Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

đề tài tiểu luận tìm hiểu về các chính sách kiểm soát giá cả của nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.8 KB, 27 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài tiểu luận “Tìm hiểu về các chính sách kiểm sốt
giá cả của Nhà nước ” là cơng trình nghiên cứu của bản thân. Những phần sử
dụng tài liệu tham khảo trong bài tiểu luận đã được nêu rõ trong phần tài liệu
tham khảo. Các số liệu, bảng biểu, kết quả trình bày trong tiểu luận là hồn tồn
trung thực, nếu sai tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm và chịu mọi kỉ luật của bộ
môn và nhà trường để ra.
Hưng Yên, tháng 12 năm 2020
Sinh viên
Mai Phương Anh

1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................1
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH.............................................................3
PHẦN I : MỞ ĐẦU...............................................................................................4
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu........................................................4
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.................................................................6
1.3 Đối tượng nghiên cứu :.............................................................................6
1.4 Phạm vi nghiên cứu của đề tài:.................................................................6
1.5 Phương pháp nghiên cứu đề tài................................................................6
1.6 Kết cấu của đề tài :....................................................................................6
PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN....................................7
2.1 Khái qt chung về chính sách kiểm sốt giá cả......................................7
2.1.1

Giá cả nói chung..............................................................................7

2.1.2



Kiểm sốt giá cả..............................................................................8

2.2 Chính sách kiểm sốt giá cả của Nhà nước............................................12
2.2.1

Định giá.........................................................................................13

2.2.2

Trợ giá...........................................................................................17

2.2.3

Thuế...............................................................................................18

2.2.4

Các biện pháp điều hoà thị trường................................................19

2.2.5

Các biện pháp ổn định sức mua của đồng tiền..............................20

2.2.6

Các biện pháp điều tiết giá cả khác...............................................20

2.3 Nhận xét..................................................................................................21
PHẦN III: KẾT LUẬN.......................................................................................24


2


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH
Hình 1: Tác động của giá trần
Hình 2: Tác động của giá sàn
Hình 3: Tác động của trợ giá
Hình 4: Tác động của thuế nhập khẩu

3


PHẦN I : MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kinh tế xã hội nước ta những năm gần đây diễn ra trong bối cảnh tình
hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường, giá dầu thô
và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hóa khác trên thị trường thế giới tăng mạnh
kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, lạm phát
xảy ra tại nhiều nước trên thế giới, khủng hoảng tài chính tồn cầu dẫn đến một
số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm, thiên tai, dịch bệnh đối
với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn
đến sản xuất và đới sống dân cư. Trước tình hình đó, nhờ sự chỉ đạo kịp thời,
quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự cố gắng khắc phục khó khăn của
các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn, doanh ngiệp, các cơ sở sản xuất và của
toàn dân nên kinh tế xã hội nước ta từng bước vượt qua khó khăn, thách thức...
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh. Bản chất của kinh tế thị trường bao hàm hai mặt, mặt
tích cực và mặt tiêu cực. Chính sách và cơ chế quản lý giá cần phải hướng vào

mặt tích cực như thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, hiệu quả kinh
tế cao, đồng thời phải khắc phục mặt tiêu cực như phân hố giàu nghèo, phân
hố thành thị và nơng thơn, đề cao lợi ích cục bộ.
Bối cảnh thương mại và thị trường thế giới có nhiều biến động lớn đang
đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam trong điều hành kinh tế vi mơ. Vì vậy,
u cầu đặt ra là cần củng cố nền tảng kinh tế vi mô, nhằm tạo thêm dư địa
chính sách và cải thiện khả năng chống chịu của nền kinh tế.
Việt Nam đã đi qua 20 năm đổi mới một cách ấn tượng với nhiều thành
tựu quan trọng. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
4


một cách chắc chắn. Với tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 7%/ năm trong thập
kỷ qua, Việt Nam cũng đã lập được những kỷ lục về giảm nghèo. Việc gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã khẳng định mức độ tiến bộ mà chúng
ta đã đạt được trong 20 năm. Giờ đây, đất nước đang bước sang một thời kỳ
mới – thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tồn cầu, đẩy nhanh q trình
cơng nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh những vận hội mới, chúng ta
cũng đang đứng trước nhiều thách mới. Chúng ta không thể chỉ theo đuổi mục
tiêu tăng trưởng cao mà không quan tâm tới chất lượng tăng trưởng. Chúng ta
cũng không thể mặc nhiên cho rằng tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế có
thể duy trì được mãi. Cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở nên quyết liệt,
trong khi nguồn lực cho tăng trưởng không tăng cùng chiều với tăng trưởng.
Hơn nữa, tăng trưởng cao khơng đồng nghĩa với tăng trưởng có chất lượng và
cũng khơng có nghĩa Việt Nam sẽ chắc chắn đi vào đúng quỹ đạo trở thành quốc
gia phát triển. Nếu chúng ta quản lý, kiểm soát giá cả thị trường khơng tốt,
khơng có chiến lược phát triển đúng đắn, khơng có chính sách phù hợp, mục tiêu
trở thành nước thu nhập trung bình vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020, mà chúng ta đang theo đuổi, khó trở thành hiện thực. Việt Nam

sẽ khó khăn hơn trong việc bắt kịp các nước khác trong khu vực. Mặt khác,
trong trường hợp những mục tiêu trên là khả thi, khi đó, nền kinh tế của chúng ta
sẽ ngày càng trở nên phức tạp, ngày càng có nhiều sự khác biệt giữa các vùng,
miền, giữa các tầng lớp dân cư, nhiều rủi ro hơn, nhiều vấn đề phức tạp phải giải
quyết hơn. Điều đó địi hỏi Nhà nước phải có năng lực xây dựng và thực thi
chính sách ,cơ chế kiểm sốt giá cả để có thể quản lý được nền kinh tế phức tạp
đó.
Vì vậy, việc nghiên cứu về tình hình kinh tế của những năm gần đây rất
quan trọng, và cần thiết,đặc biệt là các chính sách kiểm soát giá cả của Nhà
nước hiên nay đang áp dụng để biết được thực trạng phát triển của nước ta trong
những năn đây, đề ra các hướng giải quyết, định hướng trong tương lai.

