Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp bất động sản và xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.21 KB, 13 trang )

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CƠNG
BỐ THƠNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP BẤT ĐỘNG SẢN VÀ XÂY DỰNG NIÊM ẾT TRÊN THỊ
TRƢỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM
NCS.ThS. Nguyễn Văn Bảo
Khoa Kế tốn  Tài chính  Ngân hàng,
trường Đại học Cơng nghệ Tp. Hồ Chí Minh

TĨM TẮT
Một trong những ngun tắc cơ bản trong hoạt động của Thị trường chứng khoán là công bố thông tin.
Nguyên tắc công khai thông tin được hiểu là các định chế, tổ chức khi tham gia thị trường phải có nghĩa
vụ cung cấp đầy đủ, trung thực, kịp thời những thơng tin liên quan đến tình hình hoạt động của mình
cho cơng chúng đầu tư biết. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp ngành Bất động sản và xây dựng niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Mẫu nghiên cứu gồm 150 doanh nghiệp niêm yết trên 02 Sở Giao dịch
Chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trong năm 2017. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu định lượng để đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông tin. Kết quả nghiên
cứu cho thấy 05 nhân tố Chủ thể kiểm tốn; Quy mơ doanh nghiệp; Thành phần HĐQT; Thời gian hoạt
động; Khả năng thanh tốn có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ công bố thông tin, trong khi đó, 02 nhân
tố Tỷ lệ sở hữu nước ngồi và Khả năng sinh lời lại khơng có ảnh hưởng. Từ đó, tác giả đề xuất một số
kiến nghị nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường
chứng khốn Việt Nam.
Từ khóa: Báo cáo tài chính; Bất động sản; Cơng bố thơng tin; Doanh nghiệp niêm yết; Sở giao dịch chứng
khoán.

1. GIỚI THIỆU
Cơng bố thơng tin (CBTT) trên Báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) từ lâu
đã là một đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. CBTT là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến
việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực của xã hội và làm giảm thiểu sự nhiễu loạn thông tin giữa doanh
nghiệp (DN) và các đối tượng sử dụng thơng tin bên ngồi DN (Adina, Ion – 2008). Do đó, hành vi
CBTT, đặc biệt của các DNNY trên thị trường chứng khốn (TTCK), có ảnh hưởng rất lớn trong nền kinh


tế. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung đánh giá mức độ CBTT của các DNNY trên TTCK và
kiểm chứng các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Trong thời gian gần đây, các cơng trình nghiên
cứu có liên quan đến chủ đề CBTT ở Việt Nam đã được quan tâm nhiều hơn và đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc làm rõ các khái niệm, nội dung liên
quan đến đặc điểm chất lượng BCTC, quản trị lợi nhuận, tìm hiểu về việc phát hiện các nhân tố ảnh hưởng
tại các DNNY, giới thiệu cơ bản về một số phương pháp đo lường chất lượng BCTC... nhưng nó cũng là
cơ sở, định hướng cho các nghiên cứu sâu trong tương lai. Các nhà nghiên cứu cũng đã nhận thức được
tầm quan trọng của việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Có nghiên cứu tập trung
vào tính minh bạch của Báo cáo thường niên (BCTN), cũng có nghiên cứu tập trung về nhân tố ảnh hưởng
259


đến chất lượng BCTN. Tuy nhiên, các nghiên cứu sử dụng phương pháp đo lường chất lượng BCTN theo
đặc điểm chất lượng và mới chỉ tập trung vào nhân tố liên quan đến quản trị cơng ty hoặc có nghiên cứu
chỉ dừng lại ở việc phân tích mức độ CBTT trên BCTC. Bên cạnh đó, phần lớn các nghiên cứu này đều
thực hiện theo phương pháp khảo sát quan điểm nên chưa phản ảnh đúng thực trạng BCTC đã được lập và
trình bày tại các DNNY hiện nay, chỉ có một vài nghiên cứu trực tiếp trên BCTC của các DN nhưng cũng
chỉ tiếp cận về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT hoặc tập trung vào tính minh bạch của thơng tin
tài chính. Ngồi ra, cũng có nghiên cứu về chất lượng BCTN nhưng đo lường theo đặc điểm chất lượng và
các nhân tố được phân tích, kiểm định chưa nhiều. Các nghiên cứu cũng lựa chọn phạm vi nghiên cứu về
không gian, thời gian và đối tượng khảo sát khác nhau, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào lựa chọn phạm
vi nghiên cứu là các DN Bất động sản và xây dựng, trong khi các DN xây dựng và bất động sản đóng một
vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Quy mô của ngành xây dựng và bất động sản ngày
càng mở rộng và vai trò của các DN xây dựng và bất động sản cũng tăng lên không ngừng trong nền kinh
tế quốc dân, thơng tin nói chung và thơng tin kế tốn nói riêng của các DN này được rất nhiều đối tượng
quan tâm, sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế của họ.

2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH
2.1. Các nghiên cứu trƣớc
Nghiên cứu của Aljifri và Alzarouni (2013) “The association between firm characteristics and corporate

financial disclosures: evidence from UAE companies” đã tìm hiểu mối quan hệ giữa đặc điểm công ty
và CBTT. Kết quả cho thấy yếu tố loại ngành và quy mơ cơng ty có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ
CBTT. Phát hiện này không chỉ hỗ trợ cho các nghiên cứu trước đây, mà cịn có liên quan đến những
nghiên cứu ở UAE, những người muốn hiểu về sự CBTT của cơng ty và cũng được các nhóm người
dùng UAE quan tâm.
Iaad I. S. Mustafa Sartawi, Riyad M. Hindawi, Ruba Bsoul, Ala'eddin Jamil Ali (2014) trong nghiên cứu
“Board Composition, Firm Characteristics, and Voluntary Disclosure: The Case of Jordanian Firms Listed
on the Amman Stock Exchange”, đã xem xét tác động của thành phần Hội đồng quản trị (HĐQT) lên mức
độ CBTT trong các báo cáo hàng năm của các DNNY của Jordan. Theo các tác giả, các công ty bảo hiểm
có xu hướng cơng bố nhiều thơng tin hơn các cơng ty dịch vụ và cơng nghiệp. Ngồi ra, kết quả cho thấy
rằng các cơng ty Jordan có HĐQT có quyền sở hữu cao có xu hướng giữ mức độ CBTT thấp. Mặt khác, sự
hiện diện của các giám đốc nước ngồi trên diễn đàn dường như có ảnh hưởng tích cực đến mức độ CBTT
trong các cơng ty Jordan.
Khaldoon Albitar (2015) với nghiên cứu “Firm Characteristics, Governance Attributes and Corporate
Voluntary Disclosure: A Study of Jordanian Listed Companies” đã tập trung vào việc đo lường mức độ
công bố tự nguyện trong các báo cáo hàng năm của các công ty Jordan niêm yết tại Sở giao dịch chứng
khoán Amman (ASE). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng quy mô DN, địn bẩy, tuổi, khả năng sinh lời,
thanh khoản, quy mơ ủy ban kiểm tốn có mối quan hệ tích cực với mức độ công bố tự nguyện trong khi
giám đốc độc lập và cơ cấu sở hữu có mối quan hệ tiêu cực với mức độ công bố tự nguyện.
Nguyễn Thị Thanh Phương (2013) trong nghiên cứu “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khốn Thành
phố Hồ Chí Minh” đã mở rộng mơ hình nghiên cứu khi đưa ra các nhân tố thuộc về quản lý DN, cấu trúc
sở hữu và tính chất cơng ty. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố: quy mô doanh nghiệp; mức độ sinh
lời; thời gian niêm yết; kiểm toán độc lập; tỷ lệ sở hữu của cổ đơng nước ngồi có ảnh hưởng đến mức độ
CBTT của doanh nghiệp.

