Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những vấn đề đặt ra trong quy định quản lý hoạt động bảo hiểm vi mô tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.57 KB, 8 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUY ĐỊNH QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM VI MÔ TẠI VIỆT NAM
TS. Nguyễn Đức Hải1
PGĐ Trung tâm Tài chính vi mơ - Học viện Ngân hàng

Tóm tắt
Bảo hiểm vi mơ (BHVM) cho người nghèo bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ
những năm 19802 và phát triển đồng hành với tài chính vi mơ. Sau hơn 25 năm ph t
triển, đến năm 2005, khuôn khổ ph p lý đầu tiên của Chính phủ quy định việc thành
lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức BHVM. Từ thời điểm đó cho đến nay, đã trải
qua hơn 12 năm nhưng chưa có một tổ chức BHVM nào được thành lập theo tinh
thần Nghị định số 18/2005/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động BHVM. Nhưng tr n
thực tế, hoạt động BHVM vẫn đang được triển khai thơng qua việc cung cấp các sản
phẩm của tài chính vi mơ, điều này cho thấy một tình trạng thiếu kiểm soát và hàm
chứa nhiều rủi ro trong hoạt động cung cấp dịch vụ BHVM. Để thực hiện Chiến lược
phát triển ngành tài chính vi mơ Việt Nam đến năm 2020, theo chỉ đạo của Chính
phủ, các Bộ, Ban, ngành đang tiến hành xây dựng khn khổ pháp lý hồn chỉnh cho
hoạt động BHVM. Trong nội dung của bài viết này, tr n cơ sở phân tích tình hình
triển khai BHVM ở Việt Nam trong thời gian qua, đ nh gi những bất cập trong
những quy định hiện hành và đưa ra một số ý kiến đóng góp cho c c cơ quan hữu
quan trong việc ban hành chính sách về BHVM phù hợp với thực tiễn phát triển ở
Việt Nam.

1. Tình hình triển khai bảo hiểm vi mơ ở Việt Nam
Bảo hiểm vi mô là một sản phẩm tài chính dành cho đối tượng có thu
nhập thấp3 và có nguồn gốc từ tài chính vi mơ nhằm giúp đỡ người nghèo
giảm, tránh các rủi ro có thể gặp phải trong sản xuất và đời sống.

1

Email của tác giả:


Lê Thị Lân (2009), “Xây dựng ngành tài chính vi mơ Việt Nam phát triển theo hướng bền vững để
thực hiện mục ti u xóa đói giảm nghèo”, Trung tâm Hỗ trợ phát triển nguồn lực tài chính cộng đồng,
Hà Nội.
3
/>2

107


Người nghèo cũng giống các đối tượng khác trong xã hội, họ có nhu cầu
về tài chính để đáp ứng cho việc chi tiêu, đầu tư vào sản xuất và sinh hoạt
hàng ngày. Ngoài nhu cầu đối với các sản phẩm tài chính thơng thường (tài
chính vi mơ) người nghèo cịn có nhu cầu đối với bảo hiểm liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh, đời sống và con người. Do là những đối tượng
khơng có hoặc có rất ít tài sản nên khi gặp rủi ro trong đời sống, người nghèo
rất dễ bị tổn thương. Đặc biệt là những người nghèo sinh sống ở khu vực nông
nghiệp, nơi mà điều kiện sản xuất cũng như kết quả sản xuất phụ thuộc nhiều
vào điều kiện thời tiết và khí hậu. Đây là khu vực thường xuyên phải đối mặt
với những rủi ro ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của người dân.
Tình trạng rủi ro đã là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều
người nghèo khó khăn trong việc thoát khỏi nghèo, vươn lên khấm khá hơn.
Bằng việc cung cấp các dịch vụ tài chính, cung cấp nguồn lực quan trọng
nhằm tạo thu nhập, người nghèo cần cung cấp các dịch vụ quản lý rủi ro trong
hoạt động tín dụng, bảo hiểm cho con người, phương tiện sản xuất. Nhờ
những dịch vụ quản lý rủi ro này mà nhiều người nghèo đã dần ổn định cuộc
sống, thu nhập trở nên bền vững hơn.
Trong thực tế, khi người nghèo gặp phải những rủi ro, họ thường lựa
chọn giải pháp là bán tài sản, rút tiền tiết kiệm, vay mượn từ bạn bè, họ hàng.
Trường hợp giải pháp trên không thực hiện được, người nghèo dường như chỉ
cịn biết phó mặc cho hồn cảnh và đơi khi chấp nhận những rủi ro, coi đó như

