Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Tho Van Loi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.61 KB, 127 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>THƠ QUÊ. Vaờn Lụi. Dấu Ấn Thời Gian TẬP II NHỮNG VẦN THƠ ĐẦU TAY. GIẢI BÀY.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Mới hôm nào mà nay nhìn lại thời gian như trôi về dĩ vãng, xa rồi ư, chưa! Chặng đường phía trước của mình còn dài lắm, không… nếu có dài… Lần gỡ tháng ngày mà suy ngẫm bao điều như buồn, như vui , man mác suy tư một thời quá khứ hay dở, dở hay, nghĩ mà cười cho mình, cho đời, dẫu không hay, nặng nghĩa đèo bòng chẳng nỡ bỏ đi, hành trang bước tiếp, nặng mối tình đầu. Vả chăng như hương thơm, quả ngọt, phải trải qua đắng cay, chua chát là lẽ thường tình. Đôi lời giải bày chưa hẳn là để con cháu mai sau thấu cho chăng hoặc giả có độc giả hạ cố đoái trông mà cảm thông số phận, cái chính là dù hay dở, xấu tốt đều là dấu ấn thời gian đích thực, ta phải trân trọng, đừng vì yêu mà thắm, đừng vì ghét mà phai. Có vậy ta mới thấy giá trị đích thực của cuộc sống hiện tại và huy hoàng của tương lai như trăm sông đổ về biển cả,.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> nước đi lại nhớ về nguồn.Những vần thơ quê mùa xin lưu lại ai là người thấu cho chăng! Biên lại: 15- 12- 2010- Canh Dần.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> PHẦN I NHỮNG VẦN THƠ ĐẦU TAY TẾT BUỒN KHÔNG PHÁO KHÔNG HOA Mọi năm nổ pháo xua nghèo khổ Khổ chẳng qua đi khổ lại về Năm nay không nổ chờ cái khổ Xem khổ đời mình đến mức nào Xuân về thực lòng có nhớ hoa Tâm tư nông nỗi cảnh cửa nhà Cha mẹ ốm đau con cháu đói Có hoa mà thế thế thì thôi Qua đêm rồi phải sang ngày Gian nan khắc phục khổ này phải qua Tết này không pháo không hoa Hẹn xuân năm tới ắt là nhiều hơn -Xuân Ất Sửu 1985-.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> CHA KIẾP THẦY BÓI Tết về nghĩ cảnh lại thêm sầu Sắn khoai tranh nhau nghi ngút khói Cha kiếp thầy bói khéo nói lừa Cơm ăn chẳng có chứ thịt treo -Tết Ất Sửu 1985-. MẸO LỪA Chuyện tôi mới nghe nói Chẳng rõ thực hay hư Ở Hà Nội vừa qua Có một ông cụ già Chuyên môn buôn hàng cổ Vốn bỏ ra cũng lắm Lãi thu vào cũng nhiều Sớm sớm lại chiều chiều Tứ phương khách lai vãng Hàng ra tận nước ngoài Bỗng hôm có một người.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Ra dáng vẻ ăn chơi Hỏi thăm nơi cụ ở Người khách lễ phép nói: Thưa cụ cháu xin hỏi Cụ hay buôn đồ cỗ Vâng anh muốn chuyện gì? Mua thì tôi cũng bán Bán thì tôi cũng mua Dạ cháu xin bày tỏ Cháu có một món hàng Nhưng chỉ là đồ rởm Đây con Hạc đồng đen Nhờ cụ giùm bán giúp Có thể chỉ có cụ Mới bán trôi được thôi Nhờ cụ giúp đến nơi Công cháu xin gửi cụ Mỗi ngày một trăm đồng Tính tham nghĩ vui lòng.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Chẳng cần bán được không Cứ nhận ,ta hưởng công Trăm đồng ngày cũng khá Nói xong người khách đi Qua tròn trăng trở lại Thưa cụ bán được chưa Cho cháu xin tiền vậy Cụ già cười buông trôi Có ma nào đến hỏi Người khách liền rút ra Ba nghìn đồng trả công Xin gửi cụ tròn tháng Nhờ cụ cứ bán tiếp Công cháu vẫn cứ hoàn… Bỗng dưng một tháng trời Lấy không ba nghìn bạc Thấy vui vui trong lòng Thôi được anh yên tâm Ta sẽ dùm bán tiếp….

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Người khách đi nửa tháng Lại trở lại hỏi han Thưa cụ là xong chưa? Vẫn chưa anh khách ạ! Tiếng thân mật đồng tiền Ra vẻ dáng thân quen Thiết tha ông chủ nói Được anh cứ yên tâm Vâng nhờ cụ bán tiếp! Công cháu lại xin gửi Một ngàn rưỡi nữa đây Ông cụ liền giơ tay Bốn ngàn rưỡi ngon rồi Thấy món ăn cũng hời Nên cứ im thiên thiết Nói rồi khách lại đi Hẹn thời gian trở lại Người khách quen mới đi Người khách lạ tới hỏi.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Dáng ăn mặc ngoại quốc Lại nói tiếng nước ngoài Lòng thành khách bày tỏ Ở ngoại bang tôi ở Người ấy cần món hàng Đắt mấy họ cũng mua Dù có đổi dinh cơ Nếu có lòng vẫn thuận Bởi họ thích ăn chơi Nay còn đang lẽ đôi Thiếu con Hạc đồng đen Nếu có cụ bán cho Nếu không cụ mua giúp Đắt mấy cháu xin gửi Miễn là có đúng nòi Khác nào hạn gặp mưa Cụ già liền lớn tiếng Ngoài ta ra ai có Của ấy với bây giờ.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Đây anh thử xem coi Đúng của nòi đáng giá Thật là rất quý hoá Chẳng phải của vàng, thau Bây giờ cụ nói mau Đáng bao nhiêu thì ngã Hai trăm ngàn đấy thôi Hàng đây không mặc cả Người khách rất vui lòng Đắc chí hàng phải giá Rút ra bốn chục nghìn Cháu xin tạm gửi cụ Gọi là chỗ làm tin Vài hôm sau đủ tiền Cháu sẽ quay lại lấy Nhờ xin cụ giúp cho Ấy xin cụ đừng lo Con số bốn chục nghìn Với cái nghề buôn bán.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Ông cháu ta là thường Cứ xin cụ giữ hàng Đừng trao tay người khác Muộn lắm chỉ dăm hôm Mang tiền cháu xin cụ Với cái nghề buôn bán Khi chưa bắt được hàng Mang nhiều tiền trong mình Ắt là không có lợi Có lẽ cụ thính đời Không còn lạ gì nữa Lời tôn nịnh quá chừng Vui vui tai cũng phải Tiền giao hàng chưa lấy Khách đã vội chào đi Lòng già vui đưa tiễn Bởi món ăn có hời Đinh ninh lòng nhủ dạ Nhưng ngờ đâu tai vạ.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Đã kề tới vai già Hai ngày vừa bước qua Người khách xưa trở lại Trả công hai ngày tiếp Hớn hở khách nói cười Cụ đã bán được chưa Nếu chưa cháu xin lại Cháu đã có khách rồi Trăm rưỡi nghìn đấy thôi Nếu cụ bán được rồi Cho cháu xin tiền vậy Cụ già ngồi chốc lát Suy tính rồi gật đầu Tôi đã bán được rồi Vậy cho cháu xin tiền Cũng giá đó đấy thôi Chẳng thêm bớt một lời Trăm rưỡi ngàn quân tử Đấy tận tình đấy nhé….

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Vâng cháu xin cảm ơn Lời cảm ơn cắt đường Từ đây biệt tung tích Dăm ngày đã trôi qua Mươi ngày cũng chẳng thấy Sao lại thế này nhỉ Có lẽ mình hay sao? Thôi được xem thế nào Miệng nhủ lời chưa xong Lòng đã nhem lửa cháy Chân tay cụ bủn rủn Trán toát lạnh mồ hôi Thôi quả đúng thực rồi Mẹo lừa mình đã mắc. 1985. ÍT TIỀN KHÓ MUA Thương ông già ngồi chờ bát miến Vì ít tiền chẳng được ăn ngay Chủ hàng thì múc luôn tay.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Mà ông cứ phải loay hoay đứng chờ Vịn lý do ông chờ hết bát Tí nữa còn tôi sẽ bán cho Hay là ông cứ đi mô Già kia vẫn đợi đứng chờ khoanh tay Chép miệng nhìn kẻ quanh người quất Lóp ngóp ngồi mất cả đường đi Kẻ có, có tính làm chi Ăn xong, bỏ bát, tiền thì quẳng tay Tôi thầm nghĩ nhiều tiền sướng thật Đời này ai bằng cả đồng tiền Đứng bên nhìn thấy mà phiền Thương ông già vẫn không quên đứng chờ. Đứng trước mãi, lại sau già hỏi.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Chủ trả lời tí nữa bán cho Lờ mờ đôi mắt nhập nhoè Phều phào già khẽ nói tôi nghe cùng Ít tiền khó mua 1985 GHI CHÚ: Nhân dịp đi thị xã có chút việc, đứng đợi phía ngoài chợ (Vườn hoa cũ) tận mắt nhìn thấy một ông cụ già chừng 70 tuổi muốn mua nửa bát miến ăn của bà bán hàng ăn rong ngồi vành ngoài cổng chợ, có lẽ vì không đủ tiền mua cả bát, nên bà chủ hàng không muốn bán nên cứ nói dối quanh nhìn thấy mà thương về nhà nghĩ lại cảm tác mà làm .. (Khoảng tháng 10,11-1985). NHÂN TÂM Nhân tâm ngày nay rất khác xưa Đời luôn thường thấy cảnh lọc lưa Dài quần kín áo rằng nhân đạo Gió tung tà lật nhát dao đưa.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> KHUYÊN CON Khuyên con lớn lên giữa đạo người Hay hèn nghèo khó mặc lòng trời Ở sao cho tiếng người lương thiện Nghèo kia đâu ở mãi cùng ta. BỒ CÂU ĂN SẴN Gật gù gật gù giống bồ câu Đói đã có thóc để trong bầu Không có người nuôi mi chỉ chết Thả ra mi có hơn ai đâu Đừng cậy lông trơn với mình đẹp Không có thóc bồ đẹp với ai Đừng quen chao cánh vội khoe tài Ắt sẽ có ngày chẳng bằng ai. 1985.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> CẢNH MẤT MÙA * * * Mấy vụ nay mùa màng mất mát Hạ hái là bát phải vơi dần Ấy mà lòng vẫn bần thần Lấy gì đền sản vụ gần vụ xa Sản không đủ ắt là nhà trống Bàn ghế kia đi ngựa đi xe Lợn kêu tiếng nhỏ tiếng to Nghe tiếng chó sủa lại lo đến mình 10-1985 Ghi chú: Khoảng năm 1985 mùa màng thấp kém, lúa thu hoạch không đủ sản, nhiều gia đình lâm vào nợ nần, nhà mình cũng không ngoại lệ H-T-X trở ra bắt đồ nên có cảnh như vậy..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> MÙA NÀY Mùa này trông cảnh thảm làm sao Mỗi sào gặt được mấy bát nào Ngoài đường ăn xin thường đi lại Dẫn đoàn thu sản đến từng nhà Hỏi lúa không còn thì lục soát Nhà ngoài tìm hết dẫn nhà trong Không lúa, thu đi bộ cánh cửa Lợn chuồng nếu có cũng bắt luôn Ngán nỗi cái xay cũng phải bắt Còn vài bò gạo chẳng nể lòng Ông trời trông xuống xem có thảm Trách ông có mắt hay là không T11-1985 Ghi chú: Vì thiếu sản H-T-X không có lúa để điều hành cần thiết nên thậm trí đã hết năm các đoàn thu sản vẫn đến từng gia đình thiếu sản lục soát bắt bớ trông rất thảm ( cái xay bột).