260


Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) trong nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự

nguyện của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả đã sử
dụng phương pháp kiểm định mơ hình hồi quy đa biến nhằm kiểm định mối liên hệ giữa các biến độc lập
đến biến phụ thuộc. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mơ cơng ty có ảnh hưởng đến mức độ CBTT; các
nhân tố cơng ty kiểm tốn, địn bẩy tài chính, quy mơ hội đồng quản trị, tỷ lệ thành viên khơng điều hành
trong HĐQT thì khơng ảnh hưởng đến mức độ CBTT.

2.2. Cơ sở lí thuyết
2.2.1 Khái niệm về CBTT
CBTT là việc tiết lộ tất cả các thơng tin có liên quan đến giao dịch kinh doanh của một tổ chức. Mục tiêu
của CBTT đầy đủ là để đảm bảo tính minh bạch giúp các nhà đầu tư khi họ tham gia vào thị trường chứng
khốn, vì vậy phải tiết lộ cả những thông tốt và thông tin xấu. Theo Gibbins Richardon và
Waterhouse (1990), tiết lộ là một quy định cơng khai, phát hành có chủ ý các thơng tin tài chính và phi tài
chính cho dù số lượng hay chất lượng theo yêu cầu hoặc tự nguyện, thơng qua các kênh chính thức hoặc
khơng chính thức.
Theo quan điểm của Bộ Tài Chính, CBTT được hiểu là phương thức để thực hiện quy trình minh bạch của
DN nhằm đảm bảo các cổ đông và công chúng đầu tư có thể tiếp cận thơng tin. Chúng ta thừa nhận minh
bạch thông tin “là sự công bố thông tin kịp thời và đáng tin cậy, nó cho phép những người sử dụng thơng
tin đó có thể đánh giá chính xác về tình hình và hiệu quả của một ngân hàng, hoạt động kinh doanh và rủi
ro liên quan đến các hoạt động này” (Theo International Finance Coporation, Public disclosure and
transparency, Yerevan, May 2006).
Cụ thể hơn, CBTT kế toán (Accounting Disclosures) là tồn bộ thơng tin được cung cấp thơng qua hệ
thống các BCTC của một công ty trong thời kỳ nhất định (bao gồm cả các báo cáo giữa niên độ và báo cáo
thường niên).
2.2.2. Các lý thuyết nền
Lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện cho rằng một DN không phải là thực thể thống nhất duy nhất. Lý thuyết này mô tả mối
quan hệ giữa các bên của DN như giữa người quản lý và các cổ đông, giữa các cổ đông và chủ nợ. Nhà
đầu tư uỷ thác việc ra quyết định, chiến lược và điều hành hoạt động cho các nhà quản lý, còn nhà quản lý
sẽ hành động và đưa ra quyết định tối đa hố giá trị cổ đơng và đảm bảo rằng các khoản nợ sẽ được hoàn
trả cho các chủ nợ. Nếu cả hai bên tối đa hố lợi ích thì nhà quản lý sẽ phải điều hành quản lý dưới sự

giám sát của cổ đông. Khi cả hai bên (bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm) đều muốn tối đa hóa lợi ích
của mình sẽ làm phát sinh chi phí ủy nhiệm (Agency cost). Chi phí ủy nhiệm là chi phí trả cho sự xung đột
lợi ích giữa hai bên bao gồm chi phí giám sát (Monitoring cost), chi phí liên kết (Bonding cost) và chi phí
khác (Residual cost). Theo lý thuyết này, mâu thuẫn giữa hai bên là rất đáng kể vì thường người điều hành
DN chỉ sở hữu một phần rất nhỏ cổ phần của DN. Sự xung đột sẽ tăng lên khi có thơng tin khơng đầy đủ
và không đối xứng giữa nhà đầu tư và người quản lý của DN. Vấn đề này có thể được hạn chế tối đa bằng
cách cung cấp nhiều thông tin.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng
Theo lý thuyết này, thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thơng tin hơn bên đối tác
hoặc có thơng tin nhưng thơng tin khơng chính xác. Điều này khiến cho bên có ít thơng tin có những quyết
định khơng chính xác khi thực hiện giao dịch, đồng thời bên có nhiều thơng tin sẽ có những hành vi gây
bất lợi cho bên kia khi thực hiện các giao dịch. Thơng tin bất cân xứng là tình trạng mà các bên tham gia
261


giao dịch khơng có được thơng tin như nhau, một bên tham gia giao dịch trên thị trường (ban điều hành
cơng ty, cổ đơng lớn) có nhiều thơng tin hơn, có thơng tin sớm hơn hoặc tiếp cận thơng tin dễ dàng hơn so
với các bên còn lại (các nhà đầu tư nhỏ lẻ). Thơng tin bất cân xứng chính là tình trạng thơng tin khơng đầy
đủ, khơng kịp thời, khơng tin cậy, khơng chính xác và khơng tạo điều kiện để tiếp cận dễ dàng đối với các
nhà đầu tư còn lại trên thị trường.