là một điều hiển nhiên và khơng biết cách thóat ra được.
Hiện nay, nhận thức của người nghèo và xã hội nói chung về bảo hiểm
và BHVM cịn rất hạn chế. Đối với các cơng ty kinh doanh bảo hiểm hiện có
trên thị trường, họ chưa thực sự quan tâm cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho phân
khúc thị trường thu nhập thấp. Trong khi trên thế giới, dịch vụ bảo hiểm dành
cho đối tượng này rất phát triển4, lợi nhuận thu được và những hiệu quả xã hội
đem lại cho các đối tượng nghèo là rất lớn.

4

Craig Churchil, Michal Matul (2012), “Protecting the poor: A microinsurance compendium Volume II”,
International Labour Organization, Switzerland.

108


Ở nước ta BHVM do nhiều tổ chức cung cấp:
(i) Các cơng ty bảo hiểm thương mại
(ii) Tổ chức chính trị, xã hội
(iii) Tổ chức tài chính vi mơ
(iv) Chương trình, dự án tài chính vi mơ,…
Hiện có 48 cơng ty kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực nhân thọ và phi
nhân thọ5, nhưng số lượng các công ty tham gia vào kinh doanh bảo hiểm vi
mơ chỉ có một vài công ty, với những dịch vụ hạn chế. Nhưng các công ty này
xem việc cung cấp bảo hiểm vi mơ như một hoạt động từ thiện hoặc mang tính
chất thử nghiệm6 bên cạnh hoạt động kinh doanh chính của họ.
Những cơng ty nước ngồi cung cấp BHVM gồm Cơng ty TNHH bảo hiểm
nhân thọ Prudential, Công ty TNHH Manulife, Công ty TNHH bảo hiểm nhân
thọ Dai-ichi (sau một thời gian thử nghiệm đã tạm dừng cung cấp). Manulife và
Prudential, Dai-ichi Life Việt Nam đã triển khai cung cấp bảo hiểm vi mô ở nước

ta. Các công ty kinh doanh bảo hiểm trong nước cũng triển khai cung cấp dịch vụ
bảo hiểm cho đối tượng nghèo như: Công ty Bảo Việt, Bảo hiểm bưu điện,…
nhưng sản phẩm mà họ cung cấp cũng khơng khác các cơng ty của nước ngồi,
cách tham gia chưa thực sự coi đây là một thị trường kinh doanh.
Theo Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm, tình hình triển khai BHVM qua
các cơng ty bảo hiểm hiện khơng có số liệu đầy đủ và thường được báo cáo
tổng hợp qua số liệu hợp đồng gồm cả khách hàng thu nhập thấp và bảo hiểm
thông thường. Riêng Manulife đang cung cấp sản phẩm BHVM cho khách
hàng có thu nhập thấp, không ổn định, tập trung tại các vùng sâu, xa, khu vực
nông thôn trong trường hợp xảy ra thương tật vĩnh viễn hoặc trường hợp phải
nằm viện. Mức phí khách hàng phải đóng góp 300.000 đồng/năm (tương ứng
25.000 đồng/tháng) dành cho khách hàng là thành viên của Hội Phụ nữ có độ
tuổi từ 20-50 tuổi. Bộ Tài chính cấp phép cho Manulife triển khai tại 22 tỉnh,
thành trong cả nước. Tính đến hết quý III/2016 Manulife triển khai được
69.371 hợp đồng với tổng số phí bảo hiểm thu được đạt 16,5 tỷ đồng.
Đối với tổ chức chính trị, xã hội, gồm Hội Liên hiệp phụ nữ và Trung
5

Số liệu Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm – Bộ Tài chính
Đánh giá của chuyên gia Ngân hàng phát triển châu Á trong khuôn khổ Dự án 8391-VIE “Tăng
cường năng lực hoạt động và giám sát ngành tài chính vi mô”.
6