<span class='text_page_counter'>(19)</span> LO QUANH NĂM Ngày ba tháng tám lo chạy ăn Mùa về lại lo cả việc mằn Lúa mống ngoài đồng lo chạy vớt Má ngập trước làng lo nước tiêu Con ốm nằm giường lo thang thuốc Lúa chữa được khô sản lo đền Tất tưởi quanh năm sao vậy nhỉ Trách đời sao lắm sự nhiêu khê T5-1986.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> ĐỜI MÌNH Đời mình lắm lúc nghĩ chán ghê Quanh năm công nợ cứ bộn bề Có phải vụng làm mà như thế Hay là ăn lắm để người chê Chằn lưng cả vụ độ ngàn điểm Mỗi tháng ba cân đủ mức gì (1) Thế mà người đời còn gọi sướng Thực khổ nữa thì đến mức chi Ấy là chưa kể hàng trăm khoản Đồng nợ, đồng công chỗ phải bù (2) Biết trước một mình ở vậy quách Khỏi phải lo đời khỏi tội con T5-1986 Ghi chú:(1) Mức ăn mỗi tháng một người được ba kg lúa (2) Bù là bù sản, đồng công là mức đóng góp.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> HẠN THÁNG TÁM Trời đất sao mà lắm đổi thay Tháng tám mong mưa đến từng ngày Cóc nhái nghiến răng nghe thảm thiết Lúa ôm đòng đòng trổ không ra Dân tình kêu lắm thêm mỏi miệng Cán bộ luôn mồm khách vào ra Nghe nói phía Bắc lũ lụt lắm Trách trời ăn ở mãi bất hoà. Tháng 8- Bính Tý. LÃO NÔNG Thầy ta, tớ ta, xe pháo ta Khoai sắn đôi lần, bữa gọi là Ăn thế, làm thế, đời ở thế Mai sau con cháu biết cho mà Làm lắm nhiều khi cũng thấy mệt Không làm lại bảo chẳng lo xa Ừ thế cũng thôi khỏi tai tiếng Lão nông sớm tối lo việc nhà T4-1987.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> HỎI TRỜI Hỏi trời duyên cớ vì sao Dân mình chịu mãi lao đao thế này Hết bọ xít lại bọ rày Năm qua đã kém năm này kém hơn Ông trời có tỏ nguồn cơn Ngỏ cho dân biết thiệt hơn chỗ nào Trời rằng đất bạc (1) nước đen(2) Phân tro thì ít dân quen đạm nhiều Gặp khi thời tiết ngược chiều Sâu bệnh phát triển là điều đáng lo. 1987 Ghi chú: (1) Đất bạc là đất bạc màu (2) Nước đen là nước bị ô nhiễm.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> THƠ XUÂN 88 Đón xuân vui tết pháo nổ rền Nhờ trời năm mới làm ăn nên Ơn người thăm hỏi khi khúc khửu Hẹn lại thanh nhàn chẳng nỡ quên Đói no con tao còn xoay mãi Hẹn lòng ăn ở giữ cho bền Phú quý ở đời ai chẳng muốn Vị tổ vị tiên chớ vị tiền 1988. * * * HỎI XUÂN 88 Đầu năm mượn bút hỏi xuân chơi Công nợ của ta bao giờ vơi Có cho mở mày cùng thiên hạ Hay là bắt ta khổ suốt đời Xuân rằng kính chúc anh đôi lời Làm ăn cần kiệm sống thảnh thơi Phụng sự cha mẹ, nuôi con nhỏ Khổ tận cam lai sắp đến rồi..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> AI BIẾT Đã bỏ mấy năm lại còn làm Có phải giàu có mà anh ham Ham, lo con đói, vợ khỏi khổ Ai biết được thua mà đừng làm. HẾT NĂM CÒN ĐAU (1) Hết năm đến thăm ông thầy lang Ông thương ông bốc cho bốn thang Mỗi thang hết sáu trăm đồng bạc Ấy là lấy rẻ vì người làng 1988 Ghi chú: Hết năm là hết năm Đinh Mão 1987.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> NGÀY TẾT TRỜI MƯA Tết nhất năm nay thật là hay Ba mươi mùng một mưa cả ngày Ai đến nhà ai cũng thấy ngại Ngại phải gỡ dép với gỡ dày 1988. THANH MINH Thanh minh lất phất mưa phùn Đã đói lại rét nỗi buồn xót xa Ấm no thử hỏi đâ-u ta Phải chăng phú quý vẫn là phong lưu Của thì ít tiền thì nhiều Giá cả thay đổi sớm chiều đầy vơi Bao giờ cho được thảnh thơi Cho dân no ấm vui trời thanh minh T3-Mậu Thìn.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> NGỒI BUỒN Ngồi buồn nhấc bút viết thơ Nín đi thì tức nói dơ cửa nhà Cha thì chén rượu chén trà Mẹ thì nem chả la đà tỉnh say Con thì nức tiếng đó đây Nay trộm , mai cướp, cũng vầy mẹ cha Đêm nằm suy tính cảnh nhà Một phương dối trá tổ cha chúng mày T3-Mậu Thìn 1988. THÌN TỴ CHỊ BỎ EM Nợ lãi gấp đôi, tới gấp ba Nợ chém mà vay cũng khó mà Chị em cũng chẳng bằng con lãi Lời nói người xưa thật chẳng ngoa T3- Mậu Thìn 1988.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> CHUYỆN Chuyện đói ở đâu cũng thế thôi Hết giêng, hai cũng đã qua rồi Tháng ba biết chạy vào đâu được Có lẽ cơ này đến chết thôi T3- Mậu Thìn. XUÂN Vui xuân mà lại ngán cho xuân Công nợ lên gấp ba bốn lần Vay một trả ba mà vẫn khó Thưa, thưa, bẩm bẩm với ơn thầm T3- Mậu Thìn.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> CHƯA ĐỀ Xưa có một người Khi chưa tạ thế Cậy chút uy thế Lại lắm bạn thời Cái lối ngược đời Ông hay hống hách Khi con chơi nghịch Ông thường ngợi khen Ta đây chẳng hèn Là nhà dòng giỏi Hàng xóm xa gần Khi con ánh ỏi Ông vẫn giành hơn Con mình là phải Hễ ai nói lại Tìm cách hại ngay Thật ái ngại thay Để lại sau này.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Bầy con vô nghĩa Khi cha qua đời Khi mẹ già yếu Bất chấp đạo hiếu Chẳng giữ tiếng tăm Nức tiếng xa gần Là phường đạo tặc 1988. NHẮN ÔNG THUỶ NÔNG Xa xưa cũng cánh đồng này Cũng con sông ấy nước đầy vên vên Đồng vàn cho chí đồng trên Cần đâu có đấy nước lên đều đều Mặc cho mưa nắng ngược chiều Phân nhiều, nước đủ là điều khỏi lo Mùa về lúa ngập sân kho Thóc vàng hạt mẫy vì no nước đầy Ngày nay cũng cánh đồng này.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Cũng con sông ấy suốt ngày cạn khô Hỏi người trách nhiệm để mô Để cho vất vả dân lo một mình Còn gây bao chuyện bất bình Đêm hôm mò mẫm tội tình lắm thay Cơ chế khoán mới đổi thay Mong người trách nhiệm lo đầy nước sông T3-1987. *. *. *. MAY May mà nhà nước còn cho vay Không thì chuyến này lắm người gay Bát gạo từ Nam chuyển ra Bắc Tình dân nghĩa Đảng công ơn dày Tháng 4-88. TA NGHĨ.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Ta nghĩ như ta có dại gì Làm ăn luôn tránh điều lỗi nghì Cớ sao cái túng cứ túng mãi Hay là trời chỉ độ anh phi Thôi thì túng thiếu đành đành phận Lỗi nghì chẳng dám đến suy vi Bao giờ tỉnh giấc trời soi lại Mấy anh gian dối có ra gì T4-88.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> NÓI VUI Khi vui bặt miệng bặt mồm Câu thơ câu phú cho rôm cửa nhà Hay hèn ai đụng đến ta Nói ra không khéo tai va vạ trời Ngẫm xem muôn sự ở đời Giàu, sang, phú, quý ai người không mong Sống sao cho khỏi bận lòng Làm ăn chính nghĩa thong dong tháng ngày Mặc ai vui thú no say Làm ăn phi nghĩa có ngày nhuốc nhơ..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> NHẮN ÔNG CHỦ NHIỆM ( BÀI I) Hạn hán chẳng thấy ban mô Đất nẻ cây lúa héo khô ôm đòng Xã viên lo lắng trong lòng Sao ông cứ thấy thong dong hội trường Lo xây xong nốt bức tường Ngăn sân đắp đất kịp phường hát chơi Mặc ai ca thán nhiều lời Còn ông cứ thấy thảnh thơi sớm chiều Hạn hán có thấy ai mô Đến khi có lúa mới vô từng nhà Lại còn chè rượu vịt gà Làm ăn như thế tiếng là vì dân Mấy lời nhắn nhủ xa gần Trách nhiệm lơ đảnh ông cần bỏ đi. T4-1988.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> BUỒN Nỗi buồn day dứt đến từng ngày Tâm tư nào biết tỏ ai hay Cha mẹ ốm đau con cháu đói Gia bằn bệnh trọng biết sao đây T4-1988. NHẮN ÔNG CHỦ NHIỆM (Bài II) Quê hương ta đói cũng vì Mấy đời chủ nhiệm phá đi quá nhiều Cán bộ tuỳ ý ăn tiêu Nay chè mai chén sớm chiều no say Thưởng thức khắp chốn đó đây Hội trường không hợp bởi vầy dân qua Lại rồi đặt xuống từng nhà Đến giờ túc chắc kẻ xa người gần.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Lại rồi những quán cận lân Ăn xong ký sổ mấy phân lo gì Của đâu mà cứ tì tì Điểm xem có phải hay vì nói sai Khi thì hội họp giẳng giai Thăm đồng thăm áng xem ai thiếu thừa Khi thì máy cày máy bừa Khách ba, chủ bảy lời xưa tụng truyền Mỗi vụ thanh toán mới phiền Khi sơ khi tổng thật hờn lòng dân Còn nhiều những chuyện vân vân Kể không thể xiết lòng dân nghi ngờ Mong bạn độc giả nán chờ Bài sau xin kể tóc tơ từng người T4-1988.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> NGỦ NGOÀI ĐỒNG Đêm đầu ngủ ở giữa đồng trại Nghĩ mình thêm thẹn tuổi làm trai Người ta vùng vẫy vì danh lợi Mình lo quanh quẩn kế sinh nhai 28-5-Mậu Thìn 1998. GIÀU Thiên hạ lắm kẻ giàu tự nhiên Vợ con sung túc tựa chân tiên Quần là áo lượt trông sang lịch Kẻ đón người đưa thấy thật phiền Khi bác, khi chú, qua, lại, lại Quanh đi quẩn lại cứ luân phiên Ruột già máu mủ có đâu vậy Có lẽ,vị chi,chỉ vị tiền..