Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Những thách thức khi áp dụng IFRS tại Việt Nam và yêu cầu đặt ra cho các trường đại học, các tổ chức nghề nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.78 KB, 6 trang )

n trị - Kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ë ViÖt Nam
NHỮNG THÁCH THỨC KHI ÁP DỤNG IFRS TẠI VIỆT NAM
VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CÁC TỔ CHỨC NGHỀ NGHIỆP

#Ths. NCS Nguyễn Ngọc Lan - Ths. Nguyễn Thị Cúc
Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp
Áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) trên thế giới đang ngày càng trở
nên phổ biến. IFRS mang lại những lợi ích to lớn trong việc nâng cao tính minh bạch của
thơng tin kế tốn, góp phần tạo ra ngơn ngữ kế tốn mang tính tồn cầu. Tuy nhiên, q
trình áp dụng IFRS của các quốc gia trên thế giới cũng gặp không ít khó khăn. Những
khó khăn, thách thức ấy lại càng lớn hơn đối với một quốc gia đang phát triển như Việt
Nam. Chính vì thế, để thực hiện được quyết tâm, nỗ lực tiến tới vận dụng IFRS trong giai
đoạn 2017 – 2020 của Chính phủ Việt Nam, thì cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực kế
toán cần phải có bước chuyển mình thật sự. Từ đó, đặt ra yêu cầu đổi mới công tác đào
tạo, cập nhật kiến thức của các trường Đại học và các Tổ chức nghề nghiệp kế tốn của
Việt Nam.
Từ khóa: IFRS, Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế; nhân lực kế tốn, tổ chức
nghề nghiệp kế toán.
Những thách thức khi áp dụng IFRS
Việt Nam là quốc gia đang hội nhập sâu sắc với nền kinh tế thế giới và khu vực. Hệ
thống kế tốn Việt Nam đã từng bước hồn thiện phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy
nhiên,Việt Nam vẫn là quốc gia đang áp dụng hệ thống chuẩn mực kế tốn nội địa trong khi
đã có hơn 130 quốc gia cam kết IFRS là hệ thống chuẩn mực toàn cầu. Đứng trước xu thế đó
thì việc tiến tới sử dụng IFRS tại Việt Nam là vấn đề tất yếu.
Ngoài sức ép của xu thế áp dụng IFRS trên thế giới, thì Việt Nam cũng đã nhận thức
được lợi ích của việc vận dụng IFRS trong việc nâng cao chất lượng thơng tin. Áp dụng IFRS
góp phần cải thiện chất lượng, tính minh bạch và tính so sánh của báo cáo tài chính. Đối với
các doanh nghiệp, việc áp dụng IFRS sẽ làm tăng cường sự tin cậy của các nhà đầu tư, dẫn
đến góp phần nâng cao khả năng huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài. Ngoài ra,
việc áp dụng IFRS sẽ làm giảm sự điều tiết thu nhập, ghi nhận các khoản thiệt hại kịp thời
hơn và thơng tin kế tốn có giá trị phù hợp hơn. Việc áp dụng IFRS giúp các nhà đầu tư tiết


kiêm chi phí phân tích và xử lý thơng tin; có thể dễ dàng nắm bắt được sức khỏe tài chính của
các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn để có các quyết định đầu tư nhanh chóng.
Với cộng đồng nghề nghiệp kế tốn và kiểm tốn thì việc được trang bị kiến thức nghề nghiệp
được công nhận toàn cầu sẽ gia tăng cơ hội nghề nghiệp và vị thế.
Phát triển kế toán hướng về IFRS là điều tất yếu trong bối cảnh tồn cầu hóa và đặc
biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập TPP. Tuy nhiên, tham gia q trình hội tụ kế tốn quốc
tế khơng phải là vấn đề dễ dàng cho các quốc gia. Khó khăn, thách thức đó lại càng lớn hơn
đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những rào cản về mặt pháp lý, về văn hóa, về
268