109


tâm Hỗ trợ phát triển nguồn lực tài chính cộng đồng, đây là những đơn vị được
Chính phủ cho phép thử nghiệm triển khai BHVM đến hết 2016. Tình hình
triển khai BHVM của các tổ chức này cũng chỉ giới hạn trong sản phẩm tương
trợ vốn vay và bảo hiểm nhân thọ. Tổng số thành viên tham gia đạt 34.541

người (tính đến hết quý III/2016), doanh thu phí bảo hiểm đạt 3,65 tỷ đồng,
tổng số quyền lợi được chi trả đạt 608,5 triệu đồng.
Đối với các tổ chức TCVM và các chương trình, dự án TCVM, tình hình
triển khai BHVM khơng có số liệu báo cáo đầy đủ do những tổ chức này đều
thuộc Hội Liên hiệp phụ nữ, kết quả triển khai BHVM được tổng hợp chung
qua số liệu của Hội. Bên cạnh đó, thực tế những tổ chức này đang triển khai
BHVM nhưng dưới dạng cung cấp dịch vụ tiết kiệm cho khách hàng nên rất
khó nắm bắt hiện có bao nhiêu tổ chức đang triển khai và số lượng khách hàng
đang tham gia là bao nhiêu? Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, các
tổ chức này không được phép trực tiếp cung cấp BHVM nhưng được phép làm
đại lý cung cấp nên tổ chức TCVM đã dừng cung cấp bảo hiểm tương trợ và
chuyển sang làm đại lý BHVM cho Bảo Việt và Bảo hiểm bưu điện như
trường hợp của tổ chức TCVM Tình thương, Thanh Hóa và M7 - Ninh Thuận.
2. Quy định quản lý đối với bảo hiểm vi mô và những tồn tại
Luật Kinh doanh Bảo hiểm (2010) và Thông tư hướng dẫn về kinh doanh bảo
hiểm và cấp phép cho các tổ chức tham gia thị trường bảo hiểm không cấm các tổ
chức, hãng kinh doanh tham gia cung cấp bảo hiểm vi mô, nhưng trong Nghị định
28/2005/NĐ-CP về việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính quy mơ
nhỏ và Nghị định 165/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Nghị
định 28/2005/NĐ-CP, chỉ cho phép các tổ chức TCVM làm đại lý hay đơn vị phân
phối dịch vụ bảo hiểm của các công ty kinh doanh bảo hiểm chính thức. Luật các tổ
chức tín dụng (2010) chính thức điều chỉnh hoạt động của các tổ chức TCVM,
trong đó quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ chức TCVM cũng
theo tinh thần Nghị định 28/2005/NĐ-CP được ban hành trước đó.
Nghị định 18/2005/NĐ-CP Quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt
động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo
hiểm. Theo Nghị định này, một tổ chức muốn thành lập Quỹ tương hỗ phải có
số lượng vốn lên tới 10 tỷ, số vốn này cao gấp 2 lần vốn quy định thành lập
của một tổ chức TCVM (5 tỷ). Đồng thời hoạt động của Quỹ tương hỗ bị giới
hạn lĩnh vực hoạt động trong nông nghiệp, ngư và lâm nghiệp và cũng chỉ

110


được kinh doanh trong một số ngành cụ thể. Theo nội dung trong Nghị định
18/2005/NĐ-CP, các tổ chức kinh doanh khơng được kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ thay vì cho phép kinh doanh theo yêu cầu của khách hàng và thị
trường thu nhập thấp, đặc biệt là không gắn với đặc thù của hoạt động TCVM.
Vì vậy các tổ chức TCVM đang triển khai hoạt động kinh doanh bảo hiểm
dưới dạng quỹ tương trợ phải chuyển đổi thành các tổ chức bảo hiểm tương hỗ
với những quy định chặt chẽ và khắt khe hơn. Những tổ chức cung cấp bảo
hiểm vi mô khác như các tổ chức hoạt động dưới dạng bán chính thức, những
chương trình, dự án hoạt động từ thiện, nhân đạo sẽ phải ngưng việc cung cấp
dịch vụ bảo hiểm cho người nghèo.
Thực tế đã trải qua 12 năm ra đời Nghị định 18/2005/NĐ-CP về Quỹ tương
hỗ, đã khơng có một tổ chức bảo hiểm vi mơ nào ra đời theo nội dung điều chỉnh
của Nghị định này. Những cơng ty kinh doanh bảo hiểm chính thức, có tiềm lực
về vốn, tài chính và cơng nghệ có thể đáp ứng được quy định của Chính phủ theo
tinh thần của Nghị định 18/2005/NĐ-CP lại không quan tâm đến thị trường bảo
hiểm cho người nghèo. Những tổ chức TCVM, CT-DA TCVM không đủ tiềm
lực để thành lập Quỹ tương hỗ, trong khi thực tế nhu cầu bảo hiểm đối với người
nghèo vẫn không ngừng tăng lên. Ngày 6/12/2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định 2195/QĐ-TTg về Phê duyệt đề án xây dựng và phát triển hệ
thống TCVM Việt Nam đến 2020. Trong chủ trương trên có đưa ra giải pháp phát
triển TCVM thông qua việc ban hành quy định đối với bảo hiểm vi mô nhưng
cho đến nay chưa có văn bản nào được đưa ra cụ thể.
KHUÔN KHỔ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN BẢO HIỂM VI MÔ VIỆT NAM