5


1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu về các chính sách kiểm sốt giá cả của Nhà nước đang áp dụng
hiện nay.
- Đưa ra những nhận xét khách quan và rút ra bài học kinh nghiệm.
1.3 Đối tượng nghiên cứu :
- Các chính sách kiểm sốt giá cả của Nhà nước đang áp dụng hiện nay.
1.4 Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đề tài nghiên cứu các chính sách kiểm sốt giá cả của Nhà nước đang áp dụng
hiện nay
1.5 Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp tiếp cận đề tài, sử dụng kiến thức , kết hợp giữa tài liệu
tham khảo trong sách và trên mạng Internet, thu thập,thống kê số liệu để làm rõ
hơn về chính sách kiểm sốt giá cả của Nhà nước đang áp dụng hiện nay. Đồng
thời vận dụng các lý luận liên quan cùng với các nhận xét, đánh giá, phân tích để
xây dựng hệ thống quan điểm , phương hướng , giải pháp phát triển.

1.6 Kết cấu của đề tài :
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài nghiên cứu bao
gồm 03 phần chính :
- Phần I: Mở đầu
- Phần II : Kết quả nghiên cứu và thảo luận
- Phần III : Kết luận
6


7


PHẦN II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1 Khái qt chung về chính sách kiểm sốt giá cả
2.1.1 Giá cả nói chung
Kinh tế của một quốc gia có thể nhìn ở các góc độ khác nhau. Ở một góc
độ này, nền kinh tế của một quốc gia được xem xét như một thể thống nhất với
nhiều ngành kinh tế, nhiều lĩnh vực kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng
hạn, trong một nền kinh tế có các ngành cơng nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ.
Trong các ngành đó lại có nhiều phân ngành khác nhau. Chẳng hạn trong ngành
dịch vụ có các phân ngành tài chính - tiền tệ, thương mại, du lịch…
Giá cả luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp của mọi nền kinh tế. Giá cả là
“đòn bẩy” kinh tế trong cơ chế thị trường, được coi là một hệ thống tín hiệu
khách quan trên thị trường. Giá cả là một trong những thông tin đáng tin cậy để
định hướng sản xuất, đầu tư; đồng thời để giám sát sản xuất, phát hiện hiệu quả
của sản xuất, cung cấp những thơng tin có căn cứ về hiệu quả sản xuất kinh
doanh của từng mặt hàng; tác động làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu
tư, tổ chức sắp xếp lại sản xuất dưới sự kiểm soát của thị trường.
Giá cả là lợi ích kinh tế, nên nó có tác động mạnh đến việc đổi mới công
nghệ, tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành, khuyến khích sản xuất phát

triển, góp phần tích cực vào việc phân bổ nguồn lực của đất nước; phân phối và
phân phối lại sản phẩm trong nền kinh tế.
Bản thân giá cả thị trường có tính 2 mặt. Với tính tự phát điều tiết vốn có,
giá cả thị trường có thể khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển
kinh tế nếu có hệ thống giá hợp lý. Nhưng ngược lại, nếu hệ thống giá cả vận
hành khơng hợp lý cũng có thể dẫn đến suy thối, khủng hoảng và thậm chí phá
hủy cả một hệ thống kinh tế. Mặt tiêu cực của giá cả, nó có thể phân bổ nguồn
lực của nền kinh tế không đúng.

8


Giá cả quyết định lợi nhuận, vì lợi nhuận sẽ đưa nhà sản xuất kinh doanh
đến các khu vực sản xuất các hàng hóa, dịch vụ người tiêu dùng cần nhiều hơn
mà bỏ qua những vấn đề về lợi ích cơng cộng của xã hội và cũng từ đó có thể
dẫn đến sản xuất, đầu tư trùng lắp, kém hiệu quả, đưa lại cơ cấu sản xuất ln
thay đổi vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong phân phối và phân phối lại có thể làm gia tăng sự phân hóa giàu
nghèo trong xã hội do tình trạng độc quyền, cạnh tranh khơng lành mạnh...
*Tầm quan trọng của giá cả:
 Đối với khách hàng : là cơ sở để quyết định mua sản phẩm này hay sản
phẩm khác, giá cả là địn bẩy kích thích tiêu dùng.
 Đối với doanh nghiệp:  giá cả làvũ khí cạnh tranh trên thị trường, quyết
địnhdoanh số và lợi nhuận; gián tiếp thể hiện chất lượng sản phẩm và ảnh
hưởng đến chương trình marketing chung.
 Tầm vĩ mơ:  giá cả là người chỉ đạo hệ thống kinh tế, có  ảnh hưởng đến
sự phân phối các yếu tố sản xuất; lạm phát, lãi suất ngân hàng       
2.1.2 Kiểm soát giá cả
Kiểm soát giá cả (price controls) là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ
quy định giá tối đa hay tối thiểu cho hàng hóa và dịch vụ. Giá cả có thể được

chính phủ quy định ở trên hay dưới mức làm cân bằng thị trường, tùy thuộc vào
mục tiêu mà chính phủ theo đuổi. Chằng hạn, chính phủ muốn giữ cho mức giá
các hàng hóa thiết yếu ở mức thấp để hỗ trợ cho người nghèo hay giữ cho giá cả
cao để đảm bảo mức thu nhập thỏa đáng cho người sản xuất. Đôi khi chính phủ
kiểm sốt hầu hết các loại giá cả nhằm ngăn chặn đà gia tăng của lạm phát.

