Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án hành chính hồ sơ 12 LS.HC.12 ( có nhận xét )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.78 KB, 12 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHÓA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Mơn học: Hành chính cơ bản
Hồ sơ : LS.HC.12
Vai trị : Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích của người khởi kiện

Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:
Khóa:
Số báo danh:

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 25 tháng 9 năm 2021


I.TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN VÀ YÊU CẦU CẦU NGUYÊN ĐƠN
1.Nội dung vụ án
Ngày 23/12/2013, Đoàn kiểm tra thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã
đến kiểm tra nhà trọ bình dân Hồng Lan của bà Nguyễn Thị Tuyết tại địa chỉ: Tổ 9,
phường Đông Lân, thành phố P. Tại thời điểm kiểm tra phát hiện phịng số 11 có ơng
Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục);
phịng số 9 có ơng Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy khơng có giấy kết hơn đang ở chung
phịng xem tivi.
Đồn kiểm tra lập Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013,
kết luận: Chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan đã thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi
phạm như trên. Đoàn kiểm tra cho rằng các hành vi trên đã vi phạm điểm…..khoản…..
điều …..Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hoạt động văn hóa thơng tin.
Ngày 10/03/2014 Chánh Thanh tra sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra


quyết định số 23/QĐ-XP xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao
và du lịch. Trong quyết định số 23/QĐ-XP nêu rõ cơ hành vi vi phạm khoản 1 Điều 25 Nghị
định 167/2013/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã hội; phịng cháy và chữa cháy; phịng,
chống bạo lực gia đình.
Ngày 18/03/2014, Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ra
Cơng văn số 02/2014/CV-TTr đính chính một số sai sót của Quyết định số 23/QĐ-XP
Do khơng đồng ý với quyết định xử phạt hành chính, bà Tuyết đã có đơn khiếu nại
Quyết định số 23/QĐ-XP. Ngày 20/04/2014, Chánh thanh tra sở Văn hóa, Thể thao
và Du Lịch ra quyết định số 01/QĐ-TTr giữ nguyên quyết định số 23/QĐ-XP.
Không đồng ý với giải quyết việc khiếu nại, ngày 02/05/2014, bà Nguyễn Thị Tuyết
làm đơn khởi kiện quyết định xử phạt hành chính” gửi đến Tịa án nhân dân tỉnh G.L.
2.Yêu cầu khởi kiện
Bà Nguyễn Thị Tuyết yêu cầu hủy Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP
ngày 10/03/2014 do Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L (từ giờ
gọi là Sở VH, TT & DL) ban hành.
3.Các vấn đề tố tụng
Đối tượng khởi kiện
Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 do Chánh Thanh tra
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L (từ giờ gọi là Sở VH, TT & DL) ban hành.
Đây là Quyết định hành chính cá biệt có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tuyết.
4.Tư cách đương sự
- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết
+ Sinh năm: 1982
+ Địa chỉ: Tổ 9, phường Đông Lân, Thành phố O, tỉnh G.L
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Anh Tuấn (Giấy ủy quyền – BL 22-23).
- Người bị khởi kiện: Ông Trần Ngọc Minh

