hồi nợ, chứ khơng phải chờ đến khi cơng trình được hoàn thành đồng bộ mới được coi là
tài sản bảo đảm.”
Đối với tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu mà bên bảo đảm chưa
đăng ký thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý. Ví dụ: “Ngân
hàng tài trợ vốn để xây dựng nhà ở và nhận bảo đảm bằng chính ngơi nhà sẽ được xây, thì
ngân hàng có quyền xử lý ngơi nhà để thu hồi nợ kể cả khi con nợ chưa làm thủ tục cấp sổ
hồng.”
Tài sản hình thành trong tương lai là đối tượng của quan hệ thế chấp. Bên thế chấp có
nghĩa vụ tạo điều kiện để bên nhận thế chấp thực hiện quyền giám sát, kiểm tra quá trình hình
thành tài sản. Việc giám sát, kiểm tra của bên nhận thế chấp khơng được cản trở hoặc gây khó
khăn cho việc hình thành tài sản.
“Tài sản hình thành từ vốn vay” về bản chất chính là tài sản hình thành trong tương
lai, tuy nhiên giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của khách
hàng vay. Trên thực tế, ngân hàng rất khó định giá tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm
nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đã được đầu tư vào tài sản đó, đặc biệt, lại phải xác định
số tiền vay cho phù hợp với quy định số tiền vay phải nhỏ hơn giá trị tài sản đem bảo đảm.
Xảy ra tình trạng này là vì tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ vay, ngân hàng chỉ có thể đánh giá tài
sản hình thành trong tương lai thông qua các hồ sơ, giấy tờ liên quan mà khách hàng vay
cung cấp, tuy nhiên giá trị tài sản hình thành trong tương lai lại thay đổi lên xuống khó lường



tùy theo biến động của thị trường. Chính vì vậy, các ngân hàng và TCTD thường thắt chặt
hạng mục cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
1.3.2.

Các điều kiện để tài sản trở thành tài sản bảo đảm.

Như đã phân tích tại phần 1.3.1, tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành rất phong phú và đa dạng, nhưng không phải tất cả các loại tài sản đều có thể được sử
dụng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Đe trở thành tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ thì tài sản phải thoả mãn một số điều kiện sau:
Thứ nhất: Tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của bên bảo đảm (Điều 320 BLDS 2005).
“Điều 320 BLDS 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm
và được phép giao dịch.
2. Vật dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành
trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của
bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.”
Điều kiện này được đặt ra bởi trên thực tế, khi bên bảo đảm không thực hiện được
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thì tài sản bảo đảm
lúc này sẽ bị đưa ra phát mại để thực hiện nghĩa vụ chính trong hợp đồng tín dụng. Do đó, tài
sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Đe chứng minh được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, bên bảo đảm phải xuất
trình các giấy tờ, tài liệu, và các văn bản có liên quan thể hiện quyền sở hữu hợp pháp của
mình đối với tài sản đó.
Tài sản thuộc sở hữu của nhiều người đem ra làm tài sản bảo đảm phải được cam kết
bằng văn bản của các đồng sở hữu và tài sản đó khơng có tranh chấp.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể, tài sản của doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần,
công ty TNHH phải có nghị quyết bằng văn bản của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ
đông hoặc Hội đồng thành viên đồng ý và ủy quyền cho người đại diện vay vốn và ký hợp