9


Mọi nhà nước chấp nhận cơ chế thị trường và muốn phát triển nền kinh tế
nước mình vận động theo cơ chế thị trường đều phải thực hiện sự điều tiết vĩ mô
đối với nền kinh tế. Điều tiết giá cả của nhà nước là một trong những khâu chính
trong hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô tổng thể của nhà nước vì giá cả là phạm
trù tổng hợp có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các tham số kinh tế vĩ
mô. Ngày nay, sự điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước theo cơ chế thị trường là
một tất yếu khách quan nhằm hạn chế bớt những tác động tiêu cực, sự điều tiết
giá cả do đó cũng khơng thể thiếu được. Điều tiết giá cả là một trong những địn
bẩy, cơng cụ có tính quyết định đảm bảo sự thành cơng của các hoạt động điều
tiết khác và của hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mơ nói chung của nhà nước.
Điều tiết giá cả của nhà nước là hoạt động không thể thiếu được nhằm
khắc phục khuyết tật của thị trường trong lĩnh vực thị trường và góp phần khai
thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng giá cả. Đây là một trong những lý do khách
quan đòi hỏi nhà nước thực hiện sự điều tiết giá cả. Trong điều kiện ngày nay,
chế độ định giá tự do mặc dù cịn có vai trị tích cực, thậm chí là quyết định
nhưng nó cũng dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực. Tình trạng dùng các thủ đoạn
trong định giá, độc quyền là những hiện tượng đã gây khơng ít thiệt hại cho các
10


nền kinh tế. Thực tiễn ở các nước kinh tế thị trường cho thấy, nếu để cho thị

trường tự do q nhiều quyền định đoạt giá thì có nguy cơ dẫn đến suy thoái và
khủng hoảng. Những khuyết tật của thị trường tự do, các cuộc suy thoái đã làm
lung lay nền tảng của nhà nước, buộc nhà nước phải tìm cách đối phó bằng con
đường kinh tế. Đó là giá cả. Nhà nước khơng chỉ tìm cách khắc phục những
khuyết tật của chế độ định giá tự do mà còn cần tác dụng vào giá cả nhằm khai
thác hết những tiềm năng của nền kinh tế.
Hơn nữa, ngày nay lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức cao làm cho
sự phát triển kinh tế của các nước liên quan chặt chẽ đến nhau. Hội nhập kinh tế
đang trở thành một xu hướng lớn và tất yếu khách quan. Chính vì vậy, chính
sách kinh tế của mỗi nước phụ thuộc lớn vào các hoạt động đối ngoại, chính
sách kinh tế của các nước khác. Trong điều kiện đó, nếu nhà nước khơng thực
hiện điều tiết giá cả thì sẽ ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nhà nước. Mặt
khác, nhà nước sẽ bị thua thiệt trong quan hệ kinh tế đối ngoại và thị trường hoạt
động tự phát của nước này không thể cạnh tranh với thị trường có sự điều tiết
của nhà nước khác. Nếu nhà nước khơng có chính sách trợ giá đối với các cơng
ty cịn yếu trong cạnh tranh với cơng ty nước ngồi hoặc khơng có hệ thống
hàng rào thuế quan (tác động nên sự hình thành giá) thì các doanh nghiệp trong
nước khơng thể tồn tại được. Do đó chỉ xét trên quan hệ kinh tế đối ngoại và
chính sách đối ngoại nói chung đã thấy sự cần thiết phải điều tiết giá của nhà
nước. Điều tiết giá sẽ có tác dụng củng cố và phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại đồng thời thúc đẩy khai thác thế mạnh của nước mình trong hệ thống phân
cơng lao động quốc tế và tiềm năng khoa học tiên tiến của thế giới.
Trong mọi quốc gia, giá cả là một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống và thu nhập của các tầng lớp khác nhau. Khi giá cả có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống hay thu nhập của họ thì tất yếu họ phải đứng
lên đấu tranh địi nhà nước phải điều chỉnh lại giá cả. Do đó, sự điều tiết giá cả
có vai trị lớn trong việc ổn định chính trị - xã hội, ổn định đời sống nhân dân,
tăng cường công bằng xã hội.
11