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> NHẮN ÔNG CHỦ NHIỆM. (Bài III) Buổi đầu chủ nhiệm ông Quan điểm có lẽ người rưng cũng cần Ngõ xa cho chí xóm gần Ông thường han hỏi chuyên cần sớm hôm Chiêm, mùa lúa tốt vàng ươm Công điểm cũng khá tiếng thơm cũng lừng Ngành nghề phát triển tưng bừng Đàn vịt,bầy lợn lại cùng gạch, vôi Xã viên hợp tác quê tôi Hàng năm bồi dưỡng cũng đôi ba lần Cuộc vui ông cứ dần dần Quá đà bãng mất quên dân đi rồi Đi đâu ông cứ kéo đuôi Một bày tôi tớ ngược xuôi thật giầy Quản lý kinh tế nặng vầy Lòng tin dân chúng càng gầy càng hao Rượu, chè chẳng thiếu chỗ nào Khi thì hội họp khi vào nhà dân Khi thì những quán cận lân Ăn song ký sổ bắt dân chịu hoài..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> 1988. THÁNG 7 KHÔNG NGÂU Tháng bảy năm nay không có ngâu Trời cao xanh ngắt nắng còn lâu Đất đồng khô nẻ lúa mong nước Cây ốm đòng đòng cây ốm sâu. T7-1988. NHẮN Việc xong ta lại viết thơ chơi Nhắn kẻ tiểu nhân nói hai lời Phúc đức để đâu mà nói vậy Sống đời phải giữ tiếng cho đời Tấm lòng thanh thản thật là khó Mai mốt ai ơi lúc qua đời Bất chấp khó khăn ta chẳng quản Nghĩa tình ngày ấy họ quên rồi 1-10-1988.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> LÀM VỤ ĐÔNG Nhà nhà người người làm vụ đông Suốt ngày vang tiếng ở ngoài đồng Nắng, mưa, sớm, tối không hề quản Lo sao tháng ba khỏi đói lòng Con trâu, con bò là bạn thân Cày, bừa vũ khí rất là cần Ruộng đồng năm, đôi lại ba vụ Sớm lúa chiều khoai khắp xa gần T9-1988. KHUYÊN CON LÀM THÊM KHOAI ĐÔNG Con ơi gắng làm thêm khoai Giêng, hai, tháng rộng ngày dài lo chi Khó khăn đừng nặng chữ vì Hễ siêng lao động ắt thì ấm no Của đâu, có của trời cho Trời cho thú ít, ắt lo sầu nhiều Thương cha, thương mẹ bao nhiêu.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Học hành con hãy sớm chiều chăm lo T9-1988. ĐỪNG ĐỂ AI KHINH Tết nhất đơn sơ nặng nghĩa tình Hương hoa đầy đủ tổ tiên vinh Cá thịt mai sau còn mãi mãi Sắn khoai hôm nay bạn đừng khinh Nghèo mình nhưng vui vì thanh thản Giàu ai đó nọ tiếng tanh rình Ba sáu ngàn ngày được mấy nỗi Trăm năm đừng để tiếng ai khinh Tết Kỷ Tỵ 1989. THƠ XUÂN 1989 Pháo rền vui đón lúc sang xuân Xua đuổi nghèo đói với nợ nần Tiếp bước trên đường xây cuộc sống Tương lai hứa hẹn đã đến gần Vợ chồng ý hợp với tâm đồng Các con lớn nhỏ sức quây quần.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Chung vai gánh vác giang sơn cảnh Hạnh phúc ấm no mãi mãi xuân THƠ XUÂN 1990 Xuân về viết mấy vần thơ xuân Chín mươi bước sang trời trong ngần Quan liêu tiêu cực đẩy lùi lại Đời sống xã hội ổn định dần Ơn Đảng chỉ đường xây cuộc sống Lòng dân phấn khởi dựng tương lai Đất thầu đất khoán đều tăng vụ Tứ thời no ấm tứ thời xuân CÂU ĐỐI I- Tranh tàu pháo quảng đón tết cờ treo rợp trời Nam - Đổi sắc thêm hương sang xuân lúa trải kín đất Việt II- Vui đón tết nào hoa nào pháo kỷ niệm trăm năm ngày sinh Bác. - Bước sang xuân thắm lúa mượt khoai chào mừng sáu chục tuổi của Đảng..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> VUI VỚI CẢNH NGHÈO Vui với cảnh nghèo giữ đạo nhà Phú quý ở đời mây thoảng qua Tiền bạc bao nhiêu rồi cũng hết Nhân hậu trước sau mãi đậm đà Tết Canh Ngọ 1990. PHẦN II Hương đồng: Những vần thơ làm ở ngoài đồng thời gian làm đất thầu ( đồng trại) chủ yếu động viên bản thân và gia đình làm đất thầu. CON ƠI Cũng vì cuộc sống con ơi Cha con ta tạm xa nơi xóm làng Xa anh em, xa họ hàng Xa người thân thích lân bàng sớm hôm.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Cũng vì manh áo miếng cơm Cũng vì cuộc sống lửa rơm đói nghèo Vì còn bao cảnh gieo neo Ấm no chưa đến, đói nghèo chưa qua Hôm nay tạm xa cửa nhà… Làm theo ý Đảng chắc là ấm no T10-1988. CÂU ĐỐI VIẾT ĐÓN XUÂN 1989 TRÊN ĐỒNG TRẠI. - Tiếp những vụ khoán mới lòng dân no ấm hăng say lao động - Qua bao cuộc cách mạng tin Đảng dẫn đường dựng xây Tổ quốc + Nghị quyết mười soi sáng dân hăng hái lao động xây cuộc sống + Đại hội sáu rực rỡ Đảng tiên phong dẫn đường mãi thành công.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Xuân Kỷ Tỵ. TÂN CẢNH Người bảo ăn đời ở mãi sao Bớt công tí chút chẳng là bao Một ngày cũng nên tô tân cảnh Tân cảnh thêm vui đời dạt dào Lọ là tiền bạc chốn thanh cao Nhân nghĩa ở đời quý biết bao Điền viên vui cảnh cao niên lão Đời chuyện khen chê thiếu lẽ nào T4-1989 Ghi chú: Nhân có người (chê mình )ăn đời ở mãi trên đồng trại hay sao mà tô tân cảnh, nên làm để trả lời đáp lại họ.. ĐÊM KHUYA Đêm khuya, khuya khoát bóng trăng lồng Hàng cúc trước sân có biết không Sương , gió trăng hoa thêm hửng sắc Trại cao(1) ngắn cảnh tiểu tiên ông.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Ghi chú: (1) Đồng Trại Cao. CÓ TIẾNG KHÔNG CÓ MIẾNG. Thật là tiếng cả nhà không Nợ như chúa chổm sản không hoàn thành Khổ con tội vợ hổ danh Còn chi vui nữa hỡi anh chồng này Lại còn bao nỗi đắng cay Nói ra lại bảo anh này dở om. BÃO NĂM KỶ TỴ (1989) Bão lụt năm nay sao lắm ghê Ông trời ăn ở thật nên chê Chiêm vừa thư thư ra đôi chút Mùa liệu thu chừng mấy bát về Cây cối đìu hiu xơ xác cảnh Tan hoang nhà cửa khổ tư bề Năm qua bát gạo còn ghi mãi.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Nghe nói còn nhiều cảnh thảm thê T6- 1989 Ghi chú:Bát gạo năm qua là gạo nhà nước điều từ Nam ra Bắc chống đói cho dân.. TÌNH THIÊN Hôm qua bão gió mưa to Hôm nay chim hót líu lo trên cành Tình thiên thay đổi thật nhanh Vũ trụ phút chốc trở thành bình yên.. CANH KHUYA Canh khuya ngẫm nghĩ chuyện đường dài Nhân nghĩa ở đời được mấy ai Thường kẻ dư tiền, tâm lại thiếu Tội người tâm có lại không tài.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> PHÚ QUÝ CỦA HỒ VÂN Lời người xưa nói chẳng sai đâu Phú quý làm chi để lắm sầu Giấc mộng nam kha được mấy chốc Thạch sùng tắc lưỡi hãy còn lâu Tội người khoác lác nên mang khổ Bài học thôi thì để lại sau Gom góp từ đây xây dựng lại Thói đời vợ chồng bảo ban nhau T6- kỷ tỵ Ghi chú: Nhân thấy người hay có tính khoác lác, khoe mẽ lại để mất trộm.mà làm.. `.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> TỨC CẢNH Sớm canh rau khoai chiều rau lang Tạm bữa đôi lần vẫn sẵn sàng Công việc luôn tay tình thắm đậm Tiết trời đã báo độ thu sang. TRĂNG SOI VÀO LỀU Một túp lều tranh gió phất phơ Trăng vào trăng ra thật tình cờ Trăng vào hỏi chủ ngủ hay thức Trăng ra xin chủ một bài thơ Thơ rằng:. Nhân có mấy câu hỏi chị hằng Bao giờ thì hết kẻ nhố nhăng Ai làm nấy hưởng yêu lao động Kỷ cương xã hội được công bằng T8- Kỷ Tỵ.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> MẤT NỬA CÁI RĂNG Cái răng nhổ nửa sướng mà đau Nâng nó trên tay lại thấy sầu Bấm đốt nào đà được mấy chốc Trách mày sao nỡ vội đi mau Ngày 5/8/1989. TÔI YÊU NGƯỜI NÓI THẬT Kính tặng T.G.N.V. L. Tôi yêu người nói thật Như mẹ hiền yêu con Buổi đầu mới ấp ủ Bao năm tháng mỏi mòn Tôi yêu người nói thật Bằng cả tấm lòng son Như bao đời không đổi Trăng khuyết rồi lại tròn 6-9-Kỷ Tỵ Ghi chú: Từ sau Đại hội sáu của Đảng về đổi mới tư duy nhất là tư duy kinh tế. Trên thông tin đại chúng có đăng tải những bài viết của tác giả N.V.L( những việc cần làm ngay) cảm mến nên thơ.. BUỒN.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Nỗi buồn biết tỏ cùng ai Đêm khuya thánh thót mưa ngoài mái tranh Phần vì cha mẹ lão thành (1) Gia bần bệnh trọng nên đành bó tay Phần vì cách trở từ đây Anh em Nam Bắc biết ngày nào nguôi Tuổi già đã sắp đến rồi Xuân đà sắp hết thảnh thơi nỗi gì Con thơ vợ dại như di Liệu chừng nghèo đói có đi hay là Có lòng thương mẹ thương cha Tiền của không có vẫn là như không Nam nhi nghĩ cũng thẹn thùng Lều tranh đêm vắng giữa đồng buồn sao 15-9-Kỷ Tỵ Chú thích: (1) Lão thành ý cha mẹ đã thành bậc cao lão cả rồi..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> GÁC ĐÊM Chẳng phải lính tráng cũng cắt phiên Ở đời sá nghĩ lắm điều phiền Làm ăn chính đáng mà còn khó Hận kẻ vô lương chẳng để yên Gà gáy canh khuya thêm cảnh vắng Chó sủa í ổng phải đi liền Đồng hồ tích tắc kim từng nấc Mất ngủ một giờ đáng mấy tiền T10-1989 Ghi chú: Cuối những năm thập kỷ 90 của thế kỷ 20 đời sống nhân dân nói chung là nhiều vất vả . Nạn trộm cắp quấy vặt rất nhiều, nên ở ngoài đồng lại phải canh giữ, anh em phải cắt lượt gác đêm để giữ hoa màu..