2



+ Chức vụ: Phó giám đốc kiêm Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L
+ Số CMND: 2800412890
Cấp ngày: 24/09/2007
Nơi cấp: CA G.L
+ Người đại diện theo ủy quyền: Ơng Dương Văn Thành – Phó Chánh Thanh tra Sở
VH, TT & DL tỉnh G.L (Giấy ủy quyền – BL 26).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Hữu Phong – người đứng tên trên GCN QSDĐ số AK 734508.
+ Bà Nguyễn Thị Nghiệm – người đứng tên trên GCN QSDĐ số AK 734508 (ủy
quyền cho ông Phong theo Giấy ủy quyền – BL 17).
5.Điều kiện khởi kiện
Chủ thể và quyền khởi kiện
Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1982, có đủ năng lực pháp luật tố
tụng hành chính và năng lực hành vi tố tụng hành chính.
Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 do Chánh Thanh tra
Sở VH, TT & DL tỉnh G.L ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Tuyết.
Bà Tuyết có quyền khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐXP ngày 10/03/2014 do Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L (từ giờ
gọi là Sở VH, TT & DL) ban hành theo quy định tại khoản Điều 115, Luật tố tụng hành
chính 2015 về quyền khởi kiện vụ án.
6.Thời hiệu khởi kiện
Ngày 10/03/2014, Chánh Thanh tra Sở VH, TT & DL tỉnh G.L ra quyết định xử phạt
hành chính số 23/QĐ-XP đối với bà Nguyễn Thị Tuyết.
Ngày 24/03/2014, bà Tuyết làm đơn khiếu nại lần 1. Ngày 20/04/2014, Chánh
Thanh tra Sở VH, TT & DL tỉnh G.L ra quyết định giải quyết khiếu nại.
Ngày 02/05/2014, không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại, bà Nguyễn Thị
Tuyết làm đơn khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật khiếu nại tố cáo năm 2011 về trình tự
khiếu nại và điểm a khoản 2 điều 116 Luật TTHC 2015 về thời hiệu khởi kiện.
 Bà Tuyết còn thời hiệu khởi kiện.
7.Thẩm quyền
Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP do Chánh Thanh tra Sở VH, TT & DL
tỉnh G.L ban hành.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật TTHC 2015 về thẩm quyền của Tòa án cấp
tỉnh: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tồ án và của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước đó…
 Do đó, Tịa án nhân dân tỉnh G.L thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

3


II . CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT ÁP DỤNG
- Luật tố tụng hành chính năm 2015 ;
- Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 ;
- Luật khiếu nại số 02 / 2011 / QH13 ngày 12/11/2013 ;
- Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 10 / 2003 / PL - UBTVQH11 ngày 17
tháng 3 năm 2003 về phòng , chống mại dâm ;
- Nghị định số 85 / 2013 / NĐ - CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 ;
- Nghị định 75 / 2012 / NĐ - CP ngày 03/10/2012 về hướng dẫn Luật khiếu nại ;
- Nghị định 167 / 2013 / NĐ - CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh , trật tự , an toàn xã hội ; phòng , chống tệ nạn xã hội ;
phòng cháy và chữa cháy ; phịng , chống bạo lực gia đình ;
- Nghị định 72 / 2009 / NĐ - CP quy định điều kiện về an ninh , trật tự đối với các
ngành , nghề kinh doanh có điều kiện :
- Nghị định 158 / 2013 / NĐ - CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực văn hóa , thể thao , du lịch và quảng cáo .
III . KẾ HOẠCH HỎI :
HỎI PHÍA NGƯỜI KHỞI KIỆN
1 . Đề nghị cho biết sự việc đã xảy ra tại nhà trọ của bà Tuyết vào ngày 23/12/2013 ?
3 . Bà Tuyết nhận được quyết định xử lý vi phạm hành chính vào ngày nào ?
4 . Bà Tuyết bị Chánh Thanh tra Sở Văn hóa , Thể thao và Du lịch tỉnh G.L xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi gì ?
5 . Bà Tuyết bị xử phạt bằng hình thức nào ? Mức phạt như thế nào ?
6 . Tại thời điểm cơ sở bà Tuyết bị lập biên bản số 1 / BB - VPHC , tại nhà trọ Hồng
Lan có những ai có mặt và kỷ vào Biên bản này ?
7 . Tại sao Biên bản ngày 10/7/2014 , Ông Tuấn – người đại diện theo ủy quyền của
bà Tuyết khai bà Tuyết chỉ không vào sổ theo dõi bà Lợi nhưng theo Bản tự khai của
bà Tuyết ngày 23/6/2014 thì bà Tuyết khai chi vi phạm là không vào sổ bà Nguyễn
Thị Thủy ?
8 . Sau khi cơ sở bà Tuyết bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính , tình hình
hoạt động kinh doanh như thế nào ?
9 . Thanh tra sở đã mời bà Tuyết đến làm việc mấy lần ?
10. Nội dung tại các bản tưởng trinh của bà Tuyết có phải là sự tự nguyện hay
không?
11. Bà Tuyết đã được đọc lại , nghe rõ và tự nguyện ký vào Biên bản vi phạm hành
chính số 11 / BB - VPHC ngày 23/12/2013 hay khơng ?
HỎI PHÍA NGƯỜI LÀM CHỨNG (gồm: ơng Nguyễn Văn Thường; ông Phan
Văn; bà Nguyễn Thị Lành; bà Nguyễn Thị Thùy)
1. Bà Nguyễn Thị Lành cho biết, bà có thường xun th phịng ở nhà trọ của bà
Tuyết khơng?
2. Ơng Thường cho biết, mối quan hệ của ông với bà Lành là gì?
3. Ơng Thường cho biết, ơng và bà Lành có GCN đăng ký kết hơn khơng?