đồng bảo đảm. Tài sản của hộ gia đình phải có cam kết đồng ý của các đồng sở hữu trong gia
đình.
Tuy nhiên, có một ngoại lệ nằm ngồi quy định này. Đối với Doanh nghiệp Nhà nước
khi cầm cố tài sản của nhà nước giao cho doanh nghiệp để vay vốn ngân hàng thì tài sản đó
chỉ phải thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp đó và là tài sản được dùng
để bảo đảm tiền vay (khoản 3 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
Thứ hai: Tài sản bảo đảm tiền vay phải được phép giao dịch.
Tài sản được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch theo quy định của pháp
luật tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm. Tài sản bị hạn chế giao dịch, lưu thông với
những điều kiện nhất định thì vẫn được coi là tài sản được phép giao dịch, nhưng khi xử lý tài
sản bảo đảm thì phải tuân thủ đầy đủ điều kiện đó.
Điều kiện này bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm. Trong trường hợp bên
bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện khơng đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo
đảm vẫn giữ được quyền và lợi ích của mình. Nếu tài sản bảo đảm thuộc loại tài sản bị pháp
luật cấm giao dịch, bên nhận bảo đảm sẽ không được đảm bảo về mặt pháp lý để xử lý tài sản
bảo đảm và sẽ gặp nhiều tổn thất. Do đó, tài sản bảo đảm phải là tài sản được phép giao dịch.
Thứ ba: Tài sản khơng có tranh chấp.
Bên bảo đảm phải chứng minh và cam kết bằng văn bản về tình trạng khơng có tranh
chấp quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Thứ tư: Giả trị tài sản bảo đảm tiền vay có thế lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 5 Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
Các quan hệ bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận của các bên và được ghi nhận trong
hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm. Chính vì vậy pháp luật hiện nay không đưa ra
giới hạn cụ thể cho giá trị tài sản bảo đảm được các bên thỏa thuận. Điều 5 Nghị định
163/206/NĐ-CP quy định: “Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện
nhiều nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 324 Bộ luật Dân sự thì các bên có thể
thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được
bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”



Những tài sản bảo đảm thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ được dùng để bảo đảm tiền
vay tại các TCTD. Riêng đối với tài sản bảo đảm là giá trị quyền sử dụng đất thì điều kiện
của tài sản bảo đảm sẽ do pháp luật về đất đai quy định.
Việc không ấn định tỉ giá cụ thể giữa khoản tiền vay và giá trị tài sản bảo đảm đã mở
rộng hơn quyền tự do kinh doanh của các TCTD, phần nào đó tạo ra những cơ hội mới để các
TCTD cạnh tranh bình đẳng với nhau.
2. Các biện pháp bảo đảm tài sản bằng tiền vay theo quy định của pháp luật hiện hành.
2.1.

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cổ, thế chấp của khách hàng vay và
của bên bảo lãnh.
2.1.1.

Nguyên tắc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cổ, thế chấp của

khách hàng vay và của bên bảo lãnh.
Cùng với những nguyên tắc chung của bảo đảm tiền vay bằng tài sản, mỗi biện pháp
bảo đảm tiền vay cụ thể lại có những nguyên tắc riêng nhất định. Những nguyên tắc này
mang tính định hướng, buộc các bên bảo đảm (bao gồm khách hàng vay là bên cầm cố, thế
chấp tài sản và bên bảo lãnh) và bên nhận bảo đảm (ngân hàng và các TCTD) phải tuân theo
khi tham gia vào quan hệ tín dụng bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh (bảo
đảm bằng tài sản của bên thứ ba).
Nghị định 163/2006/NĐ-CP hiện nay khơng có điều luật cụ thể nào quy định về các
nguyên tắc của bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh
của bên thứ ba. Tuy nhiên, trên thực tế, khi tham gia vào các quan hệ tín dụng bảo đảm tiền
vay, các bên thường tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Khi vay tiền tại ngân hàng và các TCTD, khách hàng phải đem tài sản của
mình ra cầm cố, thế chấp, hoặc phải được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ trả nợ đồi với ngân hàng, các TCTD, trừ trường hợp được TCTD cho vay có
bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đây là nguyên tắc đầu tiên trong mọi giao dịch
tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.