*Vai trò quản lý của nhà nước về giá ở Việt Nam
Sự điều tiết giá cả của nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất nhiều
tác dụng, vai trò khác nhau. Đáng lưu ý nhất là vai trò trong việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế vĩ mô, trước hết là mục tiêu sản lượng trong việc thực hiện
cơng bằng xã hội.
Trước hết là vai trị điều tiết giá cả của nhà nước đối với việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế vĩ mơ, trong đó đặc biệt là mục tiêu sản lượng. Để tác động
vào nền kinh tế có hiệu quả, chính phủ phải đề ra hệ thống các mục tiêu, mà trên
cơ sở đó xây dựng các chiến lược và chính sách cụ thể. Hiện nay, chính phủ các
nước theo cơ chế kinh tế thị trường thường hướng tới các mục tiêu lớn là: sản
lượng, công ăn việc làm và giá cả…Các mục tiêu này khơng tách rời nhau mà
gắn bó chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Trong số này, sản lượng là mục
tiêu tổng hợp, là thước đo thành tựu kinh tế vì mức đạt được các mục tiêu khác
phản ánh trong mục tiêu sản lượng. Chẳng hạn, công ăn việc làm nhiều, ổn định
là nhân tố tăng nhanh sản lượng. Ngược lại, lạm phát quá cao phản ánh tình
trạng khủng hoảng của nền kinh tế.
Sự điều tiết giá cả của nhà nước khơng chỉ có vai trị quan trọng trong
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, mà nó cịn có tác dụng to lớn đối với việc
thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là tiến bộ và cơng bằng xã hội. Sở dĩ như
vậy vì giá cả, ngồi các chức năng khác, cịn có chức năng phân phối.
Bên cạnh đó, giá cả cịn là quan hệ trao đổi của cải vật chất giữa những
người sản xuất, giữa các tổ chức kinh tế xã hội, và nói rộng ra, giữa các nhóm
dân cư, thậm chí giữa các tầng lớp, giai cấp…Do đó, sự thay đổi giá cả tương
đối sẽ làm cho thu nhập của hai bên thay đổi. Nhà nước có thể căn cứ vào tình
trạng bất cơng bằng xã hội để điều chỉnh giá cả, từ đó lập lại công bằng xã hội,
thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội không đối lập với các mục tiêu kinh tế mà
ngược lại, gắn bó chặt chẽ với nó. Thực hiện cơng bằng xã hội, trước hết đó là
12



sự phát huy nhân tố con người ở tầm vĩ mơ. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế trong tương lai, về lâu dài. Tuy vậy, chính phát triển mục tiêu kinh
tế lại là cơ sở, tiền đề thực hiện các mục tiêu xã hội…Đó cũng là biện chứng
giữa vai trò thực hiện mục tiêu kinh tế và mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội
của sự điều tiết giá cả của nhà nước.
Như một biện pháp của chính phủ, các biện pháp kiểm sốt giá có thể đã
được ban hành với mục đích tốt, nhưng trong thực tế, chúng có thể khơng có tác
dụng. Khơng có nỗ lực để kiểm sốt giá nào có thể vượt qua các sức ép của cung
và cầu trong bất kỳ một khoảng thời gian đáng kể.
Khi giá được thiết lập trong một thị trường tự do, giá thay đổi để duy trì
sự cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên, khi chính phủ áp đặt các biện pháp
kiểm sốt giá - chính vì nó từ chối chấp nhận giá cân bằng thị trường tự do - thì
hậu quả khơng thể tránh khỏi là tạo ra nhu cầu dư thừa trong trường hợp giá trần
hoặc nguồn cung dư thừa trong trường hợp giá sàn.
Việc kiểm soát giá xăng của thập niên 1970 là một ví dụ điển hình. Khơng
có nỗ lực nào của chính phủ để tăng giá xăng có thể thay đổi thực tế là các nhà
sản xuất xăng chỉ sẵn sàng bán một nguồn cung cấp xăng rất hạn chế với mức
giá do chính phủ quy định. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng về xăng.
2.2

Chính sách kiểm soát giá cả của Nhà nước
Như chúng ta đã biết bất cứ một chính phủ nào (trừ Bắc Triều Tiên) khi

điều hành nền kinh tế đều là sự kết hợp của hai bàn tay Bàn tay vơ hình theo
quan điểm của Adam Smith và Bàn tay hữu hình theo quan điểm của Keynes.
Chính phủ sử dụng bàn tay hữu hình để đảm bảo sự tăng trưởng, sự phân chia
công bằng. Một trong những việc mà chính phủ có thể làm đó là kiểm sốt giá
(rất hay gặp ở Việt Nam).

Nhà nước có thể sử dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau để điều tiết
giá cả. Việc nhà nước sử dụng biện pháp nào là tuỳ thuộc vào từng thời điểm,
13


từng điều kiện sử dụng những công cụ nào và dưới hình thức nào là tốt nhất và
có ảnh hưởng tích cực nhất. Sau đây là những biện pháp mà nhà nước có thể sử
dụng tùy vào sự đánh giá, phân tích tình hình cụ thể.
2.2.1 Định giá
Định giá là việc nhà nước dùng cơng cụ hành chính để tác động vào mức
giá và hướng sự vận động của giá về phía giá trị. Vì giá trị kinh tế cũng là một
đại lượng luôn biến đổi nên định giá bao gồm cả định giá cố định và định giá
biến đổi. Định giá có thể thực hiện dưới các dạng sau:
 Giá cứng: Nhà nước quy định mức giá chuẩn cho một số mặt hàng nào đó.
Trên thị trường, mọi doanh nghiệp và cá nhân đều phải mua, bán theo
mức này. Biện pháp này được áp dụng chủ yếu đối với các mặt hàng có ý
nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và có thể gây chấn động
lớn cho hệ thống giá khi nó biến đổi như xăng dầu, điện, nước…
a, Giá trần
Giá trần (tiếng Anh: Price ceiling) là một trong những cách điển hình thể
hiện sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của thị trường trên cơ sở mơ hình
cầu - cung.
Khi thiết lập mức giá trần, mục tiêu của nhà nước là kiểm soát giá để bảo
vệ những người tiêu dùng. Khi mức giá cân bằng trên thị trường được xem là
quá cao, bằng việc đưa ra mức giá trần thấp hơn, nhà nước hi vọng rằng, những
người tiêu dùng có khả năng mua được hàng hoá với giá thấp và điều này được
coi là có ý nghĩa xã hội to lớn khi những người có thu nhập thấp vẫn có khả
năng tiếp cận được các hàng hố quan trọng.  Chính sách giá trần thường được
áp dụng trên một số thị trường như thị trường nhà ở, thị trường vốn…
Giả sử khi nhà nước chưa can thiệp, thị trường cân bằng tại điểm E, với