n trị - Kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ë ViƯt Nam
mơi trường kinh doanh, về ngơn ngữ đã trực triếp áp lực lên Chính phủ, các doanh nghiệp, lao
động trong lĩnh vực kế toán và các cơ sở đào tạo, hội nghề nghiệp kế tốn. Trong đó, những
thách thức lớn mà Việt Nam gặp phải trong tiến trình cải cách kế tốn theo hướng IFRS trên
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, hiểu biết và kinh nghiệm về IFRS tại Việt Nam vẫn còn rất hạn chế, đây
được coi là một trong những thách thức lớn. Cho đến nay, việc hiểu biết và vận dụng chuẩn
mực kế toán Việt Nam vẫn cịn nhiều bất cập, chưa nói đến về kiến thức và kinh nghiệm về
IFRS. Theo nghiên cứu, tại Việt Nam mới chỉ có 4 ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ
chức tín dụng Việt Nam (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Á Châu, tập đoàn Bảo Việt) là áp dụng IFRS
trong việc lập BCTC. Duy nhất có 1 tổ chức phi tín dụng là Vingroup Joint Stock
Company cơng b ố thông tin BCTC theo cả VAS và IFRS. Đây là một con số còn hết
sức khiêm tốn.
Thứ hai, mức độ phức tạp của IFRS tương đối cao. IFRS được sử dụng chủ yếu
cho các công ty đại chúng, các cơng ty có quy mơ lớn, bàn nhiều về các nghiệp vụ kinh
tế phức tạp, như các nghiệp vụ phái sinh và kế tốn phịng ngừa rủi ro; kế toán theo
phương pháp mua, bao gồm cả sự nhận dạng và đo lường tài sản vơ hình tách biệt, kiểm
tra giảm giá trị của tài sản. Các thuật ngữ trong IFRS cịn gây nhiều khó hiểu, hướng

dẫn một cách tổng qt, theo các ngun tắc chung nhất. Do đó, địi hỏi người đọc và
hiểu IFRS nói riêng và người làm kế toán phải hiểu theo nguyên tắc, bản chất của
nghiệp vụ kinh tế hơn là học thuộc các quy tắc ghi chép.
Thứ ba, hạn chế trong công tác hướng dẫn sử dụng IFRS từ các Tổ chức nghề
nghiệp kế toán. Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của nghề nghiệp kế tốn, kiểm tốn đã
hình thành các tổ chức nghề nghiệp như Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, Hội Kiểm
toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), Hội tư vấn thuế Việt Nam, Hiệp hội các nhà đầu
tư tài chính Việt Nam, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, Hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán
Việt Nam... Bên cạnh đó, tại Việt Nam cũng có các văn phịng đại hiện của các tổ chức
nghề nghiệp quốc tế như: Hội Kế tốn cơng chứng Anh quốc, Hội Kế tốn viên cơng chứng
Australia, Viện Kế tốn Cơng chứng Anh và xứ Wales... Trong đó, các tổ chức nghề nghiệp
chưa có chương trình đào tạo IFRS một cách có hệ thống; có chăng chỉ là chương trình đào
tạo với số lượng học viên còn rất mỏng. Các tổ chức nghề nghiệp chưa có sự phổ biến tích
cực và hỗ trợ hướng dẫn thường xuyên IFRS.
Thứ tư, những rào cản, khó khăn về yếu tố ngoại ngữ. IFRS do được biên soạn
bằng tiếng Anh; trong khi đó khả năng đọc, hiểu bằng ngơn ngữ này của Việt Nam cịn
hết sức hạn chế. Theo đánh giá, trình độ tiếng Anh của người Việt Nam nói chung và lao
động hành nghề kế tốn nói riêng chỉ ở mức trung bình và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến
việc vận dụng IFRS tại Việt Nam.
Thứ năm, nguồn nhân lực kế toán kế cận chưa được đào tạo về IFRS. Việt Nam có
hơn 300 trường Đại học và Cao đẳng có đào tạo về kế tốn theo các hệ đại học, cao học và
nghiên cứu sinh. Mặc dù, phương pháp cũng như nội dung đào tạo của các trường đào tạo kế
269


n trị - Kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ë ViƯt Nam
tốn ln được thay đổi và ngày càng hồn thiện song rất ít trường đại học, cao đẳng giảng
dạy hướng về vận dụng IFRS. Gần như, việc dạy và học kế toán tại các trường Đại học và
Cao đẳng, chủ yếu là các quy tắc ghi chép mà không quan tâm nhiều đến các chuẩn mực dựa
trên các nguyên tắc cũng như khả năng phán xét, suy luận của một kế tốn viên.