Thứ hai: Việc lựa chọn áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của
khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba giữa khách hàng vay và ngân hàng, các TCTD
phải được lập thành văn bản cụ thể.
Thứ ba: TCTD có quyền quyết định lựa chọn tài sản đủ điều kiện để làm bảo đảm cho
khoản vay của mình cũng như quyết định lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản cho
khách hàng vay.
Thứ tư: Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản là
giá trị quyền sử dụng đất, tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng đối với bên bảo lãnh là Doanh
nghiệp Nhà nước. TCTD và bên bảo lãnh có thể thoả thuận việc áp dụng hoặc không áp dụng
biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Trường hợp bên bảo lãnh là TCTD thì việc thực hiện bảo lãnh theo quy định về bảo lãnh
ngân hàng quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004 và các quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ năm: Đối với giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất có đủ điều kiện
làm tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật thì việc thế chấp, bảo lãnh đồng thời
cả giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hay tách rời là do các bên thoả thuận.
Trường hợp các bên thoả thuận thế chấp, bảo lãnh tách rời giữa tài sản gắn liền với đất và giá
trị quyền sử dụng đất thì TCTD nhận bảo đảm phải có khả năng quản lý tài sản trong quá
trình cho vay và xử lý được tài sản đó để thu hồi nợ nếu khách hàng vay khơng trả được nợ.
2.1.2.

Họp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cổ, thế chấp của

khách hàng vay.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là công cụ để thực hiện giao dịch bảo đảm, tạo ra mối

quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay. Hợp đồng bảo đảm tiền vay là cơ sở
pháp lý, trong đó quy định cụ thể các điều khoản mà hai bên đã thoả thuận để thực hiện việc
cho vay, quản lý và sử dụng khoản vay, tài sản bảo đảm, phương thức thu hồi nợ, biện pháp
xử lý tài sản bảo đảm và phương thức giải quyết hanh chấp (nếu có).
Điều 327 và Điều 343 BLDS 2005 quy định: “hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được
lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính”. Trong


trường hợp pháp luật có quy định thì hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được công chứng,
chứng thực hoặc đăng ký. Ngoài ra, Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung
năm 2004 và Điều 17 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành
theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (sau
đây gọi là Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN) quy định nội dung chính của hợp đồng tín
dụng phải có nội dung về hình thức bảo đảm tiền vay, giá trị tài sản bảo đảm và phương thức
xử lý tài sản bảo đảm... Như vậy, TCTD hoàn toàn có thể đưa các nội dung chủ yếu của biện
pháp bảo đảm vào hợp đồng tín dụng mà khơng cần phải lập thành văn bản riêng. Điều này
giúp bộ hồ sơ cho vay của TCTD vừa đảm bảo căn cứ pháp lý vừa đơn giản.
Bên cạnh việc ghi nhận hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được lập thành văn bản, pháp
luật đã dành cho các bên (bên nhận cầm cố, thế chấp và bên cầm cố, thế chấp) quyền được
thoả thuận công chứng hay chứng thực hợp đồng cầm cố, thế chấp ngoại trừ những trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp một tài sản được cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ trả nợ tại các TCTD thì mỗi lần cầm cố, thế chấp phải được lập thành văn bản và
việc cầm cố phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, bên cầm cố,
thế chấp phải thông báo cho TCTD nhận cầm cố, thế chấp tiếp theo về các lần bảo đảm trước
đó, nếu khơng thơng báo thì phải bồi thường khi có thiệt hại xảy ra cho bên bị thiệt hại (Điều
324 BLDS 2005). Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là Nghị định 08/2000/NĐ-CP) quy
định các trường hợp sau phải đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm:

“ a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký
quyền sở hữu;
b) Việc cầm cố, thế chấp tài sản không thuộc quy định tại điểm a, khoản 1 Điều này
nhưng các bên thoả thuận bên cầm cố, bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản;
c) Việc cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ;
d) Văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm”.