2.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến mức độ CBTT
Căn cứ vào cơ sở lí thuyết và kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố tác động đến mức độ CBTT
của các DNNY, các giả thuyết nghiên cứu được xây dựng như sau:
 Quy mô công ty (SIZE)
Theo lý thuyết đại diện, việc tách biệt vai trò người sở hữu và người trực tiếp quản lý sẽ dẫn đến một số
loại chi phí, gọi là chi phí ủy nhiệm bao gồm chi phí giám sát, chi phí liên kết và chi phí khác (Jensen và
Meckling,1976), người sở hữu muốn giảm các chi phi ủy nhiệm thì cần nhà quản lý CBTT nhiều hơn, các
cơng ty càng lớn thì thơng tin càng nhiều và yêu cầu thông tin từ người sở hữu cũng cao hơn.
Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) về các nhân tố ảnh hưởng CBTT trên BCTN ở Mỹ, Anh và các

nước Châu Âu thì quy mơ cơng ty là yếu tố quan trọng nhất giải thích cho CBTT, các cơng ty lớn thì
thường phức tạp hơn và có quy mơ sở hữu lớn nên có nhiều thơng tin cần phải công bố. Nghiên cứu của
Fathi (2013) tại Tunisian cũng cho thấy ảnh hưởng cùng chiều của quy mô công ty và mức độ CBTT.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) cũng cho thấy quy mô công ty là một trong những
biến giải thích cho CBTT. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đưa ra như sau:
Giả thuyết H1: Quy mơ cơng ty có tác động cùng chiều đến mức độ CBTT.
 Thời gian hoạt động của doanh nghiệp (AGE)
Theo lý thuyết thông tin bất cân xứng và các nghiên cứu trước thì thời gian hoạt động của DN có ảnh
hưởng đến mức độ CBTT. Nhiều nghiên cứu trước đã tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa thời gian
hoạt động của DN với mức độ CBTT. Hầu hết trong các nghiên cứu này, Thời gian hoạt động đều được
tính từ lúc DN bắt đầu niêm yết trên TTCK đến thời điểm nghiên cứu. Các DN có thời gian hoạt động
càng lâu thì việc lập và trình bày BCTC càng được cải thiện hơn vì chúng có nhiều điều kiện thực tế hơn
cho quá trình báo cáo như bộ máy kế tốn, khả năng áp dụng cơng nghệ thơng tin… Các DN có thời gian
hoạt động lâu dài có nhiều thành tựu để báo cáo nhằm tăng danh tiếng của nó, cịn các DN có thời gian
hoạt động cịn ngắn chưa có nhiều danh tiếng trên thị trường nên việc cơng bố nhiều thơng tin có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh của họ.
Nghiên cứu của Caferman và Cooke (2002) đã cho thấy rằng thời gian hoạt động của DN có tác động tích
cực đến mức độ CBTT. Ngược lại, nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đơng (2013) lại khơng tìm thấy mối
liên hệ giữa thời gian hoạt động và mức độ CBTT. Giả thuyết được đặt ra như sau:
Giả thuyết H2: DN có thời gian hoạt động càng lâu thì mức độ C TT càng cao.
 Thành phần Hội đồng quản trị (BGA)
Chức năng giám sát của HĐQT là cần thiết vì theo lý thuyết đại diện thì ln có sự mâu thuẫn về lợi ích
giữa một bên là các nhà đầu tư và một bên là các người quản lý. Để làm giảm mâu thuẫn này, HĐQT sẽ
thực hiện quyền lực của mình để theo dõi và kiểm sốt quản lý. Nếu các thành viên HĐQT đều giữ quyền
quản lý hoặc có mối quan hệ nhân thân, quyền sở hữu với công ty thì vai trị này sẽ bị hạn chế vì có khả
năng các thành viên HĐQT sẽ quản lý hoạt động của cơng ty theo hướng có lợi cho mình mà khơng có lợi
cho các cổ đơng khác. Do đó, luật về quản trị DN của các quốc gia thường có yêu cầu trong cơ cấu HĐQT
262



cơng ty phải có ít nhất 1/3 các thành viên HĐQT là độc lập, không tham gia điều hành hoạt động công ty.
Các thành viên này sẽ giám sát hoạt động của HĐQT, làm giảm nguy cơ lạm dụng quyền hạn, giúp bảo vệ
lợi ích chính đáng của các cổ đông.
Các nghiên cứu trước đo lường yếu tố này bằng cách so sánh tỷ lệ giữa số thành viên HĐQT không điều
hành với tổng số thành viên HĐQT. Mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ này được đưa ra bởi Chen và
Jaggi (2000), Hanifa và Cooke (2002). Còn ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Phương
(2013) lại cho thấy tỷ lệ thành viên HĐQT không tham gia điều hành có ảnh hưởng khơng đáng kể đến
mức độ CBTT. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đưa ra như sau:
Giả thuyết H3: DN có tỷ lệ thành viên HĐQT khơng tham gia điều hành càng lớn thì mức độ CBTT càng
cao.
 Tỷ lệ sở hữu nƣớc ngoài (FORE)
Theo lý thuyết thông tin bất cân xứng, các nhà đầu tư nước ngồi do có nhiều bất lợi như: khoảng cách địa
lý, khác biệt ngơn ngữ, văn hóa…nên tình trạng bất cân xứng thơng tin càng cao. Để giảm tình trạng này
thường các nhà đầu tư nước ngoài sẽ yêu cầu phía cơng ty cung cấp càng nhiều thơng tin càng tốt, bên
cạnh đó phát tín hiệu thể hiện thơng tin công bố là chất lượng và đáng tin cậy như: đã được kiểm tốn bởi
cơng ty kiểm tốn có uy tín, có tồn tại ban kiểm sốt, kiểm tốn nội bộ...
Có nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các cơng ty có vốn nước ngồi càng lớn thì CBTT càng nhiều. Barako
(2007) tìm thấy nhân tố tỷ lệ sở hữu nước ngoài là rất quan trọng đối với mức độ CBTT. Houssain & cộng
sự (1994) đã tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quyền sở hữu nước ngoài với việc CBTT của các cơng
ty tại Newzeland. Cịn ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Phương (2013) lại tìm thấy mối
quan hệ ngược chiều. Trong nghiên cứu của mình, tác giả cũng dự đốn tỷ lệ sở hữu nước ngồi có quan
hệ tích cực với mức độ CBTT.
Giả thuyết H4: DN có tỷ lệ quyền sở hữu nước ngồi càng cao thì mức độ CBTT càng cao.
 Chủ thể kiểm toán (AUDIT)
Kiểm toán là một phần bắt buộc trong BCTC của các DNNY. Nó là yếu tố quan trọng đảm bảo tính trung
thực và khách quan của các thơng tin tài chính, làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư và quản lý kinh
doanh. Để giảm thiểu các xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và các nhà đầu tư, lý thuyết đại diện cho rằng
kiểm tốn độc lập đóng một vai trị rất quan trọng. Cơng ty kiểm tốn lớn hoạt động như một cơ chế để
làm giảm chi phí đại diện và phát huy nhiều hơn vai trò giám sát bằng cách hạn chế hành vi cơ hội của nhà
quản lý (Jensen và Meckling, 1976).