Luật liên quan

- Luật Dân sự

- Luật DN
- Luật Đầu tƣ

Luật Tổ chức tín dụng

Nghị định
28/2005

Quyết định
2195/2011

Nghị định
165/2007

Luật Bảo hiểm

Luật Kinh doanh
bảo hiểm

Nghị định
18/2005

111


Dự thảo quy định triển khai BHVM hiện đang được lấy ý kiến rộng rãi,
áp dụng cho các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp triển khai
BHVM, các tổ chức này có thể thành lập đơn vị độc lập, trực thuộc để triển
khai BHVM không vì mục tiêu lợi nhuận. Các sản phẩm BHVM được triển
khai gồm: bảo hiểm tử vong, tai nạn hoặc thương tật; bảo hiểm sức khỏe; bảo

hiểm tiết kiệm tuổi già và bảo hiểm tài sản. Theo quan điểm của cơ quan soạn
thảo quy định trên, để thành lập đơn vị độc lập hoặc trực thuộc triển khai
BHVM, tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp cũng cần khoảng 500
triệu đồng với một cơ cấu tổ chức bộ máy, mạng lưới, quy chế hoạt động rõ
ràng và phải đăng ký hoạt động với Bộ Tài chính. Trước khi có dự thảo trên ra
đời, một số tổ chức cũng đã được Chính phủ ra văn bản riêng biệt cho phép
thử nghiệm triển khai BHVM đến hết 2016. Sau thời điểm này, các tổ chức
muốn tiếp tục triển khai BHVM cần phải đăng ký theo quy định mới, hoặc có
thể phải tiến hành chuyển giao sang doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ; tổ chức
BHVM khác trong vòng 01 năm. Nhìn chung ở Việt Nam chưa có một hệ
thống văn bản pháp lý đầy đủ từ cấp độ văn bản Luật đến dưới luật về lĩnh vực
bảo hiểm vi mô mà chỉ là các văn bản chung về bảo hiểm hoặc văn bản quy
định cụ thể về một vài loại hình được phép kinh doanh trong lĩnh vực bảo
hiểm vi mô.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Trên cơ sở những phân tích về việc triển khai hoạt động bảo hiểm vi mô
ở Việt Nam thời gian qua cũng như những bất cập trong việc ban hành chính
sách pháp luật liên quan đến hoạt động bảo hiểm vi mô, chúng tôi đề xuất một
số kiến nghị sau:
Thứ nhất, trong thời gian tới chúng ta cần nhanh chóng ban hành quy
định về BHVM cùng với hoàn thiện các văn bản dưới luật một cách bài
bản, mang tính thống nhất. Việc đưa bảo hiểm vi mô vào quy định của Nhà
nước là một cách thức thừa nhận ở mức độ cao đối với loại hình kinh doanh
mới mẻ này, cũng như bảo hộ quyền kinh doanh và bảo vệ lợi ích cho
khách hàng nghèo.
Thứ hai, trước mắt có thể điều chỉnh các văn bản hiện hành để tạo điều
kiện cho bảo hiểm vi mô tiếp tục phát triển:
112