Hợp đồng cầm cố, thế chấp đã đăng ký thì có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể
từ thời điểm đăng ký cho đến khi hết hiệu lực đăng ký. Tuy nhiên, việc đăng ký và Giấy
chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm khơng có giá trị xác nhận tính xác thực của giao dịch
bảo đảm (hợp đồng cầm cố, thế chấp). Nghĩa là, nếu hợp đồng cầm cố, thế chấp vơ hiệu thì
việc trước đó hợp đồng cầm cố, thế chấp đã đăng ký giao dịch bảo đảm cũng khơng làm cho
hợp đồng đó trở nên có hiệu lực.
Hợp đồng cầm cổ, thế chấi có những nội dung chính sau:
-

Ngày, tháng, năm, địa điểm ký hợp đồng;

-

Tên, địa chỉ các bên;
- Nghĩa vụ được bảo đảm: nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay đối với TCTD. Nghĩa

vụ này bao gồm tiền vay (nợ gốc), lãi vay, lãi q hạn, các khoản phí (nếu có) được ghi trong
hợp đồng tín dụng mà khách hàng vay phải trả theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp
các bên có thoả thuận lãi vay, lãi quá hạn, các khoản phí (nếu có) khơng thuộc phạm vi bảo
đảm nghĩa vụ;
-


Mô tả tài sản cầm cố, thế chấp;

-

Giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp;

-

Bên giữ tài sản, giấy tờ của tài sản cầm cố, thế chấp;

-

Quyền và nghĩa vụ của các bên;

-

Các thoả thuận về trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế

chấp;
-

Các thoả thuận khác.
(Căn cứ vào Phụ lục I - Mâu hợp đồng thế chấp)
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là một hợp đồng song vụ và các bên trong hợp đồng đều có

những quyền và nghĩa vụ nhất định. Các bên phải thực hiện đúng những điều khoản đã thỏa
thuận trong hợp đồng.
2.2.

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.


Ngồi biện pháp bảo đảm tiền vay phổ biến bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách
hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, ngân hàng và các TCTD còn sử dụng biện


pháp bảo đảm tiền vay khác đó là biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay.
Khoản 3 Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004 và Điều
320 BLDS 2005 cũng ghi nhận các quy định cho phép dùng tài sản hình thành trong tương lai
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Tuy khắc phục được nhược điểm phiền hà và tốn kém của biện pháp cầm cố, thế chấp
tài sản, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay vẫn có những nhược
điểm riêng của nó. Cụ thể, nó mang độ rủi ro cao hơn so với các biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản thông thường khác. Lý do của nhược điểm này là do tài sản chưa có thực tại thời
điểm ký kết hợp đồng bảo đảm mà sẽ được hình thành trong tương lai. Việc xác định giá trị
của tài sản hình thành trong tương lai rất khó khăn bởi không thể chắc chắn tài sản trong
tương lai sẽ có giá trị như lúc giao kết hợp đồng đã nhận định. Sự khác nhau về hoàn cảnh
kinh tế và xã hội sẽ dẫn đến giá trị của tài sản hình thành trong tương lai có thể tăng lên hoặc
giảm đi. Bởi nhược điểm trên mà ngân hàng và các TCTD rất chặt chẽ trong việc cho vay với
tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay. Khi ký hợp đồng bảo đảm tiền vay hình
thành từ vốn vay, ngân hàng và TCTD thường giữ các giấy tờ để xác minh quyền sở hữu hợp
pháp của chủ sở hữu tài sản đó. Hiện nay pháp luật cũng có rất nhiều quy định cụ thể về biện
pháp cho vay với tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay nhằm mục đích bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao kết hợp đồng bảo đảm.
Như vậy, pháp luật hiện nay quy định nhiều biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
(cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay hoặc của bên bảo lãnh, tài sản bảo đảm là
tài sản hình thành từ vốn vay). Việc áp dụng biện pháp bảo đảm nào là do thỏa thuận giữa các
bên tham gia giao kết hợp đồng bảo đảm. Các bên thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm phù
hợp nhất với mình và đồng thời vẫn bảo đảm được quyền và lợi ích của đối tác cịn lại.
II/ XỬ LÝ TÀI SẢN VÀ NHŨNG QUY ĐỊNH VỀ xử LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM THEO

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.