Ngồi ra, việc áp dụng IFRS cịn gặp khơng ít khó khăn xuất phát từ cơ sở hạ tầng
thơng tin cịn hạn chế, chi phí áp dụng phương pháp kế tốn theo IAS/IFRS (chi phí thu thập
thông tin định giá tài sản vận hành hệ thống đánh giá …) có thể lớn hơn lợi ích mang lại;
nhiều doanh nghiệp (doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường
chứng khốn….) chưa có nhu cầu sử dụng. Thói quen của người Việt Nam là thận trọng, ngại
rủi ro nên ngại thay đổi.
Với những thách thức đó, Việt Nam cần phải xây dựng lộ trình phù hợp và chủ động
chuẩn bị các nguồn lực cần thiết cho việc áp dụng IFRS trong thời gian tới một cách có hiệu
quả. Việc tiến tới áp dụng IFRS tại Việt Nam phải được đi cùng với kế hoạch đào tạo kế toán
– một vấn đề được coi là chìa khóa cho sự thành cơng trong q trình hướng về IFRS.
Yêu cầu đặt ra cho các trường đại học, các tổ chức và hội nghề nghiệp
Với trọng trách đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực kế toán, trong thời gian qua các
trường Đại học và các Tổ chức nghề nghiệp kế tốn đã có đóng góp to lớn cho sự phát triển
của hoạt động kế toán Việt Nam. Tuy nhiên, một thực tế trong công tác đào tạo kế tốn đó
chính là chất lượng chưa cao. Tại Việt Nam, chưa có trường đại học nào được được xếp hạng
về kế toán theo QS World University ranking; số lượng sinh viên ra trường hàng năm rất lớn
nhưng tỷ lệ thất nghiệp cao; chưa có Chương trình đào tạo kế tốn có bao gồm IFRS và số
lượng hội viên của các tổ chức nghề nghiệp kế tốn quốc tế cịn chưa nhiều. Thực trạng
nguồn nhân lực kế toán thể hiện bảng sau:
Bảng 1: Nguồn nhân lực kế toán ở Việt Nam
Tiêu chí
Số lượng kế tốn chun nghiệp (*)
u cầu về đào tạo
Yêu cầu sát hạch để được công nhận
Yêu cầu về số năm kinh nghiệm để được công nhận
Yêu cầu về tham gia chương trình phát triển nghề nghiệp (CPE)

Việt Nam
9.350
Tốt nghiệp đại học


5
40/1

Nguồn: World Bank, 2014 (*) Số lượng nằm trong tổ chức nghề nghiệp quốc gia, không bao gồm những
người có chứng chỉ nghề nghiệp nước ngồi.

Chính vì thế, cơ hội tìm kiếm việc làm ở các quốc gia phát triển như Singapore, Thái
Lan... hay cạnh tranh với lao động nước ngồi tại chính thị trường lao động Việt Nam trở
nên khó khăn hơn bao giờ hết khi mà hướng về IFRS là xu hướng của cả thế giới. Bởi vậy,
công tác đào tạo và bồi dưỡng nhân lực kế toán, kiểm toán của các trường Đại học và các Tổ
chức nghề nghiệp ở Việt Nam cần có sự đổi mới, chuyển mình thật sự.
270