Về quy mơ, cơng ty kiểm tốn được chia ra làm hai nhóm là nhóm các cơng ty kiểm tốn lớn và nhóm các
cơng ty kiểm tốn nhỏ. Nhóm cơng ty kiểm tốn lớn hay cịn gọi là nhóm Big Four hiện nay, bao gồm bốn
công ty là Deloitte Touche Tohmatsu (Deloitte), Ernst and Young (E&Y), KPMG và Price Waterhouse
Coopers (PWC). Các cơng ty kiểm tốn cịn lại được xếp vào các cơng ty kiểm tốn nhỏ. Bhayani (2012)
cho rằng các cơng ty kiểm tốn lớn quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ danh tiếng của mình do đó nó sẽ
đầu tư nhiều thời gian hơn cho việc kiểm tốn báo cáo của các DN. Nếu có rủi ro xảy ra trong việc kiểm
tốn, các cơng ty kiểm tốn lớn sẽ chịu thiệt hại nhiều hơn các cơng ty kiểm tốn nhỏ. Mặt khác các cơng
ty kiểm tốn nhỏ vì khơng có sức ảnh hưởng lớn đến mức độ CBTT của DN nên họ có xu hướng làm vừa
lòng khách hàng hơn là đặt chất lượng CBTT lên hàng đầu. Đối với các DN, việc lựa chọn các cơng ty
kiểm tốn lớn cũng là một cách để DN phát tín hiệu với các nhà đầu tư rằng nội dung của các thông tin mà
họ cung cấp đảm bảo tính minh bạch, khách quan và trung thực. Nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đơng
(2013) khơng tìm thấy mối liên hệ giữa chủ thể kiểm toán và mức độ CBTT.

263


Giả thuyết H5: DN được kiểm tốn bởi các cơng ty kiểm tốn thuộc nhóm Big Four sẽ có mức độ CBTT
nhiều hơn các DN khác .
 Khả năng sinh lời (ROA)
Khả năng sinh lời đo lường thành quả hoạt động của một DN. Thơng thường, các DN có lợi nhuận cao sẽ
muốn phát đi nhiều tín hiệu thơng qua việc CBTT để phân biệt với các DN có lợi nhuận thấp nhằm giúp
gia tăng giá trị cổ phiếu của họ. Ngoài ra, các DN hoạt động kém cũng sẽ CBTT nhiều thơng tin để giải
thích tại sao tình hình hoạt động của họ lại như vậy.
Để đo lường yếu tố này, các nghiên cứu trước sử dụng chỉ số ROA và ROE. Theo Lang và Lundholm
(1993) thì mối quan hệ này không rõ ràng và tuỳ thuộc vào mức độ sinh lời và bối cảnh thực tế của DN.
Việt Nam, nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đơng (2013) tìm thấy có mối quan hệ thuận chiều giữa khả năng
sinh lời và mức độ CBTT, còn nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Phương lại cho ra kết quả là một mối
quan hệ ngược chiều.
Giả thuyết H6: Khả năng sinh lời của DN có tác động cùng chiều đến mức độ CBTT.
 Khả năng thanh toán ( IQ)

Khả năng thanh toán hay cịn gọi là tính thanh khoản là khả năng đáp ứng tình hình nợ của DN trong ngắn
hạn. Tính thanh khoản được hiểu là việc chứng khoán hay các khoản nợ, các khoản phải thu có khả năng
chuyển đổi thành tiền dễ dàng, thuận tiện cho việc chi tiêu hay thanh tốn. Sự khó khăn trong chuyển đổi
để đáp ứng nghĩa vụ hiện tại của nó trong việc thanh tốn lãi và gốc cho các chủ nợ có khả năng dẫn DN
đến bờ vực phá sản. Thanh khoản là một đặc tính quan trọng của DN trong đó có ảnh hưởng lớn đến mức
độ CBTT. Một cơng ty có tính thanh khoản cao sẽ cơng bố nhiều thơng tin như là một cách phát thêm tín
hiệu tích cực cho các nhà đầu tư để tăng niềm tin của họ và ngược lại, một cơng ty có tính thanh khoản
thấp sẽ hạn chế việc CBTT để che giấu những thông tin yếu kém ra ngoài.
Trong các nghiên cứu trước đây, yếu tố này được xác định bằng cách sử dụng chỉ tiêu Hệ số thanh toán
hiện hành của các DN. Nandi và Ghosh (2012) đã tìm thấy mối quan hệ giữa tính thanh khoản và mức độ
CBTT. Cịn ở Việt Nam, nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đông (2013) lại khơng tìm thấy mối liên hệ giữa
tính thanh khoản và mức độ CBTT.
Giả thuyết H7: Khả năng thanh toán của DN có tác động cùng chiều đến mức độ CBTT.

3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đo lƣờng các biến trong mô hình
 Đo lƣờng biến phụ thuộc
Hầu hết các nghiên cứu về CBTT trước đây đều đưa ra một hệ thống các chỉ mục thơng tin để dựa vào đó
đo lường. Tuy nhiên, giữa các hệ thống này có sự khác biệt đáng kể. Ngoài nguyên nhân khách quan như
sự khác nhau về thời điểm, đặc điểm công bố từng quốc gia thì yếu tố chủ quan cũng là một trong những
nguyên nhân chính. Với mong muốn hạn chế tính chủ quan này, nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ mục
dựa theo yêu cầu về công bố trong các văn bản pháp luật một cách chặt chẽ nhất. Cụ thể: Luật kế toán
ngày 20/11/2015; Luật chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013; Thông tư 200/2014/TT-BTC
ngày 22/12/2014 về hướng dẫn chế độ kế tốn doanh nghiệp; Thơng tư 155/2015/TT-BTC ngày
06/10/2015 về CBTT trên TTCK. Có tất cả 160 chỉ mục được tác giả lựa chọn đưa vào Hệ thống chỉ mục.
Chỉ số CBTT được đo lường theo phương pháp không trọng số. Trong đó khoản mục được cơng bố gán
giá trị là “1”, không công bố gán giá trị là “0” và chỉ số CBTT được tính cho mỗi cơng ty theo cơng thức
sau:
264



nj

Ij 
Trong đó:

 dij
i 1

(1)

nj

Ij: Chỉ số cơng bố thơng tin của công ty j, 0≤ Ij ≤1;
dij Khoản mục thông tin i được công ty j công bố
n: Số lượng mục thông tin tối đa công bố (n≤ 160)

 Đo lƣờng biến độc lập

Nhân tố

Quy mô doanh nghiệp

=Ln (Tổng tài sản)

+

Caferman và Cooke (2002);
Phạm Thị Thu Đông (2013).