4



4. Ơng Thường có thường xun th phịng ở nhà trọ của bà Tuyết khơng? Khi th
phịng ơng có xuất trình giấy từ gì để bà Tuyết vào sổ theo dõi khơng?
5. Ơng Phan Văn cho biết, khi đồn kiểm tra đến thì ơng đang ở phịng số mấy ? Lúc
đó ơng đang làm gì?
6. Ơng Phan Văn cho biết mối quan hệ giữa ông và bà Nguyễn Thị Thùy?
HỎI PHÍA NGƯỜI BỊ KIỆN
1. Biên bản số 11 / BB - VPHC vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa , thể
thao và du lịch được lập vào ngày 23/12/2013 đúng không ?
2. Tại sao Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23 / QĐ - XP ghi nhận căn cứ
vào Biên bản vi phạm hành chính lập hồi 21 giờ 00 phút ngày 21/12/2013 ?
3. Tại sao Biên bản số 11 / BB - VPHC vi phạm hành chính trong hoạt động văn
hóa , thể thao và du lịch dẫn chiếu Nghị định 158 / 2013 / NĐ - CP ngày 12/11/2013
làm xăn cứ xử phạt , trong khi Nghị định này lại chưa có hiệu lực vào ngày lập biên
bån ?
4. Bà Nguyễn Thị Thủy Trang tham gia ký biên bản vi phạm hành chính số 11 / BB
VPHC ngày 23/12/2013 với tư cách gi ?
5. Tại sao nội dung biên bản không ghi nhận tư cách của bà Trang ?
6. Quyết định số 23 / QĐ - XP đối với bà Nguyễn Thị Tuyết được ban hành vào ngày
10/3/2014 có đúng trình tự thủ tục hay không ?
7. Căn cứ vào Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thời hạn ra Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính kể từ khi lập biên bản là bao nhiêu ngày ?
8. Theo quy định pháp luật thì ai là người có thẩm quyền làm văn bản xin gia hạn
thời gian ra quyết định xử phạt ?
9. Tại sao Tờ trình số 02 / TT - TTr ngày 16/01/2014 xin gia hạn thời gian ra quyết
định xử phạt khơng có chữ ký của ơng Trần Ngọc Minh ? mà là ông Nguyễn Thạc ?
10. Thời gian từ lúc lập biên bản số 11 / BB - VPHC đến lúc ra Quyết định số 23 /
QĐ XP ngày 10/3/2014 là vượt quá 77 ngày có đúng quy định không ?
11. Như vậy , căn cứ vào khoản 2 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 trong
trường hợp quá thời hạn xử phạt hình cơ quan có thẩm quyền khơng được ra quyết

định xử phạt vi phạm hành chính đúng khơng ?
12. Thanh tra sở căn cứ áp dụng Nghị định số 167 / 2013 / NĐ - CP ngày 12/11/2013
để ra quyết định xử đối với bà Tuyết chủ nhà trọ Hoàng Lan đúng không ?
13. Căn cứ vào biên bản vi phạm số 23/12/2013 chủ cơ sở nhà trọ Hoảng Lan vỉ
phạm vấn nội dung gì ?
VI . BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGƯỜI
KHỞI KIỆN
Kính thưa Hội đồng xét xử , Thưa vị đại diện Viện kiểm sát , Thưa luật sư
đồng nghiệp , Tôi là Luật sư, hiện đang công tác tại Công ty Luật TNHH ABC thuộc
đồn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh . Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