mức giá P* và sản lượng Q*. Nếu P* được coi là quá cao, nhà nước qui định giá

14


trần là P1 trong đó P1 thấp hơn P*. Tại mức giá P1, lượng cung giảm xuống còn
QS1 đồng thời lượng cầu tăng lên thành QD1. 
Thị trường giờ đây không còn ở trạng thái cân bằng. Trên thị trường tồn
tại sự thiếu hụt hàng hoá hay sự dư cầu do lượng cầu lớn hơn lượng cung. Trên
thị trường tự do, trạng thái dư cầu chỉ là tạm thời vì nó lại tạo ra áp lực tăng giá
và chính điều này làm cho dư cầu dần dần bị triệt tiêu, đồng thời thị trường dịch
chuyển về điểm cân bằng.  Tuy nhiên, ở đây qui định về giá trần của nhà nước
khiến cho giá cả không được phép tăng lên vượt quá mức P1. Điều này khiến
cho thị trường không trở về được điểm cân bằng. 

Hình 1:Tác động của giá trần
Hậu quả của việc thiếu hụt hàng hoá là: ở mức giá P1 nhiều người tiêu
dùng khơng mua được hàng hố để thoả mãn nhu cầu của mình; nạn xếp hàng
xuất hiện khiến cho việc mua hàng trở nên mất thời gian hơn; thị trường ngầm
có cơ hội nảy sinh do sự khan hiếm hàng hố… Những hậu quả này có thể làm
tổn hại lợi ích của người tiêu dùng, khơng giống như sự kì vọng ban đầu của nhà
nước.
b, Giá sàn
Giá sàn (tiếng Anh: Price Floor) là một trong những cách điển hình thể
hiện sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của thị trường trên cơ sở mơ hình
cầu – cung. Giá sàn là mức giá tối thiểu mà nhà nước qui định. Trong trường
15


hợp này, người mua không thể trả giá với mức giá thấp hơn giá sàn. Khi định ra

giá sàn về một loại hàng hố, nhà nước muốn bảo vệ lợi ích của những người
cung ứng hàng hoá. Khi nhà nước cho rằng mức giá cân bằng trên thị trường là
thấp, nhà nước có thể qui định một mức giá sàn - với tính cách là một mức giá
tối thiểu mà các bên giao dịch phải tuân thủ - cao hơn. Khi không được mua,
bán hàng hoá với mức giá thấp hơn giá sàn, trong trường hợp này, những người
bán hàng hoá dường như sẽ có lợi. Nhờ việc kiếm sốt giá của nhà nước, họ có
khả năng bán hàng hố với mức giá cao hơn giá cân bằng thị trường.
Một biểu hiện của việc định giá sàn là chính sách tiền lương tối thiểu. 
Khi qui định mức lương tối thiểu cao hơn mức lương cân bằng trên thị trường
(và chỉ trong trường hợp này, chính sách giá sàn mới có ý nghĩa), nhà nước kì
vọng rằng những người lao động sẽ khấm khá hơn, nhờ có được mức lương cao
hơn. Khi chưa có sự can thiệp của nhà nước, thị trường lao động cân bằng tại
điểm E, nơi mà đường cầu DL và đường cung SL về lao động cắt nhau. Mức
lương cân bằng là w*, số lượng lao động cân bằng là L*. 
Giả sử nhà nước qui định mức lương tối thiểu là w1 cao hơn mức lương
cân bằng w*. Tại mức lương w1, lượng cầu về lao động của các doanh nghiệp
giảm xuống thành LD1, trong khi lượng cung về lao động lại tăng lên thành
LS1. 
Thị trường rơi vào trạng thái không cân bằng, với một lương dư cung là
(LS1 - LD1). Lượng dư cung này biểu thị số người thất nghiệp, tức những người
muốn đi làm với mức lương w1 song lại khơng tìm được việc làm. Do chính
sách của nhà nước, tiền lương không thể tự điều chỉnh theo hướng hạ xuống để
"khử" lượng dư cung nói trên. Nói cách khác, thị trường khơng cịn khả năng tự
điều chỉnh để trở về trạng thái cân bằng. 