Khoảng thời gian từ khi DN
niêm yết lần đầu đến thời
điểm nghiên cứu.

+

Hanifa và Cooke (2002);
Nguyễn Thị Thanh Phương
(2013)

Số thành viên HĐQT
không điều hành/Tổng số
thành viên HĐQT

+

Barako (2007);

Tỷ lệ sở hữu cổ đơng nước
ngồi so với cổ đơng tồn
doanh nghiệp.

+

Biến giả: = 1 nếu cơng ty
kiểm tốn nằm trong nhóm
Phạm Thị Thu Đơng (2013) Big Four; = 0 nếu nằm
trong nhóm cịn lại

+


Lang và Lundholm (1993);
Phạm Thị Thu Đông (2013).

ROA = LN sau thuế / Tổng
tài sản

+

Nandi và Ghosh (2012);
Phạm Thị Thu Đông (2013).

LIQ = TS ngắn hạn /

Nguyễn Thị Thu Hảo
(2014)

Thời gian hoạt động
(AGE)

(BGA)
Tỷ lệ sở hữu nước ngoài
(FORE)
Các
Chủ thể kiểm toán
(AUDIT)

lập
Khả năng sinh lời
(ROA)

Khả năng thanh toán
(LIQ)

Đo lƣờng các biến

Meek và cộng sự (1995)

(SIZE)

Thành phần HĐQT

biến
độc

Nghiên cứu cơ sở

Chiều
ảnh
hƣởng

Nguyễn Thị Thanh Phương
(2013)
Sanjay Bhayani (2012);

Nợ ngắn hạn

+

3.2. Mơ hình hồi quy
Nghiên cứu tiến hành đo lường tác động của 7 nhân tố độc lập đến mức độ CBTT của các DNNY trên 2

Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) Tp.HCM và Hà Nội. Dựa trên các giả thuyết được đưa ra, mô hình
hồi quy tổng thể được đề nghị trong nghiên cứu này để kiểm định các giả thuyết nêu trên có dạng như sau:

265


Yˆ  ˆ0  ˆ1 X 1  ˆ2 X 2  ˆ3 X 3  ˆ4 X 4  ˆ5 X 5  ˆ6 X 6  ˆ7 X 7
Trong đó:
̂: mức độ CBTT của các DNNY trên 2 SGDCK Tp.HCM và Hà Nội.
1



7:

Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các DNNY trên 2 SGDCK Tp.HCM và
Hà Nội.

̂ : Ước lượng điểm của

(i=1…7).

3.3. Mẫu nghiên cứu và phƣơng pháp thu thập dữ liệu
3.3.1. Mẫu nghiên cứu
Tính tại ngày 31/12/2018, trên SGDCK Tp.HCM có 430 cổ phiếu cơng ty được niêm yết (trong đó số DN
thuộc ngành Bất động sản và xây dựng là 154), trên SGDCK Hà Nội có 419 cổ phiếu cơng ty được niêm
yết (trong đó số DN thuộc ngành Bất động sản và xây dựng là 123). Tác giả chọn mẫu theo công thức kinh
nghiệm của Nguyễn Đình Thọ (2012): n 50+ 8p; với n là kích thước mẫu tối thiểu cần thiết; p là số lượng
biến độc lập trong mơ hình nghiên cứu. Trong nghiên cứu này, p được xác định là 7 biến độc lập, như vậy
kích thước mẫu tối thiểu của nghiên cứu này là 106 quan sát.

Đối tượng của nghiên cứu tập trung vào BCTN năm 2017 của các DN thuộc ngành Bất động sản và xây
dựng niêm yết trên 2 SGDCK Tp.HCM và Hà Nội với các tiêu chí như sau: (1) BCTC thu thập là BCTC
đã được kiểm tốn; (2) Có đầy đủ bộ BCTC đồng thời phải có báo cáo của kiểm tốn độc lập k m theo để
xác minh mức độ trung thực của BCTC và nhận diện một số lỗi (nếu có) theo ý kiến của kiểm toán độc
lập.
Dựa vào yêu cầu của mẫu chọn, tác giả tiến hành chọn ngẫu nhiên 150 quan sát (thỏa điều kiện tối thiểu là
106 quan sát). Để đảm bảo tỷ lệ đồng đều của các quan sát giữa 2 SGDCK, tác giả chọn trên SGDCK
Tp.HCM 84 quan sát (tỷ lệ 56%), SGDCK Hà Nội 66 quan sát (tỷ lệ 44%).
3.3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Biến độc lập: Dữ liệu các biến độc lập được thu thập trên BCTN năm 2017 có đính k m các BCTC đã
được kiểm toán của 150 DNNY thuộc mẫu chọn (trong đó SGDCK Tp.HCM 84 DN tương ứng với 56%
và SGDCK Hà Nội 66 DN tương ứng với 44%).
Biến phụ thuộc: Dựa trên danh mục các thông tin cần công bố được xây dựng ở trên, tác giả đối chiếu với
BCTN để tính ra tổng số thơng tin cơng bố của công ty đã được chọn vào mẫu nghiên cứu và tính ra mức
độ CBTT của từng cơng ty tương ứng.

4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Kết quả nghiên cứu
Mức độ CBTT của các công ty Bất động sản và xây dựng hiện nay là chưa đồng đều, cơng ty có mức độ
CBTT thấp nhất là 64%, và cao nhất cũng đã ở mức 98%, mức độ CBTT trung bình đạt 85,67%.