n trị - Kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ë ViÖt Nam
Các trường Đại học phải thay đổi cách thức tiếp cận trong học tập và giảng dạy kế
toán, phải theo hướng dạy và học theo nguyên tắc chứ không phải theo “cách ghi chép” như
lâu nay. Trong xu thế IFRS được thiết kế theo nguyên tắc và có sự thay đổi liên tục cũng như
sự phức tạp của hoạt động kinh tế thì việc giảng dạy kế tốn theo cách ghi chép là khơng phù
hợp. Theo đó, nội dung và chương trình giảng dạy cần được thiết kế bao gồm các học phần
về Chuẩn mực kế toán Việt Nam và tiến tới IFRS cả về lý thuyết và thực hành. Người dạy kế
toán phải thay đổi cách thức giảng dạy kế toán theo phương pháp dựa trên các nguyên tắc,
tăng khả năng phán xét, đánh giá nghề nghiệp. Cần tập trung giảng dạy các khái niệm cơ bản
thay vì các quy tắc, giúp cho sinh viên có khả năng phát hiện và tự tìm ra các giải pháp mà
khơng phải thơng qua việc học thuộc lịng các quy tắc và bút toán hạch toán kế toán. Cần
phải thay đổi phương pháp kiểm tra và đánh giá theo hướng suy luận bản chất của vấn đề,
kiểm tra khả năng xét đoán của một người hành nghề kế toán chứ khơng phải là kiểm tra việc
định khoản kế tốn. Trong giảng dạy cần khơi dậy sự sáng tạo của người học và khuyến
khích người học đưa ra quan điểm xử lý của mình.

Các trường Đại học cần thường xuyên kết hợp với doanh nghiệp và các Hiệp hội
nghề nghiệp để tạo ra môi trường trải nghiệm, nắm bắt thực tế cho sinh viên chun ngành
kế tốn, kiểm tốn. Ngồi ra, các cơ sở đào tạo phải khẩn trương nâng cao nhận thức cho
sinh viên về yêu cầu phát triển kế tốn hướng về IFRS; từ đó giúp người học có tâm lý sẵn
sàng chuẩn bị cho hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kế toán. Với kỹ năng ngoại ngữ, Nhà
trường cần đưa ra tiêu chuẩn tiếng Anh để xét điều kiện tốt nghiệp của sinh viên cũng như
tuyển dụng giáo viên. Đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành cần được chú trọng để có thể hiểu
và vận dụng IFRS một cách tốt nhất.
Các Hiệp hội nghề nghiệp cũng như các trường đại học cần phải có chương trình
khẩn trương giảng dạy về IFRS. Các Hiệp hội nghề nghiệp cần có sự hỗ trợ đối với các
trường đại học trong việc nghiên cứu về IFRS và xây dựng lộ trình giảng dạy hướng về IFRS
thông qua việc tổ chức các lớp đào tạo cho các giảng viên các trường đại học, tổ chức các
cuộc hội thảo về IFRS. Từ đó sẽ tiến tới nhân rộng việc giảng dạy IFRS cho các đối tượng
khác nhau (sinh viên, doanh nghiệp, các nhà đầu tư…)
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo phải xây dựng tài liệu giảng dạy một cách phù hợp.
Tài liệu giảng dạy có thể sử dụng nội dung các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS) bao
gồm cả bản tiếng Anh và dịch ra tiếng Việt đồng thời xây dựng cả các tài liệu giảng dạy lý
thuyết và thực hành kế toán. Các tài liệu cần được biên soạn dễ hiểu để đảm bảo người học
và người dạy dễ tiếp cận. Các tài liệu về IFRS cần phải được đăng tải trên phương tiện
truyền thông đại chúng; cung cấp miễn phí cho người học.
Người giảng dạy cần phải khơng ngừng rèn luyện và tích lũy kiến thức, đặc biệt là
kiến thức về IFRS thông qua việc học tập và bồi dưỡng nâng cao trình độ; tích cực nghiên
cứu IFRS và sáng tạo hơn trong giảng dạy; hướng người học phát triển cả kiến thức và kỹ
năng, khả năng đánh giá và khả năng xử lý vấn đề. Đặc biệt, cần sớm có các nghiên cứu về
các phương pháp giảng dạy IFRS, nguồn tài liệu giảng dạy, đánh giá sinh viên trong việc
hiểu và vận dụng IFRS.
Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
271