16


Hình 2 : Tác động của giá sàn
Như vậy, có thể thấy, mặc dù chính sách tiền lương tối thiểu được thiết kế

nhằm bảo vệ lợi ích của những người lao động, song nó lại có thể làm nảy sinh
nhiều vấn đề.  Những người được lợi nhờ chính sách này chỉ nằm trong số
những người lao động may mắn có được việc làm, và số lượng những người này
ít hơn trước (LD1 so với L*).  Trong khi đó, số người thất nghiệp tăng lên (trong
ví dụ của chúng ta, trước kia trên thị trường không tồn tại hiện tượng thất
nghiệp). Trong số này có cả những người trước đây vẫn tìm được việc làm do
lượng cầu về lao động là L* cao hơn LD1. 
Ngoài ra, do trên thị trường tồn tại hiện tượng dư cung, thế mặc cả giữa
những người thuê mướn lao động và những người cung ứng lao động cũng khác
trước. Những người thuê mướn lao động sẽ có một vị thế tốt hơn để có thể đưa
ra những qui định bất lợi cho những người muốn xin việc. 
Rõ ràng, chính sách tiền lương tối thiểu nói riêng, cũng như chính sách
giá sàn nói chung cũng có thể gây ra những tổn hại đáng kể cho những người mà
ban đầu chính sách này muốn bảo vệ.

17


2.2.2 Trợ giá
Trợ giá (price support) là phương tiện để hỗ trợ thu nhập cho một số nhà
sản xuất bằng cách sử dụng các biện pháp hành chính để duy trì giá bán sản
phẩm của họ cao hơn mức giá thị trường. Hiện nay nhiều nước sử dụng hệ thống
trợ giá để hỗ trợ cho ngành nông nghiệp thông qua việc đảm bảo mức thu nhập
hợp lý cho nông dân.
Trợ giá là hình thức nhà nước sử dụng các cơng cụ tài chính và tín dụng
nhằm biến đổi mức giá theo tính tốn của mình qua kênh ưu đãi. Cũng như biện
pháp định giá, mục đích trợ giá là giữ cho mức giá cả hàng hoá gần sát với mức
giá trị kinh tế, do đó hạn chế tổn thất về sản lượng ở mức nhỏ nào đó. Nhờ có
trợ giá, giá cả có thể được giữ ở mức thấp hơn hoặc cao hơn mức giá cả của thị
trường. Khi muốn bảo hộ người tiêu dùng, nhà nước sẽ giữ mức giá cả thấp hơn

mức giá thị trường, song đồng thời phải thực hiện ưu đãi cho người sản xuất.
Ngược lại, nếu nhà nước muốn giữ cho mức giá cả cao hơn mức giá thị trường
nhằm bảo hộ cho người sản xuất thì nhà nước phải có chính sách khuyến khích
tiêu dùng để giá khơng bị giảm xuống dưới mức tính.
Ví dụ trong hình dưới, giá thị trường bằng OA. Nếu cho rằng mức giá này
quá thấp, không đảm bảo mức thu nhập thỏa đáng cho nơng dân, chính phủ có
thể định ra một mức giá hỗ trợ, chẳng hạn OB, và sẵn sàng thu mua phần sản
lượng không tiêu thụ được với mức giá này. Hình vẽ cho thấy chính phủ phải
mua lượng sản phẩm có giá trị bằng tổng diện tích CFGH với giá quy định. Vấn
đề chủ yếu phát sinh khi áp dụng phương pháp trợ giá nó trừng phạt người tiêu
dùng và gây ra tình trạng sản xuất thừa một cách lãng phí.

18


Hình 3 : Tác động của trợ giá
2.2.3 Thuế
Tăng hoặc giảm thuế là biện pháp quan trọng nhất của nhà nước đối với
sự điếu tiết giá cả. Thuế suất thường vận động thuận chiều với mức giá nên khi
muốn tăng giá (trong một giới hạn khách quan nhất định) mặt hàng nào đó thì
phải tăng thuế suất và ngược lại. Thuế vừa có tác động trực tiếp và vừa có tác
động gián tiếp.


Tác động trực tiếp của thuế là: Thuế sẽ được hạch toán vào giá thành sản
phẩm và ảnh hưởng lên mức giá.



Tác động gián tiếp của thuế: Thuế cao sẽ làm cho lợi nhuận của doanh

nghiệp giảm nên doanh nghiệp sẽ giảm khối lượng sản xuất để chuyển sang hình
thức kinh doanh khác. Ngược lại, nếu thuế suất giảm thì lợi nhuận của doanh
nghiệp sẽ cao hơn và doanh nghiệp sẽ gia tăng sản lượng.

19


Hình 4:Tác động của thuế nhập khẩu
Xét mơ hình phân tích cân bằng cục bộ thuế quan cho một nước nhỏ nhập
khẩu. Gọi P(x) là giá mặt hàng X và Q(x) là sản lượng mặt hàng X. P0 là giá
mặt hàng X khi khơng có thuế nhập khẩu. Khi đó sản xuất trong nước là OA,
mức cầu trong nước là OB dẫn đến dư cầu một lượng AB. Sau khi đánh thuế
nhập khẩu, mức giá của mặt hàng X tăng từ P0 lên P1. Mức nhập khẩu giảm từ
CF đến HI. Mức giá tăng lên làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng nhưng nhà
nước lại thu được một khoản MHIH cho ngân sách. Như vậy thuế nhập khẩu
làm mức giá tăng, lượng nhập khẩu giảm, làm giảm mức độ hội nhập của nền
kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới.
2.2.4 Các biện pháp điều hoà thị trường
Điều hoà thị trường cũng là một trong những biện pháp chính nhà nước sử
dụng để điều tiết giá cả. Thực chất của biện pháp này là nhà nước sử dụng quỹ
bình ổn giá để hạn chế sự chênh lệch của giá cả so với giá trị kinh tế do mâu
thuẫn giữa cung và cầu gây ra. Cơ chế hoạt động của quỹ này là: Hàng hoá sẽ
được mua vào tại những nơi và những lúc hàng hoá “ế thừa”, giá cả thấp hơn giá
trị kinh tế làm cho giá được nâng lên về phía giá trị kinh tế và hàng hố sẽ được
bán ra vào những nơi, những lúc hàng hoá “khan hiếm” nhờ đó giá cả được
giảm xuống gần về phía giá trị kinh tế.