5


cho người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Tuyết trong vụ án “ Kiện yêu cầu hủy Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính số 23 / QĐ - XPHC ngày 10/03/2014 của Chánh
thanh tra Sở Văn hóa , Thể thao và Du lịch tinh G.L ” . Sau khi nghiên cứu tồn bộ
hồ sơ có liên quan và qua phần hỏi tại phiên tịa , tơi xin đưa ra quan điểm bảo vệ
như sau :
I.CÁC VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
Tòa án nhân dân thành tỉnh G.L đã đảm bảo đúng các quy định của pháp luật tố tụng
hành chính. Trong quá trình giả quyết vụ việc cho đến thời điểm diễn ra phiên tịa ngày
hơm nay, khơng phát sinh các tình tiết tố tụng làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ
án.
II.CÁC VẤN ĐỀ VỀ NỘI DUNG VỤ ÁN
Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014 do Chánh Thanh
tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ban hành là hồn tồn khơng có căn cứ
và vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục theo pháp luật.
1. Khơng có hành vi vi phạm trong thực tế
Khi đoàn kiển tra nhà nghỉ của bà Nguyễn Thị Tuyết, đến các phịng số 11, phịng số

9 thì thấy tại phịng số 11 có ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành đang quan
hệ vợ chồng (quan hệ tình dục).
Tại Điều 3 Pháp lệnh 10/2003/PL-UBTVQH11 về phịng chống mại dâm giải
thích:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ

1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc
lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người
bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.
…”
Qua nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, cũng thu các chứng cứ thu thập được, không có
bất kỳ chứng cứ nào chứng minh tại thời điểm thực hiện kiểm tra, trong nhà nghỉ Hồng
Lan có diễn ra hành vi mua bán dâm.
Đồng thời, tại các văn bản tường trình (BL 31) thì ơng Thường khai rằng ông và bà
Lành là vợ chồng. Do đó không có căn cứ cho rằng đây là hành vi mua bán dâm.
Từ đó suy ra khơng thể kết luận bà Tuyết có hành vi thiếu trách nhiệm tạo điều kiện
cho người khác lợi dụng để hoạt động mua dâm, bán dâm.
2. Trình tự
Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP ban hành quá thời hạn.
Kể từ ngày lập biên bản đến ngày ra quyết định xử phạt hành chính là đã quá thời
hạn. Cụ thể ngày lập biên bản là ngày 23/12/2013 thì đến ngày 10/03/2014 mới ra quyết
định xử phạt. Như vậy quyết định đã ra chậm.
Căn cứ theo Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì:

6


“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt

hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với
vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ
việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật
này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc
trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này
mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang
giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia
hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.”
Như vậy, cho dù đã có cơng văn xin gia hạn thời gian ra quyết định xử phạt, quyết
định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XP vẫn được ban hành quá thời hạn.
3. Về nội dung
3.1. Biên bản vi phạm hành chính vi phạm nghiêm trọng về thể thức
Trong Biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và
du lịch số 11/BB-VPHC (BL 7-8) đã không ghi rõ điều khoản áp dụng để xử phạt. Đồng
thời phần người làm chứng không ghi nhưng đến cuối văn bản vẫn cho những người làm
chứng ký tên. Đối với phần thông tin của người bị kiểm tra là bà Nguyễn Thị Tuyết cũng
không ghi cụ thể. Do đó khơng thể lấy biên bản này để làm căn cứ để ra quyết định xử
phạt hành chính đối với bà Tuyết.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định cụ
thể như sau: “Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập
biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi
phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi
phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý;
tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ
chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt
hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền và thời hạn giải trình về vi
phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp
nhận giải trình”.
Như vậy có thể khẳng định việc lập biên bản của đồn kiểm tra đã vi phạm nghiêm