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> HAY Người bảo hay thơ nào có hay Nôm na vài chữ tỏ lòng này Làm ăn chính nghĩa yêu lao động Vẫn biết ở đời lắm chuyện hay Có kẻ điềm viên vui thú vị Người thì cờ bạc lấy làm say Có kẻ điều phiền không muốn ngó Người gặp danh lợi thẳng cánh bay Có kẻ tiền bạc như vẽ được Người mong cơm áo lúc vơi đầy Ba bảy tuổi đời chưa được mấy Đường đời ngẫm nghĩ thấy mà hay T10 - Kỷ Tỵ. ĐỜI LÀ NỢ Trang trải cho song món nợ đời.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Ấm no chưa đủ đâu thảnh thơi Nhàn mà vô lo nhàn vô dụng Lo chẳng được nhàn lẽ nợ đời T10 – Kỷ Tỵ Ghi chú: Trong quá trình công việc,làm lụng nhiều khi cũng thấy mệt, vợ thường phàn nàn người ta cũng tuổi với mình người ta thì nhàn, còn mình thì vất vả quanh năm, nên làm để động viên mình, động viên vợ.. VUI XUÂN Vui xuân vui với ruộng đồng Cờ bạc chẳng mộ lạ lồng bỏ qua Vui xuân mến trẻ trọng già Thấy điều phi nghĩa thật là ghét thay Rượu chè chẳng phải là hay Mua vui đôi lúc sum vầy cũng vui Nhắn ai đi ngược về xuôi Vui xuân nên bỏ trò chơi bạc cờ. Xuân 1990. TIỄN XUÂN Năm ngoái cuối đông ta đón xuân.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Hè tới năm nay viết mấy vần Xuân đến xuân đi đà biết trước Xa xuân vẫn nhớ như người thân Thiều quang chín chục sao nhanh thế Ba tám tuổi đời ba tám xuân Trăm năm biết còn bao xuân nữa Xuân đi mau về nhớ nhé xuân T3-Canh Ngọ. NHÀN TÂM VUI CẢNH ( Tản mạn) Nam san thấp thoáng mé bên hiên (1) Đông song đánh giấc chẳng ai phiền (2) Tây đà chênh chếch qua khe cửa (3) Bắc nghe tiếng nhỏ con đi viền (4) Thói đời ngại cảnh đua chen chúc Đường xá ngựa xe với bạc tiền Cổ kim ai người vong danh lợi Nhàn tâm vui cảnh kém gì tiền 1.6 - Canh Ngọ. Ghi chú:.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> 1. Nam san phía nam lều có cồn đất lớn nên ví như núi 2. Đông song cửa sổ mé đông 3. Phía tây mặt trời chênh chếch qua khe cửa 4. Bắc:Phía bắc là đường đi về nhà , tối lại vợ con về nhà ĐỌC SÁCH Đọc sách xem thơ biết cổ nhân Ai người liêm khiết ai vì dân Ai quên danh lợi không tiền bạc Ai chẳng đua chen sống có phần TẠM BỮA Cơm canh muối mắm với cà kê Mình làm mình hưởng chẳng ai chê Cơm gà cá gỏi tuy ngon thật Ăn dưng ở nể lại nhiều nghề ĐẠI HẠN Thật là đá chảy với vàng trôi Cây cối héo khô hết cả rồi.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Sấm chớp tuy nhiều mưa chẳng thấy Có ai ăn ở như ông trời Đồng sâu lươn chạch hết đường chạy Ao cạn cá tôm lo cả rồi Lúa má sâu sia trông đáng ngại Cơ này gậy bị sắm mau thôi 1-7 – Canh Ngọ. CƠN MƯA ĐẠI HẠN Cơn mưa đại hạn thật là to Gió tưởng đổ nhà ai cũng lo Cây cối ầm ầm đường cát bụi Trẻ con vội vả đánh trâu bò Sấm loè chớp giật ran trời đất Mù mịt mây bay đám nhỏ to Có lẽ chuyến này đồng ruộng ngập Than ôi chỉ tội mấy con cò. T7. Canh Ngọ. THƠ XUÂN.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Vốn chẳng phải hay nợ sách đèn Cảnh nhà thường có vậy nên quen Thơ quê thôi cũng vài ba chữ Con trẻ bi bô vần lạ quen Làng xóm tưng bừng tràng pháo tết Ruộng đồng sãi nhịp bước sang xuân Vui người vui cảnh vui năm mới Luôn sống kiệm cần hẳn ấm êm 1991. * * * * CÂU ĐỐI RĂN MÌNH - Trọng danh nghĩa quý nhân tâm dưỡng đức độ không ngoài việc làm tốt. - Nên giữ mình theo thói cổ luôn kiệm cần hãy tránh lời nói xuông. RĂN CON.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Con ơi khôn lớn nên người Học ăn, học nói, học người đức nhân Nhớ câu có phúc có phần Làm chi bắt chước thói gần thói xa Đừng nên học lối điêu toa Vào gian ra dối người ta chê cười Dù cho vất vả ở đời Làm ăn chính đáng giữ lời thanh danh Ấy là báo đáp sinh thành Áo rách khéo vá hơn lành vụng may. CÂU ĐỐI ĐỘNG VIÊN - Vui cảnh ruộng đồng cấy cày vất vả Không đáng ngại - Chung lòng xây dựng nắng hạ mưa đông Có hề chi + Trên lòng chim vỗ cánh mến cảnh Ngắm trời muôn vẻ đẹp.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> + Dưới có hoa đua nở ơn người Nhờ đất bốn mua vui. 1991. LÀM THƠ Chẳng phải là hay chẳng phải tài Thi, thư khuây khoả trải ngày dài Vui buồn bày tỏ như tri kỷ Hờn rủi để lòng nói với ai. DANH CHÍNH Chẳng có tài quan ừ vị dân Làm dân danh chính quý muôn phần Cấy cày ngày tháng vui công việc Nhàn rỗi thi thư biết cổ nhân SO SÁNH Núi nọ đồi kia so sánh gì.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Làm ăn lương thiện đời không bi Cao bay xa chạy đâu đà chắc May rủi, rủi may có tử vi TRỒNG HOA Trồng thêm cây cảnh với bồn hoa Cho cảnh thêm vui tình đậm đà Nào phải dư công hay rỗi sức Nỗi niềm ai thấu cho lòng ta CHIA TAY ( Tặng ông Điều) Nhớ khoảng này ba năm về trước Tôi cùng anh dấn bước lên đây Tâm rằng ý hợp chung tay Làm ăn theo nhịp đổi thay, nước nhà Đã bao lần trăng tà trăng khuyết Khó, dễ chi bí quyết bàn nhau Công việc tính trước lo sau.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Làm ăn vui vẻ khác đâu một nhà Vui những lúc mưa hoà gió thuận Lại không quên những trận bão dông Anh em đùm bọc một lòng Liệu bề che chắn gió không lọt vào Có những lúc trăng cao gió mát Ngồi tâm tư cùng bát chè hương Thiệt hơn bày tỏ mọi đường Thói đời có chỗ khôn lường trước sau Việc giao xã đi đâu cùng định Chỗ lại qua ai tính thực hư Nhiều khi giả dại làm ngu Giữ điều thêm bạn bớt thù cho yên Việc là thế, chuyện đời là thế Tôi ngơ khờ tưởng thế là yên Ngờ đâu đương lúc lại phiền Mấy lần anh có ý nguyền đổi thay Tâm can thật lựa lời bày tỏ Chẳng hiểu người có rõ cho không.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Anh không nghe tôi đành lòng Kẻ về, người ở nên dòng thơ quê Mưa cuối thu nặng về dạ vũ Tình tri âm bạn cũ khó quyên Đành rằng còn xuống còn lên Không xa cách mấy khó nên những ngày Nhìn đời bao sự đổi thay Chê người không giám trách ngay thân mình Có điều chi vô tình chăng chớ Để lỗi này bắt nhớ đền sao? Một mai bao nỗi ước ao! Đêm khuya thanh vắng trại cao(1) thẩn thờ Rượu không có, có chờ ai uống Chè không mua, mua uống với ai Đường đi lắm nẻo chông gai Gặp dòng ghềnh thác cậy ai chống chèo Sự đã thế thôi đành vậy thế Việc hợp ly khó dễ riêng ai Lời xưa nói chẳng có sai Anh về tôi chỉ chúc hai ba lời.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> Một là vui cảnh thảnh thơi Hai là hạnh phúc suốt đời vinh hoa Hẹn khi niên lão tuổi già Thanh nhàn ta kể chuyện nhà ta nghe. 15-9-Tân Mùi Ghi chú: (1) Trại Cao là đồng Trại Cao. VUI TỬU THI ( Thơ tết Nhâm Thân 1992). Tết đến chẳng nhẽ chẳng có chi Đôi khi nghĩ quẫn lại thêm bi Bạc tiền muốn nhiều vẽ không được Thóc gạo ăn ít vẫn hết đi Cha mẹ may thay trường mạnh cả Anh em xa cách nhớ nhiều khi Tết nay tạm vậy hẹn năm tới Đối đỏ chưng xanh vui tửu thi TÂM SỰ XUÂN 92.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Đầu năm tâm sự cùng xuân chơi Sẵn có rượu đây xuân hãy mời Thế sự thăng trầm ai biết trước Trăm năm sao khỏi nỗi đầy vơi Xuân hời, xuân hỡi, hỡi xuân ơi Xuân đến xuân đi thật thảnh thơi Đây đó biết bao câu chuyện lạ Một giờ xuân đến với muôn nơi TÂM SỰ Tâm sự đầu xuân hoạ mấy dòng Xuân huyên mạnh khoẻ lẽ hằng mong Anh em xa cách tình khôn xiết Con cháu bình an mới thoả lòng Cha mẹ đừng phiền vì tuổi tác Tuy nghèo phong thái vẫn thong dong Ngày qua tháng lại lòng không bận Suy tị làm chi lạng với đồng Xuân 1992 CÓ.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Dăn con Có ở đời ai cũng muốn có Có chính mình làm lấy mới khó khăn Ừ dù rằng vất vả quanh năm Nhưng vẫn được nhiều người mến trọng Luôn chan hoà giàu lòng nhân ái Đừng nề hà kẻ ngái người ngưn Nên giữ miệng hơn cả giữ chân Chân lỡ được miệng đừng nên lỡ Chớ cho rằng gặp chăng hay chớ Cư xử đời phải nhớ từ bi Có lợi danh, nào được mấy khi Sao? Tránh khỏi những điều suy tỵ Có vụ lợi ấy kẻ địa vị Có vì thời hẳn bị ghét ghen Có, bất nhân, cái có đáng hèn Có như vậy hẳn đừng nên có Có một thời để mãi khăn khó Cho người đời nhìn ngó hờn căm.