20



2.2.5 Các biện pháp ổn định sức mua của đồng tiền
Trong trường hợp giá cả tăng lên gây ra hiện tượng mất giá liên tục và
lạm phát, rõ ràng là khơng thể dùng mệnh lệnh để đình chỉ lạm phát hay dùng
bình ổn giá để giải quyết sự tăng giá lên. Trong trường hợp này nhà nước phải
sử dụng các biện pháp khác như sau:


Can thiệp vào lãi suất: Khi giá cả đã tăng lên một cách phổ biến thì điều

chỉnh lãi suất được xem như là một biện pháp có tính chất quyết định nhằm ngăn
chặn cơn sốt và hạ tỷ lệ tăng giá. ở đây, tác dụng của điều chỉnh mức lãi suất
không chỉ là hạn chế khoảng sai lệch giữa giá cả và giá trị kinh tế. Vì sự tăng lên
một cách phổ biến gây nên hậu quả là giá cả của các hàng hoá khác nhau tăng
lên theo những tỷ lệ khác nhau, do vậy tác dụng chủ yếu của điều chỉnh lãi suất
là ổn định giá cả, dần dần khắc phục sự bất ổn định của giá cả.


Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và giá cả của các mặt hàng trọng yếu: Tình

trạng lạm phát giá cả, giá cả tăng lên một cách phổ biến có một trong những
ngun nhân quan trọng từ phía giá cả của các đồng ngoại tệ mạnh (tức tỷ giá
hối đoái) và giá cả của các mặt hàng thiết yếu khác. Do vậy khi tình trạng lạm
phát cao xảy ra, điều chỉnh tỷ giá và giá cả mặt hàng trọng yếu có tác dụng kéo
tốc độ tăng giá xuống. Tuy nhiện, biện pháp này phải sử dụng đồng thời với các
biện pháp khác.
2.2.6 Các biện pháp điều tiết giá cả khác
Ngoài những biện pháp đã nêu, điều tiết giá cả của nhà nước cịn có nhiều
biện pháp khác. Trong khi sử dụng các biện pháp trên, nhà nước phải đi đơi sử
dụng cả những biện pháp này thì mới đem lại kết quả cao được. Những biện
pháp đó là: khuyến cáo, hướng dẫn tính và lập giá, đăng ký và niêm yết giá, hiệp

thương giá…Đây là những biện pháp tổn phí rất nhỏ nhưng đơi khi lại có tác
dụng quyết định. Những biện pháp này ngày càng được các nhà nước chú ý đến
nhiều hơn vì nó khơng tổn hại đến tự do kinh doanh mà không cần đến quỹ tài
chính lớn, khơng những khuyến khích được tính tích cực của các tổ chức kinh tế
21


mà cịn cả tính tích cực của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện trao đổi
theo giá trị kinh tế.
2.3 Nhận xét
Giá cả luôn là một hiện tượng kinh tế tổng hợp. Nó có mối liên hệ nhân
quả với nhiều hiện tượng và giải pháp kinh tế khác. Do đó, giá cả có thể xem
như tín hiệu thị trường của một quá trình kinh tế hay của một tổng thể các giải
pháp kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế và công cuộc cải cách giá của nước ta đủ
để chúng minh rằng sẽ khơng có sự phát triển kinh tế lành mạnh nếu như khơng
có sự ổn định về giá cả. Nhưng cũng sẽ khơng có được sự ổn định về giá cả nếu
như khơng có một chính sách tiền tệ đúng đắn, mà mục tiêu của nó là đẩy mạnh
phát triển sản xuất, chống lạm phát và củng cố sức mua của đồng tiền. Vì vậy
trong quản lý kinh tế và quản lý giá cả, phải thơng qua tín hiệu giá cả thị trường
để giải quyết đồng bộ các giải pháp khác nhằm đạt mục tiêu của quản lý vi mơ
nói chung và quản lý giá cả nói riêng.
Trong những năm qua, chính sách giá cả đã góp phần quan trọng trong
việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế giá thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước đã hình thành được một hệ thống
chính sách, pháp luật để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực giá.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 khả năng đạt 6,7%.Sản xuất công
nghiệp mười tháng qua tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước và cao hơn so với kế
hoạch năm (12%). Xuất khẩu xấp xỉ 57,8 tỉ USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm
2009, gấp bốn lần so với chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông qua. Tỉ lệ nhập
siêu giảm (bằng 16,45% tổng kim ngạch xuất khẩu) và đây là tỉ lệ nhập siêu thấp

nhất trong nhiều năm qua.
Nhà nước đã thực hiện việc quản lý, điều hành giá chủ yếu bằng các biện
pháp kinh tế vĩ mô, phù hợp dần với yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường và
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; giảm mạnh việc bù lỗ, bù giá, bao cấp qua
giá... giảm sự “méo mó” của hệ thống giá trong nền kinh tế.
22