trọng về thể thức và nội dung được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính 2012.
Do đó khơng thể lấy một văn bản vi phạm để làm căn cứ ra quyết định xử phạt hành
chính.
3.2. Áp dụng sai căn cứ xử phạt sai
- Thứ nhất , Biên bản số 11 do Thanh tra Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch lập có sai
phạm sau : Biên bản số II vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa , thể thao và du lịch
( “ Biên bản số 11 " ) dẫn chiểu Nghị định 158 / 2013 / NĐ - CP ngày 12/11/2013 làm căn
cứ xử phạt , trong khi Nghị định này lại chưa có hiệu lực vào thời điểm lập biên bản . Nên
Biên bản số II đã sai về mặt nội dung , không thể dùng làm căn cứ để ra Quyết định xử phạt
là Quyết định số 23 . Trong Biên bản số 11 có đề cập đến người chứng kiến là Nguyễn Thị

7


Thủy Trang nhưng căn cứ vào toàn bộ hồ sơ của vụ án không thấy sự xuất hiện của người
này . Thêm vào đó , biên bản hành chính được lập nhưng một thành viên trong đoạn chỉ kỷ
mà không ghi rõ họ tên . Theo Điều 58.2 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 , nếu có
người chứng kiến thì biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ họ , tên , địa chỉ , lời khai của
họ . Do đó , Biên bản số 11 vi phạm hình thức theo quy định pháp luật .
- Thứ hai: Thể thức và nội dung của biên bản: Trong biên bản vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch đã khơng ghi rõ điều khoản áp dụng để
xử phạt. Đồng thời phần người làm chứng không ghi nhưng đến cuối văn bản vẫn cho
những người làm chứng ký tên. Đối với phần thông tin của người bị kiểm tra là bà Nguyễn
Thị Tuyết cũng khơng ghi cụ thể. Do đó khơng thể lấy biên bản này để làm căn cứ để ra
quyết định xử phạt hành chính đối với bà Tuyết.
Căn cứ theo khoản 2, điều 58 luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định cụ thể như sau:
“Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên,
chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa
chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm;
biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương

tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người
chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa
chỉ, lời khai của họ; quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm
hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình”.
Như vậy có thể khẳng định việc lập biên bản của đoàn kiểm tra đã vi phạm nghiêm trọng về
thể thức và nội dung được quy định trong luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Do đó không
thể lấy một văn bản vi phạm để làm căn cứ ra quyết định xử phạt hành chính
- Thứ ba , trong Quyết định xử phạt hành chính số 23 / QĐ - XP ( sau đây gọi tắt là
Quyết định số 23 ) có ghi Bà Nguyễn Thị Tuyết bị xử phạt hành chính với lý do là “ thiếu
tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện
về an ninh , trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm ( áp dụng 5 khoản 1 Điều 25 Nghị định
167 / 2013 / NĐ - CP ngày " . tháng 11 năm 2013 ) là khơng có căn cứ . Căn cứ vào khoản 1
Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định “ Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi
bố trí , sắp xếp để thực hiện việc mua dâm , bản đậm " . Tại khoản 2 Điều 5 Pháp lệnh này
quy định : “ Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho
người bán dâm để được giao cấu ” . Trong Biên bản số 11 chỉ xác thực rằng “ tại thời điểm
kiểm tra nhà trọ Hồng Lan phỏng 11 có ơng Nguyễn Văn Thưởng và bà Nguyễn Thị Lành
khơng có giấy kết hơn đang quan hệ vợ chồng quan hệ tình dục ) ; phịng số 9 có ơng Phan
Văn và bà Nguyễn Thị Thủy khơng có giấy kết hơn đang ở chung phịng xem ti vi ; sau đó
kết luận rằng chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi
phạm như trên " . Tại Quyết định số 23 , hành vi của những người thuê trọ bị xem là hoạt
động mại dâm . Nhưng theo tường trình của ơng Nguyễn Văn Thường , bà Nguyễn Thị Linh
xác nhận hai người là vợ chồng , thuê phòng ở chung , bà Lành đang làm việc tại thị trấn
Đ.C xuống thăm chồng . Theo tường trình của Ơng Phan Văn , Bà Nguyễn Thị Thủy ( Bút
lục 29 , 30 ) . Ông Văn và Bà Thủy đã có làm đám hỏi nhưng do ông ngoại mất nên chưa kết