1. Xử lý tài sản bảo đảm.
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm.

Xử lý tài sản bảo đảm chính là việc ngân hàng và các TCTD thực hiện các biện pháp
đối với tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ. Trong các văn bản pháp luật
đã ban hành cho tới thời điểm này, chưa có một văn bản nào đưa ra định nghĩa cụ thể và
chính xác về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Khoản 1 Điều 56 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định trường hợp xử lý tài sản bảo
đảm khi: “Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ khơng thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Tài sản bảo đảm tiền vay phải được xử lý theo các
phương thức mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được
theo phương thức thức đã thoả thuận, TCTD có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố,
thế chấp để thu hồi nợ, xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Như vậy, xử lý tài sản bảo đảm là một giai đoạn trong tồn bộ q trình bảo đảm tiền
vay bằng tài sản. Trong giai đoạn này, ngân hàng và các TCTD sẽ thực hiện các biện pháp đối
với tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ mà mình đã cho vay có sự vi phạm nghĩa vụ của
khách hàng vay, bên bảo lãnh theo những cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong quan hệ tín dụng thực chất là một bộ phận của
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bởi: quan hệ bảo đảm tiền vay được thiết lập trên cơ sở
thỏa thuận của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm về việc áp dụng các biện pháp nhằm bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ (vì trả nợ vay là một loại nghĩa vụ dân sự). Mục đích thực hiện các
biện pháp bảo đảm đều nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có
quyền.
*) Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nhằm mục đích thu hồi khoản nợ của TCTD đã cho

khách hàng vay khi khách hàng vỉ phạm nghĩa vụ trả nợ.
Khi ngân hàng và các TCTD cho khách hàng vay tiền, họ biết rằng có thể sẽ có những
rủi ro bất ngờ xảy ra cho khách hàng của mình và dẫn đến việc thu hồi nợ của mình gặp nhiều
khó khăn, có thể là không thể thu hồi lại vốn đã cho vay ban đầu. Chính vì vậy tài sản bảo


đảm được sử dụng để đảm bảo ngân hàng và các TCTD có thể thu hồi khoản vay đã cấp cho
khách hàng.
Việc xử lý tài sản bảo đảm không phải là mục đích mà ngân hàng và các TCTD
hướng tới khi họ cho khách hàng vay tiền. Chỉ khi bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ với bên
nhận bảo đảm thì xử lý tài sản bảo đảm mới được xét đến nhằm mục đích thu hồi nợ. Xử lý
tài sản bảo đảm cần được thực hiện một cách nhanh chóng để TCTD có thể đảm bảo khả
năng thanh tốn, khả năng chi trả và cấp tín dụng cho nền kinh tế.
*) Chủ thế của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đa dạng và được trao quyền mạnh
mẽ hơn chủ thế trong việc xử lý tài sản bảo đảm thông thường.
Việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp trong các giao dịch dân sự thường thông qua việc
yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá nếu các bên khơng có thỏa thuận khác. Tuy
nhiên, trong hoạt động cho vay của ngân hàng và các TCTD thì việc xử lý tài sản bảo đảm
địi hỏi phải nhanh chóng bởi nó là nguồn cung ứng vốn năng động cho nền kinh tế. Ngân
hàng và các TCTD được thành lập và hoạt động với những điều kiện cấp phép chặt chẽ của
cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, chịu sự giám sát thường xuyên trong hoạt động
nghiệp vụ, kể cả việc cho vay và bảo đảm tiền vay. Chính vì vậy, ngân hàng và các TCTD là
chủ thể được trao quyền tương đối lớn so với các chủ thể có chức năng xử lý tài sản bảo đảm
trong giao dịch dân sự, kinh tế khác.
Mặt khác, trên thực tế hiện nay, lượng khách hàng của ngân hàng và các TCTD là rất
lớn và không ngừng tăng lên. Việc vi phạm hợp đồng tín dụng có khả năng xảy ra cao. Vì
vậy, nếu ngân hàng và các TCTD cũng áp dụng hoàn toàn việc xử lý tài sản bảo đảm theo con
đường thông thường, thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc huy động và quay
vòng vốn của các TCTD sẽ bị chậm trễ, dẫn đến nghẽn tắc trong hoạt động huy động vốn của
TCTD. Việc trong cho ngân hàng và các TCTD quyền hạn cụ thể, đặc biệt và lớn hơn so với