Bên cạnh những kết quả nêu trên, việc quản lý, điều hành giá còn bộc lộ
những bất cập nhất định, như: có những biểu hiện việc bng lỏng kiểm sốt giá
cả thị trường đối với một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu. Tình trạng độc
quyền, liên minh độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh về giá nhằm thu lợi
nhuận khơng chính đáng ở một số ngành, lĩnh vực làm phương hại đến lợi ích
của người tiêu dùng chưa được kiểm sốt một cách thích đáng.Tình trạng hạch
tốn gian lận chi phí sản xuất, chi phí đầu tư, tài sản cố định, chi phí góp vốn
chưa được thẩm định đầy đủ.
Chi phí tiền lương, tiền thưởng hạch tốn chưa đúng quy định, lãi suất và
tỷ suất lợi nhuận trên vốn bị giảm sút một cách không hợp lý. Những hiện tượng
nâng giá đầu vào, tăng giá đầu ra không hợp lý của một số hàng hóa, dịch vụ
làm giảm khả năng cạnh tranh; những hiện tượng lợi dụng sự biến động của giá
thị trường, chủ trương điều chỉnh giá của Nhà nước để tăng giá không hợp lý
chưa được kiểm sốt tốt.
Giá một số hàng hóa, dịch vụ chưa được tính đúng, tính đủ theo mặt bằng
giá thị trường, có loại cịn bao cấp, bù chéo... làm “méo mó” hệ thống giá trong
nước do không phản ánh đúng giá trị hàng hóa, dịch vụ dẫn đến thị trường
ngầm, bn lậu diễn biến phức tạp.Chưa có quy định các cơ chế cạnh tranh về
giá như: thoả thuận giá, đấu thầu, đấu giá, định giá dựa vào cạnh tranh; các tiêu
chí cụ thể và biện pháp kiểm soát giá độc quyền; các quy định cụ thể về các biện
pháp bình ổn giá có hiệu quả để điều tiết giá, khi giá cả một số hàng hóa thiết
yếu quan trong có biến động bất thường.

Những tồn tại, bất cập nêu trên của chính sách giá cả đã ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến người tiêu dùng, đến chất lượng tăng
trưởng và việc kiểm soát lạm phát.
Những bất cập về giá cả hàng hóa thời gian vừa qua nguyên nhân chính là
do yếu kém về quản lý chứ khơng phải vì thiếu khung pháp lý. Thời gian qua giá
cả thị trường đang bị tác động bởi những yếu tố: tình trạng đầu cơ thái quá, sự
23


can thiệp quá mức của Nhà nước trong nhiều trường hợp và cuối cùng là hệ
thống phân phối chưa hợp lý, không thông suốt. Đây là những yếu tố đã và đang
khiến giá cả thị trường bị méo mó.
Thực tế đối với việc điều hành giá, khó khăn nhất vẫn là giải quyết mối
quan hệ giữa Nhà nước với thị trường, Nhà nước cần bảo đảm sự can thiệp về
giá phù hợp với vai trò, chức năng của Nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường,
cần tôn trọng các quy luật của thị trường.

24


PHẦN III: KẾT LUẬN
Các biện pháp kiểm soát giá của Chính phủ có thể được ban hành với mục
đích tốt, nhưng trong thực tế, chúng có thể khơng có tác dụng. Khi Chính phủ áp
đặt một mức giá trần ràng buộc trong thị trường cạnh tranh, tình trạng thiếu hụt
hàng hóa sẽ xảy ra và người bán (các doanh nghiệp sản xuất) sẽ phân phối số
hàng khan hiếm này cho một lượng lớn người mua. Khi đó thị trường sẽ phát
sinh ra một cơ chế để phân phối lượng hàng thiếu hụt.
Như vậy khi chính phủ qui định giá trần có thực sự đạt được hiệu quả và
công bằng? Giá trần được đưa ra nhằm giúp đỡ những người mua, nhưng không
phải tất cả người tiêu dùng đều được hưởng lợi. Một số người được hưởng lợi vì

được mua hàng với giá thấp. Một số người khác không mua được bất cứ đơn vị
hàng hóa nào. Chúng ta có thể đưa ra lập luận tương tự như khi chính phủ qui
định giá sàn.
Theo đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ), kết quả đạt được trong năm
2019, kỳ tích về chống dịch COVID-19 và ngăn chặn suy giảm kinh tế một lần
nữa khẳng định sức mạnh đoàn kết của dân tộc và sự ưu việt của chế độ mà
Đảng đang kiên định lãnh đạo toàn dân đi theo. Để khắc phục khó khăn, cả hệ
thống chính trị đã vào cuộc, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp để khôi
phục kinh tế. Đại biểu cho rằng, khi kinh tế suy giảm, nguyên lý cơ bản là nới
lỏng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; tăng chi tiêu cơng và tăng cung
ứng vốn để kích thích nền kinh tế, tăng cung.
Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 làm cho cả cung và cầu đều suy giảm nên
việc nới lỏng mỗi chính sách cần phải có liều lượng phù hợp, phải đặt ra ngưỡng
trần không được vượt qua, lường trước các rủi ro để điều hành và đặc biệt để
thúc đẩy sản xuất lại phải quay về các câu hỏi kinh điển là sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào, bán cho ai để cơ cấu lại nền kinh tế và phải đặt trong bối cảnh
chúng ta đã hội nhập sâu, độ mở của nền kinh tế rất lớn.

25


×