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Dầu sống thác vẫn còn tiếng tăm Tội con cháu trăm năm khôn rửa Thì ai hỡi những người như rứa Ngẫm nghĩ rồi hãy có người ơi Tháng 12-Tân Mùi. NÓI CHUYỆN VÀO LÒ GẠCH. Thật là tiếng cả lại nhà không Nói chuyện vô lò mới lạ lồng Than có bà Tố cho chịu lại Củi thì mụ chủ đã lo trồng Rượu chè bác Vĩnh bao cho cả Thịt có thế thanh cũng rộng đồng Vặt vảnh chi tiêu chịu đựng cả Anh em lên giúp cám ơn lòng 4/3/Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> THÔI THÌ Thế sự thăng trầm nói nữa chi Làm người sao khỏi lúc suy vi Buồn là bước trước của vui đó Khổ tận cam lai còn mấy khi 4/3/Nhâm Thân Chú thích: Nhân đốt lò gạch bị hư mấy nghìn cảm tác mà làm.. ĐƯỜNG ĐỜI KHÓ KHĂN Một gian hai trái vẻ thênh thênh Vẫn biết đường đời lắm gập ghềnh Thân có ắt là danh phải có Danh nhân kim cổ chuộng thanh thanh 4-4- Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> HỎI Một vùng đất cỏ của năm xưa Nay đã đổi thay ồ lạ chưa Thấp thoáng bóng lều chen bóng lục Vàng ươm bạt lúa nắng ban trưa Rập rờn gió lùa hàng ngô nếp Xanh biếc luống khoai trông đáng ưa Phe phẩy với nhau hàng chuối ngự Mẹ mày xem chừng đã vui chưa. VUI CÔNG VIỆC Công việc chưa làm thấy ngán ngao Làm song việc lại thấy vui sao Vui công, vui việc vui nhân hậu Có nghĩa có tình quý biết bao 29/5/Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> CON CHÓ CẮN CÁN Mấy ông đi lặng về thầm Đêm hôm chó sủa chửi ầm cả lên Làm người như thế có nên Phải chăng giống chó không quên cắn càn Lối bay quen thói phủ phàm Chó sủa, bay chửi hai đàng như nhau. TRĂN TRỞ Đêm khuya trăn trở giấc không thành Than thở một mình lại nghĩ quanh Biết trước thôi đừng đường hám lợi Để nay nỡ bỏ nghĩ sao đành Bỏ thương vương tội người xưa nói Vẫn biết đường đời lắm gập ghềnh Ở lại nhỡ khi điều bất trắc.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Về thì chỉ tiếc bao công anh Tháng 6- Nhâm Thân. TÍNH TRƯỚC Viễn cảnh trông xa biết lỡ lầm Thôi đành về vậy dẫu tiền trăm Ruộng đồng trả lại cho làng xã Hoa lợi chuyển nhường chỗ cận thân Thương cảnh cha già cùng mẹ yếu Vợ con vất vả đã bao tuần Thôi về cho tình thêm hoà thuận Công việc làm ăn sẽ tính dần 17-6- Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> YÊN PHẬN LÀ TIÊN Khôn khéo tại lòng Thành đạt do thiên Nghĩ lắm thêm phiền Ngủ quách cho yên Hảo danh phú quý Yên phận là tiên Huynh đệ quý tiền Nhân giả , nghĩa giả Trách mình vất vả Lại lắm gian truân Chuyện xa chuyện gần Khen chê khôn nhẽ Sự đời lắm vẻ Mỗi vẻ mỗi ưa Ồ nghĩ lạ chưa Thế gian là thế 28-6-Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> DẠ ĐĂNG Đêm đêm đèn đóm như sao sa Ếch nhái ở đâu thì nhảy ra To nhỏ đều bị tiêu diệt cả Của trời cũng chẳng kịp sinh ra Ếch to được về thì người chén Nhái nhỏ chẳng tha, nuôi lợn gà Sinh vật có lẽ tồn tại khó Vì người đông quá mức đi mà T7 – Nhâm Thân. HỎI CÁI LƯNG Hà cớ chi mà mi lại đau Mất công mất việc phiền cho tau Thuốc thang tội nghiệp tiền không có Cay đắng thằng mồm phải chịu âu 12-7- Nhâm Thân. TRĂNG THU.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> I Lơ lững trăng treo lặng bốn bề Ý sầu vút đến tận sao khuê Ai hay trong cảnh thanh lịch ấy Nỡ để thằng cụi đứng ngó nghê II Nhân thể mấy câu hỏi chi hằng Bao giờ thì hết kẻ nhố nhăng Cỏi đời vô sự, người yên phận Cho toại nhân sinh hỡi chị hằng III Trăng rằng tôi kính trả lời ông Chẳng nhẻ ông hỏi tôi lại không Lão cuội ấy mà ai chẳng biết Trót rồi nói chi cho phiền lòng.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> TIỄN CON LÊN ĐƯỜNG NHẬP NGŨ Nước non nghĩa cả không hề quản Phụ mẫu tình thân chớ nỡ lòng Tiễn con đi, cha viết mấy dòng Vần thơ nhỏ, lồng trong trí lớn Đường không đi, có đâu tự đến Bước gian nan là bến thành công Giẫu khó khăn con hãy bền lòng Niềm hi vọng sáng bừng trí hướng Bước đi đâu lo cầu danh tướng Tuổi thanh xuân trí hướng tương lai Giẫu có tài cũng chớ cậy tài Đường đức độ vọng hoài nhân cổ Chốn thao trường là nơi gian khổ Nhưng con ơi đã bước chân vào Giẫu khó khăn cũng chớ núng nao Trung với hiếu khắc vào tâm huyết T8- Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> TẶNG CON QUYỂN SỔ Tặng con quyển sổ con đừng chê Giấy rách con ơi giữ lấy lề Kim chỉ nhờ tay người chắp nối Thơm tho đều đặn dở đi, về Trắng trong phải nhiều công sàng lọc Sạch sẽ bởi tay khéo vẽ vê Có giấy có mực khi viết lách Ơn người mang nứa từ rừng về T8- Nhâm Thân. THAN THÂN Giơ tay muốn với tận ông xanh Niú áo ông lại hỏi ngọn nghành Cớ sự bởi đâu ông có biết Nói cho nghe thử hỡi ông xanh Tứ tuần bấm đốt nay đà chẵn Trăm nỗi buồn phiền cứ vấn quanh Có phải vụng dại đành chịu vậy Hay trời còn thử con người thành.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Tháng 10- Nhâm Thân. HỎI GIÓ Gió ơi gió ở đâu sang Giận ai gió lại những mang lạnh lùng Gió rằng ấy cảnh mùa đông Có qua rét buốt mới nồng ấm xuân Cam lai khổ tận đã gần Giải sầu tiêu khiển vài vần thơ quê 15-10- Nhâm Thân Ngày có trận gió rét đầu mùa. GIÃ TỪ Bấm tay đã bốn năm rồi Tư duy đổi mới theo đời đua chen Gần, xa bao chuyện chê khen Sự đời như lạ, như quen khôn lường Nay về lòng dạ vấn vương Ruộng đồng vất vả nắng sương bấy dầy Bấy năm chẳng quản tháng ngày.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Ra tay cuốc sới nghĩa dày tình sâu Tâm toan tính chuyện lâu dài Nâng niu tấc đất nhớ câu tấc vàng Vui đồng ruộng yên xóm làng Ra đây có bạn sẵn sàng cưu mang Ngờ đâu trên giữa chặng đường Kẻ vui người tẻ ngỡ ngàng lạ thay Mình ở lại hơn năm nay Tay chèo tay lái tháng ngày vẫn vui Công việc chẳng mấy khi nguôi Người qua kẻ lại ngược xuôi thuận tình Đôi khi có chút bất bình Liệu bề khu sử, lý, tình đẹp chiêu Tuổi nay tuy chưa phải nhiều Xem phần sức khoẻ có chiều sút sa Bóng dâu đã độ chiều tà Con khôn cất bước xa nhà bấy lâu Đêm trường ngẫn nghĩ trước sau Thôi đành lỗi hẹn một câu giã từ.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Đồng trại ơi buồn thực ư Hàng liễu đứng gió đông như cỗi cằn Cây gạo lạnh ngắt bóng râm Sác sơ cây chuối lâm thâm mưa phùn Đường đi lối lại vắng luôn Chim khôn ít tiếng cũng buồn vì ai Bốn năm mang giấc mơ dài Nay về để lại một bài thơ quê. Ngày cuối đông Nhâm Thân. VUI CHIA TAY (Tặng anh em tiếp quản đồng trại). Vật chất đơn sơ Tinh thần cởi mở Kẻ đi người ở Vui lúc chia tay Thôi nhé từ đây Ta về chốn cũ Ruộng đồng mấy vụ.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> Để lại đàn em Gọi chỗ thân quen Tình sâu nghĩa nặng 4h-15-12-Nhâm Thân. ***********************. PHẦN III ( CHUYỆN LÀNG QUÊ) SỰ ĐỜI Sự đời nghĩ vẫn nghĩ vơ Ngồi buồn mượn bút viết thơ hỏi trời Cơ hàn khổ sở cho rồi Giàu sang sao cũng lắm người phôi pha Xem ra trong cõi người ta Đời là bể khổ thực là chẳng sai Trời rằng nào có trừ ai Mỗi người mỗi khổ ai tài tránh chi Người khổ sở nỗi lưu ly.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Người thì vất vả bởi vi cơ hàn Người vì chức rộng quyền sang Người vì tiền bạc thở than một mình Người quân tử lúc túng trinh Người nhi nữ biết phận mình mong manh Ấu thơ cũng có lúc đành Già nua tuổi tác cực danh có kỳ Nói song trời lại cười khì Lão này vớ vẫn nghĩ chi sự đời Mình giữ mình, là được rồi Giữ sao ăn ở tránh lời thị phi Non cao bể rộng khôn bì Mẹ cha công đức vậy thì nghĩ sao tốt chi mấy chốn má đào Đẹp chi những kẻ vác giao ngoảnh đầu Trời rằng có lạ chi đâu Nhưng vì trời bận bấy lâu chưa làm Tụi mọt đục, lũ quan tham.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Bầy man trá lũ phủ phàm điêu toa Rồi đây trời sẽ lặt ra Những phường thế ấy sao ra giống người T10- Nhâm Thân. HỎI ÔNG TRỜI Mấy lời trộm nghĩ hỏi trời cao Thế sự thực hư ở chỗ nào Thần thánh sao mà nhiều lắm thế Nhân tâm đức độ mãi tiêu hao Chanh chua chị nọ chồng không trọng Lỗi phép anh kia chuộng vác giao Ấy thế kim ngân chợ vẫn đắt Phải chăng thánh cũng thích nhiều hào Tháng 8- Nhâm Thân. VIỆC THÁNH Việc thánh từ nay phải hết lòng Hết lòng gia của lại gia công.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> Chuyến này mồ mã nhà ta phát Còn phải tính chi lạng với đồng Ăn mặc cho sang khi thánh thượng Nói năng lưu loát lúc lên đồng Khi lành, khi vỡ đừng ai biết Không khéo còn phải bỏ cả nhông T8- Nhâm Thân Nhân thấy có những người tự xưng là mình được thánh cho ăn lộc… làm những việc không hợp lý, cảm tác mà làm.. SỐ ĐỀ Con thiêu thân chẳng thương thân Cờ bạc là bác thằng bần vẫn ham Anh kia toan chốn giàu sang Chị nọ mong được vẻ vang cửa nhà Hỏi thầy xem số tính ra Thơ đề lắt léo đoán già đoán non Hôm qua hỏi về những con.