266


Bảng 1. Thống kê mô tả mức độ công bố thông tin
Số quan sát
Mức độ CBTT

Giá trị nhỏ
nhất


150

Giá trị nhỏ nhất

.64

Giá trị trung bình

.98

.8567

Độ lệch
chuẩn
0.6216

Nguồn: Phụ lục kết quả nghiên cứu

Nhằm xem xét đặc tính của các biến độc lập, tìm mối quan hệ giữa các biến này thơng qua suy diễn thống
kê, tác giả trình bày Bảng thống kê mơ tả biến độc lập. Bảng này trình bày giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất
và giá trị trung bình cùng với độ lệch chuẩn của từng biến độc lập.
Bảng 2. Thống kê mô tả biến độc lập

Giá trị nhỏ
nhất

Giá trị lớn
nhất


Giá trị
trung bình

11.28

13.88

12.0929

.53059

Thời gian hoạt động (AGE)

1.00

13.00

4.9200

2.64644

Thành phần HĐQT (BGA)

.00

.90

.2617

.32525


Tỷ lệ sở hữu nước ngoài (FORE)

.00

49.00

15.3761

15.78247

Chủ thể kiểm tốn (AUDIT)

.00

1.00

.6000

.49237

-20.79

29.89

3.9871

7.73919

.29


229.78

4.5886

22.87815

Nhân tố
Quy mơ cơng ty (SIZE)

Khả năng sinh lời (ROA)
Khả năng thanh toán (LIQ)

Độ lệch
chuẩn

Nguồn: Phụ lục kết quả nghiên cứu

Trước khi đi vào kiểm định mơ hình bằng phân tích hồi quy tuyến tính, tác giả xem xét sự tương quan
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc để loại bớt các nhân tố xấu trước khi chạy hồi quy. Dưới đây, tác
giả trình bày bảng ma trận hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc CBTT và các biến độc lập SIZE; AGE;
BGA; FORE; AUDIT; ROA; LIQ. Hệ số này luôn nằm trong khoảng từ -1 đến 1, lấy giá trị tuyệt đối, nếu
từ 0,4 đến 0,6 thì biến độc lập và biến phụ thuộc có tương quan trung bình; lớn hơn 0,6 là tương quan chặt
chẽ và càng gần 1 thì mối quan hệ càng chặt, nếu nhỏ hơn 0,3 thì mối quan hệ là lỏng. Theo lý thuyết, nếu
sự tương quan giữa các biến độc lập không vượt quá 0.5 và những sự tương quan giữa biến phụ thuộc và
các biến độc lập lớn hơn các sự tương quan giữa các biến độc lập thì coi như khơng có sự tự tương quan
giữa các biến độc lập.
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan

SIZE


AGE

BGA

FORE

AUDIT

ROA

LIQ

SIZE

1,000

.538

.596

.520

.426

.266

.311

AGE


.538

1.000

.072

.099

.378

-.092

-.144

BGA

.596

.072

1.000

.165

.280

.188

-.128


FORE

.520

.099

.165

1.000

.196

.110

.008

AUDIT

.426

.378

.280

.196

1.000

.246


-.034

ROA

.266

-.092

.188

.110

.246

1,000

.027

LIQ

.311

-.144

-.128

.008

-.034


.027

1,000

Nguồn: Phụ lục kết quả nghiên cứu

267


Bảng dưới đây trình bày kết quả hồi quy với biến phụ thuộc là CBTT; các biến độc lập là SIZE; AGE;
BGA; FORE; AUDIT; ROA; LIQ
Bảng 4. Kết quả hồi quy đa biến

Hệ số

Hệ số

chưa chuẩn hóa

chuẩn hóa

Mơ hình
Sai số
chuẩn

B
(Hằng số)

.090


.135

SIZE

.053

.011

AGE

.008

BGA

Giá trị
tstat

Mức ý
nghĩa
(Sig.)

Beta

Thống kê
đa cộng tuyến
Dung sai
Tolerance

Hệ số

VIF

.664

.508

.411

4.775

.000

.776

1.289

.002

.309

3.768

.000

.853

1.173

.070


.017

.334

4.122

.000

.874

1.145

FORE

.000

.000

.093

.994

.323

.656

1.526

AUDIT


.058

.012

.419

4.738

.000

.736

1.360

ROA

8.716E-005

.001

.010

.123

.903

.882

1.134


LIQ

.001

.000

.180

2.318

.023

.951

1.051

R2

0.478

2

R hiệu chỉnh

0.432

Sig (F – statistic)
Durbin - Watson

0,000b

1,933
Nguồn: Phụ lục kết quả nghiên cứu

Kết quả hồi quy cho thấy hệ số VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 5 chứng tỏ mơ hình khơng có dấu hiệu
của hiện tượng đa cộng tuyến. Đồng thời giá trị của thống kê D (Durbin-Watson) bằng 1,933 nằm trong
miền khơng có hiện tượng tự tương quan. Ngoài ra, khi xét tstat và tα/2 của các biến để đo độ tin cậy thì các
biến độc lập: SIZE; AGE; BGA; AUDIT; LIQ đều đạt yêu cầu do tstat > 2 (nhỏ nhất là 2.318) và các giá
trị Sig. của các biến này đều thể hiện độ tin cậy khá cao, đều < 0.05 (lớn nhất là 0.023). Tuy nhiên, các
biến FORE; ROA lại không đạt ở cả hai tiêu chuẩn: tstat và Sig. của các biến này đều > 0.05, thể hiện độ tin
cậy kém nên bị loại ra khỏi mơ hình vì khơng có ý nghĩa thống kê. Như vậy, kết quả chỉ ra SIZE; AGE;
BGA; AUDIT; LIQ thỏa mãn tất cả các giả định cho mơ hình hồi quy, do đó có thể dùng để giải thích cho
sự tác động của các nhân tố đến mức độ CBTT của các DN Bất động sản và xây dựng niêm yết trên 2 Sở
giao dịch chứng khoán Tp.HCM và Hà Nội.
Mơ hình hồi quy có dạng như sau:
CBTT = 0.419*AUDIT + 0.411*SIZE + 0.334*BGA + 0.309*AGE + 0.018*LIQ

4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu đã tìm ra 5 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của các DN Bất động sản và xây
dựng niêm yết trên 2 Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM và Hà Nội gồm: Chủ thể kiểm tốn; Quy mơ
doanh nghiệp; Thành phần HĐQT; Thời gian hoạt động; Khả năng thanh tốn. Ngồi ra, 2 nhân tố Tỷ lệ
sở hữu nước ngồi và Khả năng sinh lời khơng có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ CBTT. Kết quả kiểm
định sự phù hợp của mơ hình trong nghiên cứu này là 43.2%. Điều này được hiểu rằng 43.2% mức độ
268