8


hôn , hiện Bà Thủy đang mang thai . Theo Điểm d Khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành

chính 2012 , Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành
chính . Tuy nhiên , Thanh tra Sở đã không chứng minh được có hành vi giao nhận tiền giữa
người thuê trọ . Do đó , cho rằng cơ sở bả Tuyết đã tạo điều kiện cho người khác lợi dụng
cơ sở kinh doanh để tổ chức hoạt động mại dâm là không có cơ sở .
- Thứ tư , Quyết định số 23 được ban hành khi đã hết thời hạn ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính : Theo Khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy
định : “ Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày , kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính . Đối
với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đổi với vụ
việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này
thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày , kể từ ngày lập biên bản .
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng , có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp
giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có
thêm thời gian để xác minh , thu thập chứng cử thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ
việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn ; việc gia hạn
phải bằng văn bản , thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày " . Biên bản số 11 được lập
ngày 23/12/2013 ; Quyết định số 23 được ban hành vào ngày 10/3/2014 . Do đó , tính từ
thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính đến thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính là 77 ngày , đã quá thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính . Do đó , việc
Chánh thanh tra Sở ban hành Quyết định số 23 khi đã hết thời hạn xử phạt là trái với quy
định định tại khoản 2 Điều 66 của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 . Thứ tư , Tờ trình số
02 / TT - TTr ngày 16/01/2014 xin gia hạn thời hạn ra Quyết định số 23 khơng đúng về mặt
hình thức : Theo Khoản 1 Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 , trường hợp cần có
thêm thời gian để xác minh , thu thập chứng cử thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ
việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản đề xin gia hạn . Tuy nhiên ,
Tờ trình số 02 / TT - TTr ngày 16/01/2014 ( sau đây gọi là Tờ trình số 02 ) được Thượng tá
Nguyễn Thạc ký tên mà khơng có văn bản ủy quyền , khơng chứng minh được Tờ trình 02
được lập đúng thẩm quyền . Do đó , căn cứ để gia hạn thời gian ra Quyết định số 23 là trái
quy định pháp luật .
-Thứ năm: Kể từ ngày lập biên bản đến ngày ra quyết định xử phạt hành chính là đã quá

thời hạn. Cụ thể ngày lập biên bản là ngày 23/12/2013 thì đến ngày 10/03/2014 mới ra quyết
định xử phạt. Như vậy quyết định đã ra chậm trễ 77 ngày.
Căn cứ theo điều 66 luật xử lý vi phạm hành chính thì:
“1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối
với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ
việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này
thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp và thuộc trường hợp
giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này mà cần có

9


thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ
việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn
phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn không được quá 30 ngày.
2. Quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này hoặc khoản 3 Điều 63 của Luật này,
người có thẩm quyền xử phạt không ra quyết định xử phạt nhưng vẫn quyết định áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này, quyết định tịch thu
sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu
hành.
Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nếu có lỗi trong việc để q thời hạn mà
khơng ra quyết định xử phạt thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.”
Như vậy có thể thấy việc ra quyết định số 23 là hoàn toàn trái với luật xử lý vi phạm hành
chính cả về mặt thể thức lẫn mặt nội dung. Kể cả về mạt trình tự thủ tục cũng có vi phạm
nghiêm trọng.
-Thứ sáu: Xét về bản chất sự việc thì, khi đồn kiển tra đến các phịng số 11, phịng
số 9 thì thấy tại phịng số 11 có ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành đang quan
hệ vợ chồng (quan hệ tình dục). Tuy nhiên đồn kiểm tra khơng có đủ căn cứ để chứng minh