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Hôm nay mộng báo hãy còn gặp may Thôi thì cũng chẳng tiếc tay May ra gặp được chuyến này ta thôi Chữ ngờ ai nói học rồi Ôi thôi mất lại về tôi mấy lần Trước thì ngơ ngẩn tâm thần Sau xem tiếc của mới đần người ra Đánh con đuổi vợ khinh cha Ấy là báo hiệu cửa nhà tan hoang Còn anh được cũng vẻ vang Nay phóng xe cúp, mai quàng ngựa bay Chi tiêu nào có tiếc tay Bia lon mấy két, gà quay mấy tầng Ăn chơi ai cấm ta đừng Cho thoả trí nguyện vẫy vùng làm trai Ai hay tài lại liền tai Của trời, trời lấy ai tài giữ chi Của nhà đội nón ra đi Xe, đài, đầu máy, ti vi, tủ, trường..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Vợ chồng hết nhẽ khiêm nhường Hỏi rằng lúc ấy tình thương đâu còn Ấy là mới sự cỏn con Còn bao hoạ thảm bể non chưa từng Giết người cướp của xem chừng Chồng Nam, vợ Bắc mấy từng hiểm nguy Cha con mẫu tử biệt ly Gia đình tan nát bởi vi số đề T8-Nhâm Thân. TÀI TRAI.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> (Nói đùa người anh em). Tài trai như bác đáng khen thay Công việc gia tư thật khéo tay Bếp núc lo toan đều được cả Nước nôi giặt giủ việc hàng ngày Tu nhân lịch sự đường giao thiệp Tích đức thôi mặc lũ chúng mày Không biết lên mây hay xuống gió Cánh diều lại sợ sợi dây đay T8-Nhâm Thân. THƠ MỪNG GIA ĐÌNH BÁC VĨNH ( Nhân dịp hai cháu đi bộ đội cùng ngày ). I Em mừng hai bác có đôi lời Các cháu nay đã khôn lớn rồi Một lúc đưa tiễn hai bộ đội Việc làm vinh dự thế là vui II Cậu mong hai cháu lúc lên đường.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> Mạnh khoẻ bình an nhiều mến thương Công tác tiến bộ luôn cố gắng Tình gia nghĩa quốc trọn song phương 13-9-1992. TRỒNG CÂY Trồng tiếp hàng cây vui cảnh nhà Sớm chiều vang rộn tiếng chim ca Cho ong , cho bướm tìm hương nhị Viễn cảnh thêm vui lúc tuổi già 26-10- Nhâm Thân. TÌM ÔNG Trồng thêm cây cối cho vui Cho tình thêm đậm, ngược xuôi thuận hoà Mai sau con cháu đầy nhà Ông ơi! hái quả để bà cháu ăn Bốn mùa hoa trái quanh năm Cháu ăn quả mới hỏi năm ông trồng 26-10- Nhâm Thân. THƯ GỬI CON TRAI ĐẦU TRONG QUÂN NGŨ.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> Năm đà sắp hết đến nơi Thơ nhà bố viết gửi người con thương Mong thơ chóng vượt đường trường Tới tay con lúc tinh sương sáng ngày Trước là sức khoẻ mẹ thầy Ông bà nội, ngoại bấy dày bình an Học hành em ún đều ngoan Nhắc anh luôn thường hỏi han thư từ Công việc đồng áng nhàn dư Đốt thêm lò gạch có hư vài ngàn Chín được vạn chín vẹn toàn Bán hơn một nửa mới hoàn vốn gia Còn lại đang chở về nhà Dùng hay là bán dần già liệu sau Ao phần trăm đã cấy rau.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Còn trên trại chỉ một màu là khoai Bò mới đẻ me rất oai Tết con về sẽ nghe hoài chuyện hay Lợn đen mới bán mấy ngày Kém ba ngàn sáu thì đầy năm trăm Lúa khoai có thể dư ăn Công việc cấy hái ngoài năm phần nhiều Thơ dài chưa được bao nhiêu Việc nhà sơ lược con yêu tận tường Bắc Nam cách trở đường trường Bao mong nhớ tin con thương bấy dày Việc nhà chú thím lâu nay Thuỷ, Thơi em có thường hay nhắc nhà Có gì con hãy nói qua Để cho bố mẹ, ông bà cùng hay.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> Còn như tết nhất năm nay Muốn về bảo chú liệu ngày cho chu Tàu xe lắm thực nhiều hư Anh em lưu ý mới như an bình Đi đâu chớ vội một mình Có anh, có chú bên mình hãy đi Về ga cũng chớ vội chi Nếu khuya ở lại mai thì hãy hay Dù cho có chậm một ngày Đến nơi, đến chốn mẹ thầy mới yên Nhắc con, con chớ có quên Hiếu trung tường tỏ mới nên thân người 6-12- Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> THƠ TẾT QUÝ DẬU. (1993) Lệ thường : Năm cũ qua thì năm mới tới Qua đông tàn phơi phới sang xuân Chút thi vị xin có đôi vần Thành kính mong toàn dân tân vận hội Nông gia sản xuất tăng thu bội Thương nhân buôn bán hàng thêm gia Nước phồn thịnh dân chan hoà Đảng quang vinh kết tinh muôn vẻ đẹp Vậy nên: Bọn nhố nhăng hãy nhanh lo dẹp Lũ quan tham đục khoét của dân Đừng nể nang mà hại đến thân Dân bất tín là thân bất hạnh Hỡi những ai bầu tâm huyết mạnh Mang lợi quyền mà phục vụ dân.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Tiếng thơm vang cả xa gần Đón xuân vui tết đôi vần thơ quê KHAI BÚT Khai bút Quý Dậu niên Mừng cha mẹ bình yên Tuổi cao, cao ý chí Sức khoẻ quý như tiên Thất thập dư dăm bảy Bất suy tị vị tiền Ao vườn vui cảnh lão Ngày tháng đỗ xuân thiên Xuân Quý Dậu 1993. TÂM SỰ XUÂN 1993 Xuân ơi xuân mấy năm về trước Khi xuân sang ta vắng nhà luôn Nghĩ nguồn cơn lắm lúc cũng buồn Xuân có biết vậy chăng không nhỉ Xuân đến nay chưa hẳn tận bỉ.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> Gặp xuân đây hoan hỉ cùng xuân Thôi nhân thể có chén rượu nồng Câu tâm sự mời xuân ta cùng uống Bốn mươi tuổi còn được mấy luống Đủ trăm năm chẳng huống nữa là Rồi mai đây xuân có nhớ ta Trong khoảnh khắc tìm âu đã dễ Quân tử nghèo hèn chi sá kể Mảng vui thi vị dễ mấy ai Ai ơi ! Vui lấy kẻo hoài.. CÂU ĐỐI TẾT - Vui tết cổ truyền giò nem bánh trái đủ đầy cả - Đón xuân thường lệ pháo nổ cờ treo nhộn xóm thôn. CÂU ĐỐI CẢNH NHÀ - Đóng mở thêm phiền khi lên xuống.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> - Chi tiêu bớt nhã giữ kiệm cần TỰ HỎI MÌNH Mình sao vụng thế hỏi mình Để thân luống những tội tình lắm thay Khi thì thất ý mẹ thầy Khi thì vợ giận mặt mày xỉa sa Con thì lắm lúc kêu la Có lẽ vất vả vì ta vụng về Khi thì kẻ trách người chê Thân ơi sao lắm tư bề hỡi thân Phải chăng gánh nặng kíp trần Làm bồ chứa khổ, lửa lần lên tiên Nói ra tội với ông thiên Biết trước, vậy quách khỏi phiền lòng nhau Trăm năm còn được mấy đâu đành lòng nén giận giữ câu chan hoà Lòng thành phụng sự mẹ cha Vợ con như dại cho qua nỗi phiền.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Hẳn ngày thoát tục lên tiên Chắc là hết khổ mới yên mọi bề Bây giờ ai trách ai chê Ai thương ai giận nghiêu khê vậy đành Mấy lời bày tỏ ngọn ngành Hỡi ai , ai hỡi ai đành thương ai Nghẹn ngào với những mẫu khoai Lưng cơn sẻ nửa chớ phai những ngày Gian truân đâu chỉ hôm nay Trăm năm chắc hãy còn đầy gian truân Cảnh thu lặng lẽ tần ngần Đêm khuya không ngủ đôi vần thơ quê. Đồng Trại 19-9- Nhâm Thân.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> BÁC GỬI QUÀ CHO HAI CHÁU - THUỶ THƠI -. Bác gửi cho hai cháu Đôi bánh chưng quê nhà Tuy không có lợn gà Dẻo thơm mùi hương nếp Quê nhà ta ăn tết Chỉ mong sự đủ đầy Anh em như chân tay Xa nhau quên sao được Bác thầm mong ao ước Các cháu mau lớn khôn Về chơi thăm bác nhé! Mùng 4 tết Quý Dậu 1993. RÉT ĐÔNG Rét buốt tận sương cây trọc cành úa vàng thay thế cho màu xanh Dân than! Cái rét chưa từng có.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> Ai cấy xong rồi phải chạy nhanh 10- Tháng giêng - Quý Dậu. CẢM XUÂN Trong năm ngày chạp mưa rào Rằm giêng lúa sống vui sao lòng người Cuối giêng đã có mưa rồi Trước sân hồng nở như cười với xuân Nhiều nhà lúa cấy hai lần Vụ năm ắt hẳn thêm phần bội thu 26 -Giêng – Qúy Dậu 1993. THƯ GỬI CON TRAI TẠI NGŨ. 27-1- Quý Dậu Chú đi công tác ghé thăm nhà Nhân thể đôi lời bố hỏi qua Công tác con ơi luôn cố gắng Vui lòng bố mẹ với ông bà Các em học tập đều ngoan cả Nội ngoại quyến gia vui đậm đà.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> Đồng ruộng cấy cày nay đã khắp Con an nhiệm vụ khỏi lo xa.. KHEN CHÊ Khen chê bao nhẽ ở đời Biết thời biết vậy nói thời nói sao Đêm trường nghĩ lại ngán ngao Chữ khôn chữ dại ai nào tài chi Dại này thôi cũng có khi Khôn kia chắc đã ích chi cho đời Nói ra thêm tổ chê cười Đành đeo cái dại cho đời vô tư Nhịn nhường biết mấy cho dư Thế gian lắm thực nhiều hư ai tường 22h -1- 3- Quý Dậu 1993.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> ÁO MỚI ÁO CŨ Trời mưa áo mặc lâu ngày Bốc mùi hôi hám muốn thay ra liền Toan mua áo mới cho yên Nhưng vì áo mới ít tiền khó mua Vội đem áo cũ giặt ùa Xà phòng mới đánh mũi ưa lại rồi Hôm qua áo cũ mặc hôi Hôm nay áo cũ vẫn ngồi như ai Thức khuya mới biết đêm dài Ngẫm lời nhân cổ chẳng sai chút nào Áo rách sạch vẫn thơm sao Áo mới mà bẩn ai nào chuộng chi Tháng 3 – Quý Dậu 1993.