các chủ thể có chức năng xử lý tài sản bảo đảm trong giao dịch dân sự, kinh tế khác là hoàn
toàn hợp lý. Tất nhiên, những trường hợp xử lý tài sản bảo đảm mà pháp luật có quy định cụ
thể riêng biệt thì các TCTD vẫn phải tuân theo quy định của pháp luật, không được tự ý xử lý
tài sản bảo đảm theo ý chí riêng của một bên.


*) Thời điếm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ
về nguyên tắc, việc xử lý tài sản trong giao dịch dân sự được phát sinh khi đến hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ vi phạm cam kết. Trước thời hạn đó, nếu các bên
khơng có thoả thuận thì bên có quyền khơng được xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trong
quan hệ tín dụng ngân hàng, nghĩa vụ được bảo đảm rộng hơn, bao gồm nghĩa vụ trả nợ vay
khi đến hạn, nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích của khách hàng, nghĩa vụ cung cấp
thông tin về việc sử dụng vốn của khách hàng và nghĩa vụ thực hiện các cam kết khác. 1 Vì
vậy, trong bảo đảm tiền vay thì thời điểm phát sinh xử lý tài sản bảo đảm sẽ xảy ra khi đến
hạn trả nợ mà khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ hoặc khi khách hàng vay vi phạm các
cam kết khác về việc sử dụng vốn với TCTD thì việc xử lý tài sản khơng cần phải đợi đến
thời điểm khoản nợ đến hạn trả nợ.
Tóm lại, với các đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đã đặt ra yêu cầu về
việc xây dựng cơ chế điều chỉnh, cơ chế hỗ trợ xử lý tài sản bảo đảm trong lĩnh vực tín dụng
ngân hàng vừa đảm bảo nguyên tắc cơ bản chung của giao dịch bảo đảm, vừa phù hợp với
đặc điểm riêng của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
1.2.

Các nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm

Việc xử lý bảo đảm tiền vay của ngân hàng và các TCTD được thực hiện theo các
nguyên tắc cơ bản sau:
*) Nguyên tắc thoả thuận
Bản chất của quan hệ bảo đảm tiền vay là một quan hệ hợp đồng nên quan hệ bảo
đảm tiền vay cũng được hình thành trên cơ sở thoả thuận. Đó là sự thoả thuận giữa TCTD và

khách hàng vay về các biện pháp bảo đảm tiền vay và các phương thức xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng
bảo đảm tiền vay.
Nguyên tắc thỏa thuận được thể hiện ở các điểm sau:
- Thoả thuận về việc xử lý tài sản được thiết lập tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo
đảm tiền vay. Đây là cơ sở pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
1Đào Minh Tú: “Rủi ro và quản lý rủi ro trong họp đồng tín dụng”. Tạp chí Ngân hàng số 4/2006