đây là hành vi mua bán dâm. Tại các văn bản tường trình thì ơng Thường và bà Lành khai
rằng là vợ chồng. Do đó khơng có căn cứ cho rằng đây là hành vi mua bán dâm.
Từ đó suy ra khơng thể kết luận bà Tuyết có hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt
động mua dâm, bán dâm.
Đồng thời khi ông Thường và bà Lành đến th phịng trọ thì Bà Tuyết cũng khơng thể biết
trước họ th với mục đích gì ?
Như vậy: Từ những căn cứ trên, tôi đề nghị tòa án nhân dân tỉnh G.L tuyên hủy
Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 về “xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, thể thao và du lịch” đối với bà Nguyễn Thị Tuyết. Đồng thời với việc ra quyết định
số 23 trái pháp luật đã gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bà Tuyết. Cụ thể hậu
quả thiệt hại về uy tín làm cho bà Tuyết mất đi một lượng khách hàng.
Do đó, đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch bồ thường một khoản chi phí là
50.000.000 đồng, đây là số tiền thiệt hại thực tế đối với bà Tuyết. Đồng Thời yêu cầu đại
diện Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải xin lỗi công khai.
Trân trọng cảm ơn q tịa đã lắng nghe ý kiến của tơi !
Câu Hỏi

1. Anh chị hãy nêu ý kiến nhận xét ưu điểm và 3 nhược điểm của tham gia diễn án hơm
nay?
Ưu điểm :
- Có chuẩn bị dự kiến kế hoạch hỏi tại phiên tòa
- Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ và ứng biến tốt khi gặp những câu hỏi ngồi tình huống
đã chuẩn bị trước.

10


- Chuẩn bị hệ thống văn bản pháp luật trước đưa ra dẫn chứng nhằm khẳng định luận
điểm minh là đung
Nhược điểm

- Một số bạn chưa nắm rõ hồ sơ như người bị kiện đã không thể trả lời ngay câu hỏi
của luật sư người khởi kiện mà cần thời gian để đọc lại hồ sơ.
- Các câu hỏi của các bạn tham gia diễn án còn dài dòng, chưa đi vào trọng tâm của
vấn đề.
- Phần luận cứ và phần câu hỏi đặt ra khơng có sự liên kết với nhau để dẫn chứng luận
cứ là đúng.

2.Trong vụ án có cần bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng? Nếu có thì
anh chị xác định là cá nhân hay tổ chức, cơ quan nào ? Vì sao ?
- Theo tôi trong vụ án cần bổ không cần bổ sung thêm người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan chỉ cần có người liên quan trực tiếp là:
+ Ông Nguyễn Hữu Phong – người đứng tên trên GCN QSDĐ số AK 734508.
+ Bà Nguyễn Thị Nghiệm – người đứng tên trên GCN QSDĐ số AK 734508 (ủy
quyền cho ông Phong theo Giấy ủy quyền – BL 17).
Đủ để chứng minh vì xét về bản chất sự việc thì, khi đồn kiển tra đến các phịng số 11,
phịng số 9 thì thấy tại phịng số 11 có ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành
đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục). Tuy nhiên đồn kiểm tra khơng có đủ căn cứ để
chứng minh đây là hành vi mua bán dâm. Tại các văn bản tường trình thì ơng Thường và bà
Lành khai rằng là vợ chồng. Do đó khơng có căn cứ cho rằng đây là hành vi mua bán dâm.
Từ đó suy ra khơng thể kết luận bà Tuyết có hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt
động mua dâm, bán dâm.
Đồng thời khi ơng Thường và bà Lành đến th phịng trọ thì Bà Tuyết cũng khơng thể biết
trước họ th với mục đích gì ?
Như vậy: Từ những căn cứ trên, tơi đề nghị tịa án nhân dân tỉnh G.L tuyên hủy Quyết định
số 23/QĐ-XP ngày 10/3/2014 về “xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể
thao và du lịch” đối với bà Nguyễn Thị Tuyết. Đồng thời với việc ra quyết định số 23 trái
pháp luật đã gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của bà Tuyết. Cụ thể hậu quả thiệt
hại về uy tín làm cho bà Tuyết mất đi một lượng khách hàng vì khơng chứng minh được
hoạt động mua dâm trong sự việc này nên khơng cần thêm người có quyền và nghĩa vụ liên
quan làm chứng.


11


12



×