CBTT của các DN Bất động sản và xây dựng niêm yết trên 2 SGDCK Tp.HCM và Hà Nội được giải thích
bằng các biến độc lập trong mơ hình nghiên cứu, 56.8% mức độ CBTT của các DN Bất động sản và xây
dựng niêm yết trên 2 SGDCK Tp.HCM và Hà Nội cịn lại được giải thích bằng các nhân tố khác không
được đề cập đến trong nghiên cứu này.
Tỷ lệ sở hữu nƣớc ngoài: Với yếu tố tỷ lệ sở hữu nước ngồi, có thể giải thích nó theo hướng có sự khác

biệt về u cầu thơng tin kế tốn. Nhà đầu tư nước ngồi mong muốn BCTC được trình bày theo IFRS
thay vì VAS do đó họ khơng quan tâm lắm về BCTC. Đối với các đối tượng này, các doanh nghiệp có xu
hướng cung cấp thơng tin qua các kênh khác ngoài BCTC. Điều này ngược lại với kết quả nghiên cứu của
Hanifa và Cooke (2002), Sartawi và cộng sự (2012), còn trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Phương
(2013) lại cho ra mối quan hệ ngược chiều.
Khả năng sinh lời: Với yếu tố Khả năng sinh lời thì vì hệ số ROA này dùng để đo lường hiệu quả việc sử
dụng tài sản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ số ROA thường có sự chênh lệch giữa các
ngành với nhau. Đối với ngành Bất động sản xây dựng địi hỏi phải có đầu tư lớn vào dây chuyền sản xuất,
máy móc thiết bị, cơng nghệ … nên thường có hệ số ROA nhỏ hơn so với hệ số ROA của các ngành
thương mại, dịch vụ. Vì vậy theo cảm nhận của nhà đầu tư thì hệ số ROA khơng được quan tâm khi xem
xét đến mức độ CBTT. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Lê Trường Vinh (2008). Còn trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Phương (2013) lại tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều giữa ROA
và mức độ CBTT, trong khi đó nghiên cứu của Phạm Thị Thu Đông (2013) lại là một mối quan hệ thuận
chiều.
Chủ thể kiểm toán Đây là yếu tố quan trọng đảm bảo tính khách quan trung thực của BCTC. Trong mơ
hình nghiên cứu này, nhân tố Chủ thể kiểm tốn có ảnh hưởng cùng chiều đến mức độ CBTT. Điều này
được giải thích rằng, các cơng ty kiểm tốn lớn có xu hướng đầu tư thời gian nhiều hơn cho việc kiểm
tốn BCTC để bảo vệ danh tiếng của mình, do đó nó sẽ u cầu các DN phải cơng bố đầy đủ các thơng tin
hơn dù đó là thơng tin xấu. Mặt khác các cơng ty kiểm tốn nhỏ để làm vừa lịng khách hàng nên có xu
hướng khơng đặt chất lượng CBTT lên hàng đầu. Đối với các DN, việc lựa chọn các cơng ty kiểm tốn lớn
là một cách để họ phát tín hiệu đến các nhà đầu tư rằng thông tin mà họ công bố đảm bảo tính minh bạch,
khách quan, trung thực và chính xác. Kết luận này là phù hợp với nghiên cứu của Bhayani (2012) và của
Nguyễn Thị Thanh Phương (2013).
Quy mô doanh nghiệp: Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô DN càng lớn thì mức độ CBTT càng cao,
kết quả này là hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hảo (2014), như vậy DN có quy
mơ lớn thì áp lực về cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư cũng sẽ cao. Điều này được giải thích rằng các
cơng ty lớn có nhu cầu cơng khai thơng tin ra cơng chúng cao hơn bởi chứng khốn của họ thường được
phân phối thông qua một mạng lưới trao đổi đa dạng hơn nên họ nhận thức được những lợi ích tiềm năng
của việc cơng bố thêm thơng tin để gia tăng sự tin tưởng của các cổ đông và thu hút nhiều nhà đầu tư mới.
Thành phần HĐQT: Theo kết quả nghiên cứu thì cơng ty có tỷ lệ thành viên HĐQT khơng điều hành

càng cao thì mức độ CBTT càng cao. Điều này là hoàn toàn phù hợp với sự giải thích của lý thuyết đại diện
về mức độ CBTT của các công ty, cũng như kết quả nghiên cứu của những tác giả như Kelton & Yang (2008),
Sweiti & Atayah (2013). Sự hiện diện của các thành viên HĐQT khơng điều hành rất quan trọng, vì họ là
người đóng góp các kinh nghiệm của mình cho cơng ty và bảo vệ lợi ích tổng thể của cơng ty đối với hành vi
mang tính cơ hội tiềm tàng mà chỉ mang lại lợi ích cho một số ít cổ đông, thành phần này sẽ hành động tạo nên
những ảnh hưởng tích cực đến các thảo luận và quyết định của thành viên HĐQT tham gia điều hành hay Ban
Giám đốc.
Thời gian hoạt động: Theo kết quả kiểm định mơ hình, các DN có thời gian hoạt động càng lâu thì mức
độ CBTT càng cao. Lý do là vì các cơng ty hoạt động lâu dài có cơ hội để cải thiện các điều kiện cho quá
269


trình báo cáo như bộ máy kế tốn, trình độ áp dụng cơng nghệ thơng tin và các chi phí liên quan đến việc
trình bày BCTC. Ngồi ra, khi hoạt động lâu dài, họ càng có nhiều thành tựu để báo cáo nhằm tăng danh
tiếng trên thị trường. Mặt khác, các công ty mới ra đời sau chịu áp lực cạnh tranh nhiều hơn từ các đối thủ
trên thị trường, do đó họ có xu hướng che dấu những thơng tin có ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh
tranh của họ trên thị trường. Kết luận này là phù hợp với nghiên cứu của Caferman và Cooke (2002).
Khả năng thanh toán: Theo kết quả nghiên cứu, nhân tố Khả năng thanh tốn có ảnh hưởng tích cực đến
mức độ CBTT. Điều này có thể giải thích là các doanh nghiệp có khả năng thanh tốn cao, hợp lý sẽ
CBTT nhiều để thu hút nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng thơng tin cịn các cơng ty có tính thanh khoản
thấp thường hạn chế trong việc CBTT để che giấu những yếu kém của mình. Kết luận này là phù hợp với
lý thuyết tín hiệu và kết quả nghiên cứu của Nandi và Ghosh (2012).