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> KHUYÊN TÂN HÔN. Văn minh giản dị Mộc mạc tình sâu Người xưa có câu Hoa nhài thắm mãi Nên nghĩa nên ngãi Chẳng lọ đài trang Phòng chút nhỡ nhàng Kẻ chê người trách Vợ chồng như khách Tôn trọng lẫn nhau Trăm tuổi bạc đầu Chữ đồng trọn ven Đừng cho hổ thẹn Thua chị kém em Quần áo phông rèm Ô che lộng cắm.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> Bày vẽ cho lắm Tiền của đâu ra Vất vả mẹ cha Đêm trường ứa lệ ấy là chưa kể Mười bảy tuổi sa Đã phải mang lo Nên chồng nên vợ Tàn canh hoá nợ Biết mấy ai hay Chuyện đó chuyện đây Hôn trường ngẫm nghĩ T3- Quý Dậu1993. VIẾNG CHÚ HẠO. Thương ôi! Nghĩ anh em thương tình ly biệt Chú ra đi mù mịt khơi xa Trời xuân ủ dột mưa sa.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> Ruột vò mấy khúc, lệ sa mấy hàng Tình con cháu đôi đàng nội ngoại Buổi hàn vi chẳng ngại gian truân Xuống lên sá kể xa gần Khi vui công việc, khi tuần ngâm nga Kim chí cổ người ta khó tránh Cỏi nhân gian như ánh trăng rằm Dù cho có đủ trăm năm Cũng còn ngắn ngũi huống dăm bảy tuần Thôi sau trước một lần cũng phải Sổ thiên tào ai cải cho qua Chỉ thương một nỗi thương là Gia tư còn nậng sao đà vội đi Vợ con dại thôi thì khó tránh Bóng dâu tà đã ánh chiều hôm Sao không gắng gượng cháo cơm Cho tròn hiếu thảo đôi bên mẹ thầy Hay đã chán một ngày cũng chán Tuổi năm lăm ngao ngán cảnh xuân.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> Mùng năm đoan ngọ đã gần Nhẹ nhàng từ giã cỏi trần lên tiên Chú không ở thêm phiền kể lể Vần thơ quê hầu dễ đủ đầy Trống kèn mấy độ phút giây Tôi chú thôi nhé từ đây đôi đường 15-3- Quý Dậu. THƯ GỬI CON TRAI TRONG QUÂN NGŨ Đông khê ngày 23-3- Năm Quý Dậu. Gửi con một lá thư nhà Thiều quang chín chục nay đà tám hai Thương con hơn hẳn thương ai Nhớ con về tết hơn hai tháng rồi Cớ sao thư chưa một lời Hay thư thất lạc bị rơi chốn nào Giận có giận, lại thương sao Thư nhà bố viết gửi vào cho con Mong thư vượt núi vượt non Vượt sông vượt suối cho tròn tình thân.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> Mấy lời bố hỏi ân cần Công tác sức khoẻ mọi phần ra sao? Bấy lây chú thím thế nào Thuỷ, Thơi sức khoẻ dồi dào không con Anh Long với chú Hiền con Công tác như cũ hay còn thêm chi Anh em chú cháu đôi khi Xum vầy trò chuyện suy vi tình nhà Xa xôi tình cảm đậm đà Anh em chú cháu một nhà mà ra Có gì con hãy hỏi qua Xem phần chú thím như là xuân huyên Tập rèn khuôn khổ chớ quên Học hay làm giỏi mới nên thân người Khuyên con bố chỉ đôi lời Giờ tin con biết ở nơi cửa nhà Trước là sức khoẻ ông bà Bình an vui lão chan hoà sớm trưa Bố mẹ vất vả nắng mưa.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Lo công lo việc để xua đói nghèo Học hành em ún hò reo Gia phong nếp cũ vẫn theo đạo nhà Tình gia vui vẻ đậm đà Ấy là sự sống ấy là thuốc tiên Anh em nội ngoại bình yên Riêng có chú Hạo quy tiên ngày rằm Lúa nay kém hẳn mọi năm Vì mưa không có phải chăm rất nhiều Sâu bệnh phát triển thuận chiều Dân tình tốn kém bao nhiêu là tiền Câu tâm sự đôi lời tóm tắt Mong thư đi con bắt được ngay Mẹ cha nghĩa nặng tình dày Anh em ruột thịt thường ngày nhớ nhung Thư đến tay vô cùng vui vẻ Chỉ mong con mạnh khoẻ bình an Còn như công việc giang san Dù rằng vất vả lo toan hoàn thành.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> Tiện đây mượn bút ghi nhanh Đôi lời bố gửi chúc quanh bạn bè TỨC CẢNH NGÀY MÙA Chang chang trời nắng trưa hè Đẩy dốn xe lúa mà nghe lạnh người Thoảng nghe hẳn lắm chê cười Ông này có lẽ dở người hay sao Mắt hoa xe đổ lộn nhào Lúa rụng như đổ, sót vào tận tâm Hỡi người, bia, đá, quạt trần Bát cơm biết thấm mấy lần mồ hôi 30-3- Nhuận,Quý Dậu. ĐUA NHAU Thiên hạ đua nhau mở quán hàng Xóm làng lắm quán thế là sang Chuyện xưa ruồi đậu mép thầy bói Tích cũ nhện chăng dao cụ lang.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Nặng nghĩa thường thường hàng mến chủ Tơ duyên vương vấn nhộn xóm làng Nhà ai vốn liếng dư dăm bảy Để được công bằng với họ hàng T4-Quý Dậu. NGÀY MÙA SIÊNG MƯA Lúa thì con gái mỏi mòn trông Hạ hái là mưa mới lạ lồng Thử hỏi gần xa xem có phải Quanh năm vất vả nhất nhà nông Gặt hái trằn lưng cùng nắng hạ Cấy cày khúm rúm với mưa đông Trách trời mưa nắng không hoà thuận Chẳng những thế thường nỗi bất công 10-4-Quý Dậu. CẢM TÁC ĐI ĐƯỜNG Lâu ngày du ngoạn ngược miền chơi.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> Phong cảnh đổi thay nhiều lắm rồi Lầu nọ, gác kia như xếp gạch Nhà tranh vách đất chỉ đôi nơi Ven đường hàng quán tựa phường phố Gặt hái đó đây xong cả rồi Đồng ruộng đang vào mùa vụ mới Cấy cày lác đác đã đôi nơi 1-5- Quý Dậu. CẢNH HÈ NẮNG NÓNG Nắng bấy lâu nay đến nãu người Sáng ra nắng tựa lửa thiêu rồi Đêm không ngủ được quạt rồi vỗ Áo đẫm mồ hôi, muỗi đẫm mồi Dân chỉ biết kêu khi nóng lạnh Bất hay biến đổi tựa thiên thời Thói thường nắng lắm hẳn mưa lắm Không khéo gậy bị dạo khắp nơi.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> 10-6-1993 Những ngày nắng nóng gay gắt có hôm đài dự báo thời tiết nhiệt độ có nơi lên đến 40oc. CON MÈO MẤT MẸ Con mèo la suốt mấy hôm nay Vì mẹ của nó gặp chẳng may Nhỡ bước sa chân vào hố thẳm Hay là gặp kẻ nhỡ nhầm tay Nó la mỏi miệng rồi nằm thiếp Còn biết tìm đâu được chỗ nhay Con vật đáng thương lâu cũng nhạt E rằng chuột bọ gặp hồi may Tháng 6 - Quý Dậu (nhân mất con mèo mà làm). CẢNH THỊ THÀNH Ao ước chi con cảnh thị thành.

<span class='text_page_counter'>(109)</span> Vui nhiều nhưng cũng lắm hôi tanh Nhà dày đất chật người chen chúc Đến nỗi đi ngoài phải ngó quanh Ruồi muỗi vo ve nơi cống rãnh Quạ diều sớm tối kiếm ăn quanh Phố phường đi lại nhiều tân cảnh Thực thực hư hư đủ vẻ vành Tháng 6- Quý Dậu. CẢM THU Mãi đầu tháng bảy thực thu sang Thích chẳng riêng ai khắp cả làng Sướt mướt mưa ngâu khi nặng nhẹ Loàng ngoàng sấm chớp vệt loang loang Người cùng vạn vật đều mong mỏi Khí hậu ôn hoà đỡ thuốc thang Mưa nắng phải thời dân hớn hở Ruộng đồng hoà nhịp bước sang trang.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> Tháng 7- Quý Dậu. ĐẸP LÀNG ĐẸP XÓM Làm xong 0h 40/ - Ngày 12-7- Quý Dậu. Ngõ ta nâng cấp đường dây Tuy tốn chút ít từ đây yên lòng Xóm ngoài cho chí ngõ trong Trẻ, già, trai, gái, xung phong nhiệt tình Trước là thay đổi ngõ đình Đẹp làng đẹp xóm vui mình vui ta Bình tâm đi lại tuổi già Nô đùa con trẻ đấy là vui chung Bất phân phú quý bần cùng Đều có ánh sáng để dùng thường xuyên Trong ngoài vui vẻ mới nên Vì chung lợi ích mà quên nhọc nhằn Đừng vì ích kỷ học hằn Để cho con cháu nhọc nhằn về sau.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> Chẹt tay rồi mới kêu đau Kẻ gian nhòm ngó trước sau dễ dàng Phòng khi con chó ra đàng Chẳng may sơ xuất bỏ vàng hoá đen Mất của tình lại ố hoen Còn chi phong thái tập rèn bấy lâu Thơ quê xin có đôi câu Tình làng nghĩa xóm cùng nhau rô huầy Ngước nhìn theo dọc đường dây Mừng vui ánh sáng từ đây chan hoà Văn minh mang đến từng nhà Đẹp làng đẹp xóm ấy là đẹp chung TỨC SỰ Cán bộ ngươi là vợ được nhờ Mình làm cán bộ vợ làm ngơ Không lương không bổng chuyện trò vả Kiếu quách cho rồi để khỏi dơ Khó nhọc thôi đành nào có quản Ơn ơn,oán oán mấy ai ngờ.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Xong đây có lẽ xin từ vậy Tức sự đêm trường đệm chút thơ 1h30 phút ngày 15 tháng 07 năm 1993 Ghi lại: Những ngày tham gia vào ban kiến thiết, giao thông đường làng ngõ xóm của thôn, thấy có nhiều phức tạp.. NHÀ NÔNG NGÀY MÙA Ngày mùa tới tấp việc nhà nông Sớm lúa chiều khoai vội vội không Rơm rác đầy đường đi lại khó Nghóe kha chán thóc đứng bui bồng Trâu bò nghỉ sức nằm nhai lại Lợn réo đòi ăn đứng nghến trông Xóm dưới làng trên vang tiếng máy Chuyện khuya rôm rả bốc men nồng 23h-19-8-1993. TIN NHÀ GỬI PHỤ THÂN Thương con nhớ cháu chẳng nề hà Đã bấy tháng nay cha vắng nhà.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Cách trở đường trường đi lại khó Bao giờ thân phụ định hồi gia Thân mẫu nhờ trời vui mạnh lão Tử tôn sớm tối việc nông gia Anh em nội ngoại bình yên cả Còn mấy ngày nữa đến giỗ bà T.9- Quý Dậu 1993. GỬI CON TRONG QUÂN NGŨ Năm ngoái, năm kia bé cỏn con Năm nay bồng súng đứng canh non Gương anh bộ đội sao trên mũ Nghĩa vụ thanh niên với nước non Cha mẹ mong con luôn tiến bộ Tình nhà nghĩa nước phải làm tròn Lâu nay sức khoẻ ra sao đấy Em ún ở nhà thường nhắc con T9-1993. CẢNH ĐÔNG.