- Cho phép các tổ chức TCVM triển khai hoạt động BHVM trên cơ sở
kết hợp cung cấp dịch vụ của TCVM, tuy nhiên cũng cần có những cơ chế
giám sát chặt chẽ hoạt động này nhằm đảm bảo sự ổn định và bền vững của
tổ chức.
- Sửa đổi lại quy định về vốn pháp định trong Nghị định 18/2005/NĐ-CP
vì mức vốn này quá cao so với vốn của tổ chức TCVM. Nhưng cũng có thể bổ
sung Nghị định về điều khoản riêng dành cho tổ chức TCVM khi thành lập
Quỹ tương hỗ với mức vốn thấp hơn so với các cơng ty kinh doanh khác. Bên
cạnh đó, cũng cần mở rộng lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, cho phép kinh
doanh bảo hiểm nhân thọ thay vì chỉ kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp theo quy định hiện hành.
- Ban hành quy định pháp lý cho hoạt động tương trợ giữa các thành viên
là khách hàng của tổ chức TCVM, cho phép hoạt động tương trợ là một hoạt
động chính thức để các hộ nghèo có điều kiện trợ giúp lẫn nhau trong sản xuất,
sinh hoạt,…
Thứ ba, cần có cơ chế khuyến khích các cơng ty kinh doanh bảo hiểm
tham gia vào thị trường thu nhập thấp bằng những chính sách ưu đãi về thuế,
lãi suất,… thậm chí như một số nước trên thế giới, Chính phủ cịn yêu cầu các
công ty kinh doanh bảo hiểm và tài chính nói chung phải dành sự tham gia
nhất định cho thị trường thu nhập thấp.
Thứ tư, nâng cao nhận thức về bảo hiểm vi mô, cần làm rõ sự khác biệt giữa
bảo hiểm vi mô và bảo hiểm thông thường, đặc biệt là đối với những nhà làm
chính sách và cơ quan, ban ngành liên quan. Tăng cường hoạt động thông tin,
tuyên truyền rộng rãi trong xã hội để mọi đối tượng xã hội có liên quan nắm bắt
được vai trị và ý nghĩa của bảo hiểm vi mơ đối với người nghèo và xã hội.
Thứ năm, đào tạo đội ngũ nhân lực cho lĩnh vực bảo hiểm vi mô, đào tạo
nhân lực trong lĩnh vực quản lý cũng như những tổ chức tham gia cung cấp
dịch vụ. Xây dựng tài liệu đào tạo và tổ chức học hỏi kinh nghiệm phát triển
bảo hiểm vi mô của các nước nhằm rút ra bài học đối với thực tế triển khai ở
Việt Nam. Bên cạnh đó cũng xây dựng các chuẩn mực đánh giá hoạt động và

quản lý để cho bảo hiểm vi mô Việt Nam phát triển bền vững, phục vụ lợi ích
cho người nghèo và xã hội.
113


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2/2017), Dự thảo Nghị định hướng dẫn triển khai bảo
hiểm vi mô.
2. Nghị định 18/2005/NĐ-CP về Quỹ tương hỗ.
3. Quyết định 2195/QĐ-TTg về Phê duyệt đề án xây dựng và phát triển
hệ thống TCVM Việt Nam đến 2020.
4. Cục Quản lý giám sát bảo hiểm – Bộ Tài chính (2/2017), “Báo cáo
tình hình triển khai thí điểm bảo hiểm vi mơ”.
5. TS.J.B.Alip (2008), “Bảo hiểm vi mô Việt Nam”, Tổ chức Rimansi
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Philippin.
6. Nhóm hỗ trợ người nghèo của Ngân hàng thế giới (2013), “What is
microinsurance?” đăng thông tin trên trang web của tổ chức này tại địa chỉ:
/>7. Lê Thị Lân (2009), “Xây dựng ngành tài chính vi mơ Việt Nam phát
triển theo hướng bền vững để thực hiện mục ti u xóa đói giảm
nghèo”, Trung tâm Hỗ trợ phát triển nguồn lực tài chính cộng đồng,
Hà Nội.
8. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2016), “Tổng quan về thị trường bảo
hiểm Việt Nam năm 2012”.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng phát triển Châu Á
(9/2013), “Tọa đàm lấy ý kiến đối với dự thảo khung pháp lý về bảo
hiểm vi mô tại Việt Nam”, Hà Nội.
10. Craig Churchil, Michal Matul (2012), “Protecting the poor: A
microinsurance compendium Volume II”, International Labour
Organization, Switzerland.


114



×