- Thoả thuận được thiết lập tại thời điểm xử lý tài sản. Điều đó có nghĩa là tại thời
điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay các bên vẫn có thể thoả thuận khác với thoả thuận ban
đầu hoặc bổ sung mới, hoặc thậm chí có thể thay thế tài sản bảo đảm nếu các bên có thoả
thuận.
- Trường hợp các bên có thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm nhưng không
thoả thuận cụ thể về việc xử lý tài sản bảo đảm thì về nguyên tắc các TCTD vẫn có quyền xử
lý tài sản bảo đảm khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Trong trường hợp này, để bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tài sản bảo đảm sẽ được xử lý thơng qua bên thứ
ba (có thể là toà án hoặc trọng tài).
*) Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
bảo đảm tiền vay
Nguyên tắc này được quy định rõ trong Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT- NHNNBTP-BCA-BTC-TCĐC, theo đó việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước hết phải bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các TCTD vì các TCTD có một vai trị quan trọng trong hoạt
động huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân (mục I phần A những quy định chung trong
TTLT 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCĐC).
Khách hàng vay khi cần lượng vốn lớn nằm ngồi khả năng của mình thì mới đến
ngân hàng và các TCTD để thỏa thuận một khoản vay. Điều này khiến khách hàng vay
thường lâm vào thế bị động bởi họ là người cần tiền, còn ngân hàng và các TCTD lại là người
có quyền quyết định khoản vay. Các TCTD sẽ dễ dàng đưa ra các yêu cầu không hợp lý và
bất lợi cho khách hàng vay. Ngược lại, nếu ngân hàng khơng có các biện pháp bảo đảm thì
bản thân ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro bởi có khả năng rơi vào tình trạng mất mát vốn. Như

vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm
tiền vay góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cả bên đi vay và bên cho vay.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay cần có quy trình cụ thể,
chặt chẽ hoặc xử lý tài sản thông qua bên thứ ba (có thể là trọng tài hoặc tồ án). Việc xác
định giá trị tài sản bảo đảm khi xử lý cũng cần được pháp luật quy định nhằm bảo đảm mức


giá xử lý tài sản hợp lý, đồng thời tôn trọng sự thoả thuận, cho phép bên bảo đảm được tham
gia quá trình xử lý tài sản.
*) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm công khai, khách quan
Nguyên tắc này vừa đảm bảo không mất vốn và thu nợ tối đa của TCTD, vừa bảo vệ
quyền lợi chính đáng của bên bảo đảm có tài sản bị đưa ra xử lý thơng qua phương thức bán
cơng khai, có sự tham gia của bên thứ ba hoặc giao cho bên thứ ba xử lý tài sản.
*) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng
Đây là một nguyên tắc cần thiết trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để đảm bảo khả
năng thanh toán, chi trả của TCTD, đồng thời hạn chế triệt để thiệt hại cho TCTD và khách
hàng vay do tài sản bảo đảm bị xuống cấp, hư hỏng, mất giá, không luân chuyển được nguồn
vốn và khách hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản vay tại ngân hàng.
Tóm lại, việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng và các TCTD cần phải
tuân thủ các nguyên tắc trên. Điều này đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay.
2. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của pháp luật hiện hành.
2.1.

Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm.

Xử lý tài sản bảo đảm là một khâu quan trọng trong tồn bộ q trình cho vay của các
NHTM và các TCTD. Theo quy định tại Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, thời điểm thực
hiện xử lý tài sản bảo đảm tiền vay được hiểu là khi đến hạn trả nợ mà bên vay không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay thì bên cho vay có quyền

xử lý tài sản bảo đảm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng.
Các TCTD có thể xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước hạn trong trường hợp khách
hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Khách hàng là doanh nghiệp bị phá
sản hoặc bị phát hiện việc cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm điều kiện sử dụng vốn và
các cam kết khác tại hợp đồng tín dụng.
Thủ tục cần thiết đế thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay bao gồm:
- Bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm về việc xử lý tài
sản bảo đảm tiền vay trước khi tiến hành xử lý tài sản. Nội dung văn bản phải nêu rõ lý do xử