5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Thơng qua việc tìm hiểu cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước liên quan đến đề tài về mức độ
CBTT của các DNNY, tác giả đề xuất mơ hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT của
các DN thuộc ngành Bất động sản và xây dựng niêm yết trên 2 SGDCK Tp.HCM và Hà Nội bao gồm 5
nhân tố: Chủ thể kiểm tốn; Quy mơ doanh nghiệp; Thành phần HĐQT; Thời gian hoạt động; Khả năng
thanh toán. Dựa vào mơ hình nghiên cứu, tác giả đã thu thập dữ liệu của 150 CTNY trên 2 SGDCK

Tp.HCM và Hà Nội, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, những dữ liệu đã được mã hóa sẽ nhập
vào phần mềm xử lí dữ liệu SPSS để thống kê mơ tả các biến, sau đó tiến hành chạy hồi quy theo phương
pháp bình phương tối thiểu để kiểm định mơ hình, đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động
đến mức độ CBTT của các DN thuộc ngành Bất động sản và xây dựng niêm yết trên 2 SGDCK Tp.HCM
và Hà Nội.
Nghiên cứu này cũng có những hạn chế nhất định: dữ liệu chỉ được nghiên cứu ở năm tài chính 2017 nên
có thể chưa phản ảnh hết các biến động của từng nhân tố trong mẫu, các nghiên cứu sau có thể lấy số liệu
trong nhiều năm liên tiếp; hạn chế về việc xây dựng mơ hình nghiên cứu: mức độ CBTT được nghiên cứu
rất nhiều ở các nước phát triển và có nhiều nhân tố khác nhau tác động đến điều này, tuy nhiên nghiên cứu
này chỉ đề cập đến 07 nhân tố Quy mô doanh nghiệp; Thời gian hoạt động; Thành phần HĐQT; Tỷ lệ sở
hữu nước ngồi; Chủ thể kiểm tốn; Khả năng sinh lời; Khả năng thanh toán với mức độ phù hợp của mơ
hình là 43.2%. Đây là mặt hạn chế lớn của nghiên cứu, hy vọng trong các nghiên cứu tiếp theo sẽ sẽ xây
dựng được mơ hình nghiên cứu phù hợp hơn.

5.2. Kiến nghị và gợi ý chính sách
Kết quả cho thấy các cơng ty được kiểm tốn bởi nhóm Big Four có mức độ CBTT cao hơn. Báo cáo kiểm
tốn do các cơng ty kiểm tốn thuộc nhóm này phát hành sẽ thỏa mãn tính khách quan và làm tăng độ tin
cậy vào ý kiến kiểm toán của những người sử dụng hơn là báo cáo kiểm toán của các cơng ty kiểm tốn
khác. Đối với các DN, đây cũng là cách để họ phát tín hiệu đến các nhà đầu tư rằng nội dung của các
thơng tin mà mình cung cấp đảm bảo tính minh bạch, khách quan và trung thực. Những cơng ty nhỏ có xu
hướng mở rộng công ty cần quan tâm đến nâng cao mức độ CBTT, cả thông tin bắt buộc và thông tin tự
nguyện, cần xây dựng bộ máy kế toán hướng đến việc ghi nhận, theo dõi, thu thập dữ liệu phục vụ cho
công tác CBTT dưới sự hướng dẫn của ban lãnh đạo công ty, đồng thời cần nâng cao nhận thức của những
đối tượng liên quan đến việc CBTT, đặc biệt là đối với ban lãnh đạo và đội ngũ kế tốn cơng ty. Việc am
hiểu về các quy định hiện hành về CBTT là nền tảng cho quá trình xây dựng công tác thu thập và cung cấp
thông tin. Từ dấu hiệu nhận thấy ở kết quả nghiên cứu, các cơng ty có thành viên HĐQT khơng tham gia
điều hành cao; thời gian hoạt động lâu; khả năng thanh toán tốt thường cơng bố nhiều thơng tin hơn, vì
270



vậy có thể gia tăng các chỉ tiêu này nhằm nâng cao mức độ CBTT của các công ty. Các công ty cần nhận
thức tầm quan trọng của CBTT từ đó mới thể hiện sự quan tâm và hành động CBTT, từ đó đáp ứng tốt
hơn nhu cầu thơng tin của nhà đầu tư, xã hội, các bên liên quan khác. SGDCK có thể hướng đến các cơng
ty có mức CBTT còn thấp để tăng cường các lớp đào tạo, huấn luyện, trước tiên là nâng cao nhận thức của
công ty, đặc biệt là bộ phận kế toán trong vấn đề CBTT, đào tạo về cách thức, yêu cầu công bố và các quy
định hiện hành.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Aljifri và Alzarouni (2013) The association between firm characteristics and corporate financial
disclosures: evidence from UAE companies. The International Journal of Business and Finance
research, Vol 8, No.2.

[2]

Caferman and Terence E.Cooke (2002) An Analys of Diclosure in the Annual reports of U.K and
Dutch Companies. Journal of International Accounting Research.

[3]

Iaad I. S. Mustafa Sartawi, Riyad M. Hindawi, Ruba Bsoul, Ala'eddin Jamil Ali (2014) Board
Composition, Firm Characteristics, and Voluntary Disclosure: The Case of Jordanian Firms Listed
on the Amman Stock Exchange. International Business Research.

[4]

Khaldoon Albitar (2015) Firm Characteristics, Governance Attributes and Corporate Voluntary
Disclosure: A Study of Jordanian Listed Companies. Journal of Accounting Research.


[5]

Lang, Lundholm (1993) Cross-sectional determinants of analyst ratings of corporate disclosure.
Journal of Accounting Research.

[6]

Meek, G.K., Roberts, C.B, & Gray, S.J. (1995) Factors influencing voluntary annual report
disclosure U.S., U.K., and continental European multinational corporations. Journal of International
Business Studies.

[7]

Nguyễn Thị Thanh Phương (2013) Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin
trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM. Luận
văn Thạc sỹ, Đại học Đà Nẵng.

[8]

Nguyễn Đình Thọ (2012) Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Nhà xuất bản Lao
đông – Xã hôi.

[9]

Nguyễn Thị Thu Hảo (2014) Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của
các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE. Tạp chí phát triển Kinh tế, 26(11), 99-115.

[10] Nandi and Ghosh (2012) Corporate governance attributes, film characteristics and the level of
corporate disclosure: Evidence from the Indian listed firms. Decision Science letters 2.
[11] Phạm Thị Thu Đông (2013) Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong

báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Luận văn
Thạc sỹ, Đại học Đà Nẵng.
[12] Jensen, W. H. Meckling (1976) Theory of the firms: Managerial Behaviour, Agency Cost and
Ownership Structure. Journal of Financial Economics.
[13] Sanjay Bhayani (2012) The relationship between comprehensiveness of Corporate disclosure anh
firm characteristics in India. Asia-Pacific Finace and Accounting Review, Vol 1, No.1.

271



×