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> Lạnh lẽo đêm trường gió bắc qua Lơ thơ sương điểm đã vài ba(1) Thoi đưa ngày tháng không chờ đợi Mấy chốc ở đời đã thấy già Tháng tận năm cùng đà sắp hết Nhàn dư chưa thấy đã phôi pha Sắm vôi mua muối theo thường lệ Trồng mấy khóm hoa vui cảnh nhà Cuối đông Quý Dậu 1993 Ghi chú:( 1) vài ba sợi tóc đã bạc. DẬY SỚM Thói quen dậy sớm mỗi ban mai Vài bài thể dục thấy khoan thai Lưng chén rượu ngon ta lót dạ Dạo vườn thưởng thức vị hoa khai.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> XIN HỎI ÔNG T VỀ VIỆC QUYỂN SÁCH. Ông mượn quyển sách mấy tháng nay Ông xem hay là ông truyền tay Cớ sao mười hai trang đầu mất Lại mấy tờ trong xé dở tay Không nói có khi ông chưa biết Nói e thêm chuyện nhỡ không hay Trót rồi còn biết làm sao được Ông thử tìm lại xem hoạ may 17-11- 1993. HOẠ LẠI THIẾP MỜI Mừng Tân Hôn. Đôi dòng cảm tưởng ghi vào đây Tình nghĩa xóm làng thật quý hay Giấy đỏ mực đen đề rõ nét Thiếp mời ai vẽ khá khen thay Ông bà từ đây nên danh giá Đôi lứa hiếu thảo với mẹ thầy.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> Hạnh phúc gia đình văn hoá mới Làm ăn luôn những gặp hồi may. XUẤT HÀNH NĂM MỚI Thơ ông Hường tặng. Năm mới xuất hành đến với nhau Vẹn toàn hai chữ nghĩa tình sâu Tin mong gia cảnh thêm phong phú Chúc thọ ông bà mãi sống lâu Tết đến ghi thêm trang sử mới Xuân sang nối tiếp thuở ban đầu Chung tay xây đắp cây xanh tốt Hoa lá quanh năm giữ một màu Xuân Quý Dậu 1993. SƯU TẦM GHI CHÉP Uỷ ban nhân dân huyện Đông Sơn trả lời về bài báo.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> ( Nhập kho hay nhập khẩu). Báo Thanh Hoá số ra ngày 13-8 – 1988 “ đăng bài nhập kho hay nhập khẩu”. Sau khi báo nêu sự việc trên, Uỷ ban nhân dân huyện Đông Sơn đã cử đoàn kiểm tra do ban thanh tra huyện chủ trì phối hợp với ban thanh tra nhân dân xã Đông Khê đã làm rõ đúng sai. Kết quả kiểm tra như sau: Trong thời gian hợp tác xã tổ chức thu sản phẩm và huy động lương thực có tổ chức ăn uống, ghi sổ nợ tại quán ăn nhà ông Lan Thinh, đây là việc làm có thật, số tiền cho ăn uống hết 415400 đồng. Ông Lan Thinh ( chủ quán) đến vụ màu 1987 còn nợ hợp tác xã1006 kg thóc. Hợp tác xã có chủ trương cho các gia đình trả nợ thóc bằng tiền( giá 80 đồng một kg). Ông Lan Thinh đã làm hai phiếu thu, bán 1088 ki lô gam thóc từ ngày 15-1- 1988, nhưng mãi đến ngày 15 – 5- 1988 và 16-6-1988 mới nhập tiền vào quỹ. để xảy ra việc làm trên là do ban chủ.

<span class='text_page_counter'>(118)</span> nhiệm hợp tác xã buông lỏng quản lý tiền mặt, chúng tôi đã giao cho ban chủ nhiệm hợp tác xã thu của gia đình ông Lan Thinh khoản chênh lệch 315.092 đồng vào quỹ hợp tác xã trước ngày 30-111988. Đến vụ chiêm xuân 1988 gia đình ông Lan Thinh còn nợ hợp tác xã 685 kg thóc, nhưng hợp tác xã lại nợ ông khoản tiền “ ăn uống” là 496.600 đồng. Hợp tác xã đã trừ ngang khoản nợ của ông với giá 350 đồng một kg thóc, ông Thinh còn nợ hợp tác xã 358 kg thóc. Ban chủ nhiệm hợp tác xã đã được huyện chỉ đạo kiểm điểm việc buông lỏng quản lý, ăn uống, chi tiêu tuỳ tiện, vi phạm nguyên tắc chế độ. Từng cá nhân được qui rõ trách nhiệm và xem xét xử lý kỉ luật. Chúng tôi chân thành cảm ơn bạn đọc và báo Thanh Hoá đã nêu vụ việc này lên công luận. Nguyễn Ngọc Tự Chủ nhiệm uỷ ban thanh tra huyện Đông Sơn..

<span class='text_page_counter'>(119)</span> TÂM SỰ GIA QUYẾN Phương ngôn có câu Con Chim có tổ Con người có tông Cây có gốc sinh cành nảy lộc Nước có nguồn gạn đục khơi trong Người ta có họ có dòng Con chim còn có tổ tông nữa là Điều trước nhất thật thà chất phát Biết tổ tông xuất phát từ đâu Trăm năm bao cuộc bể dâu Người trong máu mủ trước sau chẳng nhoà Cũng có lúc mưa hoà gió thuận Cũng có lần lận đận phôi pha.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> Tiền thân của thuở ông cha Tiếng đồn để lại nho gia kỳ hào Ông đội cam chức quan cao Bước loạn lộ sa vào chẳng may … Ông bà từ ấy đến nay … Mẹ cha nối nghiệp tiếng hay vẫn truyền Tình gia quyến thường xuyên đùm bọc Luôn kiệm cần theo học cổ nhân Thế mà: Gần đây đã có đôi lần Anh em va vấp có phần trách chê Xét gia cảnh có bề lỗi đạo Lại lắm người chỉ thạo nói suông Chẳng lường chướng hoạ tai ương Bất ngờ ập đến khó phương kỳ tài Đêm thao thức nghĩ hoài hậu thế Chẳng nhẽ lại để kệ mặc ai Hay là nhắm mắt ngơ tai.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> Ai khôn cũng mặc ai oai cũng đành Nghĩ bận lòng hai chữ làm anh Nhịn không được vậy đành phải nói Chút văn nghệ rút đùa quẻ bói Hỏi lỗi này biết nói cho ai Bói rằng bói nói không sai Chỉ vì thánh thượng lỡ quai phần nhiều Cơn thịnh nộ yếu chiều phân giải Để con em tranh cãi vô luân Vậy nên: Mấy lời nhắc nhở xa gần Làm người phải biết nghĩ gần nghĩ xa Trước là hiếu với mẹ cha Sau là gìn giữ thuận hoà anh em Phận gái cũng chớ có quên Tam tòng tứ đức mới nên thân người Trước là giữ tiếng cho đời Sau giữ danh giá cho người thân thương Tiếng thơm vang cả họ đường.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Nhắc nhau đừng học theo phường điêu toa Nhuốc nhơ đến cả cảnh nhà Người trọng gia quyến nghĩ mà thẹn thay Nhân ngày chạp họ năm nay Đôi lời tâm sự giải bày tâm can 15-12- Nhâm Thân. KHÓC Đau đớn thay năm cùng tháng hết Lẽ vì đâu cháu biệt mẹ cha Làm cho hiu quạnh cảnh nhà Ông bà thương khóc mẹ cha than sầu Các bác ở trong dòng gia tộc Giọt máu đào thanh thót lệ rơi Nghe tin bác vội đến nơi Hỏi han nguyên cớ theo lời ông hay Mới sáng ngày cháu vì lâm bệnh Sao chiều tà đã tạnh mưa sa Đời tựa như thể cái hoa.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> Nụ vừa mới hé sao đà rụng ngay Ba vạn sáu ngàn ngày mấy chốc Chẳng trăm năm cho thoả lòng mong Công lao cha mẹ đèo bồng Ông bà nâng giấc lúc nồng lúc say Nào có phải tại thầy tại thuốc Hay phận đời ngắn ngủi chừng đây Nén hương bác thắp hôm nay Than ôi tội nghiệp đắng cay muôn phần 28-12- Canh Ngọ 1991. Chỉnh bản in Trang 19: Ghi chú : Tháng 8- Bính Tý Trang 23: Bài 2, câu 3, chữ thứ 5 : đâu Trang 38: Câu đối 1vế 2, chữ thứ 8: trải Trang 42: Ghi chú: Bài 1 câu 4: Trại Cao là đồng Trại Cao Trang 43: Bài 1: Phần chú thích: Tháng 6- 1989 Trang 50: Bài 1, câu 1, chữ 2: trải Trang 56: Bài 2, câu 2, chữ 5: trải Trang 58: Câu 19, chữ thứ 3: giả.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Trang 59: Ghi chú: Câu 19 : Trại Cao là đồng Trại Cao Trang 63: Bài 2 câu 2 chữ 1: Làm Trang 73: Câu 13 chữ thứ 8: sa Trang 90: phần ngày tháng: Trại Cao đổi thành Đồng Trại Trang 104: Bài 1 câu 3 chữ thứ 3: sa Trang 114: Câu 17 chữ 4: sa. TUỔI GIÀ XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG ( Kính tặng các cụ thôn 8- Sinh hoạt đầu xuân) Cây cao bóng cả bậc hiền tài Gương mẫu xưa nay nào kém ai Dìu dắt cháu con cùng tiến bộ Giữ gìn đoàn kết ấm tương lai Đầu xanh nghĩa nước vai không mỏi Tóc bạc tình nhà xây dựng hoài.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> Tí lực con con chẳng nhẽ bỏ Quê hương xây dựng đẹp ngày mai Xuân Quý Tỵ. Phạm Văn Lơi. LÀM NGƯỜI ( Răn con) Làm người sống có xóm làng Anh em thân thích họ hàng dưới trên Gây thù chuốc oán không nên Tư phiền gạt bỏ cho bền nghĩa nhân Trước là giữ tiếng cho thân Sau là để phúc để phần cho con Dù đời lấp bể dời non Ông cha bao thuở vẫn còn lề xưa.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> Dù rằng vất vả nắng mưa Anh em làng xóm sớm trưa vẫn nồng Anh em một họ một dòng Làm chi bới móc cho lòng xót xa Cùng là con mẹ, con cha Cháu chú cháu bác, cũng là cháu ông Có chi bực dọc lòng bong Khó gỡ thì xếp cho lòng thảnh thơi Có chi khó nói nên lời Ta đem chín bỏ làm mười là song Thơ quê bố hoạ đôi dòng Con trai con gái như lòng cho nên Xuân Quý Tỵ 2013 Phạm Văn Lơi. XUÂN HẸN Đón xuân Quý Tỵ tuổi ta ơi Mới đấy mà đây sáu mốt rồi Dày dạn phong ba cùng tuế nguyệt.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> Trải bầu thi vị tháng ngày chơi Tri âm tri kỷ ai còn mất Chốn nghĩa nơi tình nọ những người Điểm lại thời gian xuân có hẹn Trăm năm trăm tuổi một đời người Xuân Quý Tỵ 2013. Phạm Văn Lơi.

<span class='text_page_counter'>(128)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×