lý tài sản bảo đảm, loại tài sản, phương thức xử lý tài sản bảo đảm, giá trị nghĩa vụ được bảo
đảm tại thời điểm tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, thời hạn và địa điểm chuyển giao tài sản.
- Bên nhận bảo đảm phải đăng ký thông báo xử lý tài sản bảo đảm tại cơ quan đăng
ký giao dịch bảo đảm (điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP).
- Bên bảo đảm phải có trách nhiệm kết hợp với bên nhận bảo đảm thực hiện bàn giao
tài sản bảo đảm. Trường hợp bên bảo đảm cố tình giữ tài sản bảo đảm, khơng giao tài sản cho
bên nhận bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền can thiệp buộc bên bảo đảm phải giao tài sản bảo đảm.
- Thời hạn xử lý tài sản bảo đảm được các bên thoả thuận. Nếu khơng có thoả thuận
thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được trước 7
ngày đối với động sản hoặc 15 ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo về việc xử lý
tài sản bảo đảm, trừ trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá
trị, quyền địi nợ, giấy tờ có giá, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay. (Khoản
2 Điều 61 và Điều 62 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
- Sau khi thực hiện thủ tục xử lý tài sản bảo đảm và chuyển nhượng quyền sở hữu tài
sản, chuyển quyền sử dụng đất cho bên mua, bên nhận bảo đảm tiến hành thanh toán thu nợ
từ việc xử lý tài sản và xoá đăng ký xử lý tài sản, xoá đăng ký giao dịch bảo đảm (khoản 1
Điều 23 Nghị định 08/2000/NĐ-CP).
2.2 Các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm.
Biện pháp xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện trước hết theo thoả thuận đã quy định

trong hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng mà bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm ký kết.
Nếu khơng có thoả thuận về biện pháp xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm có thể lựa
chọn các biện pháp sau: (được quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 59 Nghị đinh 163/2006/NĐCP)
- Bán tài sản bảo đảm
-

Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm.

-

Nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi
nợ


2.2.1.

Bán tài sản bảo đảm.

Bán tài sản bảo đảm là biện pháp thông dụng thường được ngân hàng và các TCTD
sử dụng. Thực tế, các khoản vay của khách hàng từ ngân hàng và TCTD phổ biến là tiền mặt.
Vì vậy, mục đích của ngân hàng và các TCTD là thu lại chính khoản tiền đã cho vay và lãi
suất. Tài sản bảo đảm tiền vay có thể khơng hữu dụng cho ngân hàng, nhưng họ luôn cần tiền
để duy trì hoạt động cung cấp vốn của mình. Đồng thời biện pháp bán tài sản bảo đảm cũng
đảm bảo được tính khách quan bởi nó xác định chính xác nhất giá trị thực của tài sản bảo
đảm tại thời điểm bán trên thị trường, giúp các bên giải quyết nợ một cách nhanh chóng và
thuận tiện.
Bán tài sản bảo đảm là việc bên nhận bảo đảm, hoặc bên bảo đảm hoặc các bên phối
hợp để bán tài sản trực tiếp cho người mua hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba bán tài sản bảo đảm
cho người mua. Bên thứ ba này phải là tổ chức có tư cách pháp nhân và được thực hiện quyền
thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Các chủ thể được bán tài sản bảo đảm bao gồm:
- Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm theo thoả thuận hoặc theo quy định của
pháp luật nếu không xử lý được tài sản theo thoả thuận (trừ trường hợp tài sản bảo đảm là
quyền sử dụng đất và các tài sản khác mà pháp luật quy định phải được tổ chức bán đấu giá).
Trường hợp này, bên nhận bảo đảm phải thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản bảo
đảm trên các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp ký hợp đồng bán tài sản bảo đảm.
- Khách hàng vay (bên bảo đảm) hoặc bên bảo lãnh hoặc các bên cùng phối hợp bán
tài sản bảo đảm theo thoả thuận.
- Bên thứ ba bán tài sản bảo đảm theo uỷ quyền của bên nhận bảo đảm hoặc uỷ quyền
của bên bảo đảm (khách hàng vay), bên bảo lãnh. Thủ tục về việc bán tài sản bảo đảm thông
qua trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản được quy định tại
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về ban hành quy chế bán đấu
giá tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị đinh 05/2005/NĐ-CP).


×