n trị - Kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ë ViƯt Nam
những người làm nghề kế tốn và kiểm tốn tại Việt Nam, cần phải tích cực trong việc tham
gia với các cơ quan chức năng Nhà nước trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản
pháp luật về Tài chính, Kế tốn, Kiểm tốn và cụ thể hóa, hướng dẫn các chính sách, chế độ
kế tốn, kiểm toán; tổ chức và tham gia nghiên cứu khoa học về Tài chính, Kế tốn và Kiểm
tốn; tư vấn, và giám định xã hội đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
có liên quan đến lĩnh vực Tài chính, Kế tốn, Kiểm tốn khi có u cầu; tổ chức thơng tin,
cập nhật kiến thức cho Hội viên; tập hợp, đoàn kết , giúp đỡ Hội viên nâng cao năng lực
cơng tác, trình độ chun mơn, nghiệp vụ Tài chính, Kế tốn, Kiểm tốn. Hội cũng cần tích
cực tham gia và đóng góp ý kiến trong việc xây Chiến lược phát triển hệ thống Kế tốn,
Kiểm tốn Việt Nam; phối hợp chủ trì nhiều cuộc hội thảo Kế toán hướng tới IFRS.
Để nâng cao nhận thức về xu thế hội tụ kế toán cũng như giúp Việt Nam xây dựng
được lộ trình tiến tới vận dụng IFRS, VAA cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc hội thảo bàn
về vấn đề này. Bên cạnh đó, Hội cần tổ chức nhiều khóa huấn luyện cập nhật kiến thức về
Chuẩn mực kế toán Việt Nam, về kinh nghiệm vận dụng IFRS trên quốc tế cũng như những
vấn đề cần chuẩn bị để Việt Nam áp dụng IFRS cho các hội viên, cho các trường Đại học
thông qua hội thảo, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ tài liệu, các cơng trình nghiên cứu
hướng về IFRS. VAA cần tích cực hơn nữa trong việc giúp đỡ, tạo điều kiện cho người
giảng dạy có cơ hội nhiều hơn trong việc nghiên cứu về IFRS thông qua các khóa đào tạo
ngắn, tập huấn cho giảng viên các trường Đại học, tham gia tọa đàm và tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu IFRS cho sinh viên, tổ chức các chương trình hội thảo, cung cấp và hướng dẫn sử
dụng tài liệu về IFRS, thông dịch các tài liệu IFRS tiếng nước ngoài ra tiếng Việt, cập nhật
thường xuyên sự thay đổi của IFRS.
Ngoài ra, Hội cần đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa cơng tác tư vấn nghề
nghiệp, phản biện; nâng cao tiêu chuẩn để cấp chứng chỉ hành nghề tiến tới tiêu chuẩn quốc
tế. Phải xây dựng kế hoạch tổng thể và toàn diện về việc đào tạo, bồi dưỡng nhằm cập nhật
kiến thức về IFRS như: việc xây dựng chương trình giảng dạy IFRS và tổ chức thi, cấp
chứng chỉ cho những người tham gia học tập. Hội cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền
quảng bá nhằm giới thiệu về Hội, liên kết với các tổ chức nghề nghiệp quốc tế, tham gia đầy
đủ các hoạt động, diễn đàn của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế và khu vực từ đó nâng cao

hơn nữa vị thế của Hội trong và ngoài nước.
Kết luận
Lợi ích của việc vận dụng IFRS cũng như xu thế chung của các quốc gia trên thế giới
trong việc áp dụng IFRS đã đặt ra yêu cầu Việt Nam phải tích cực, khẩn trương chuẩn bị về
mọi mặt để tiến tới áp dụng IFRS trong thời gian sắp tới. Chính vì thế, rất nhiều u cầu đã
đặt ra cho các trường Đại học và Hiệp hội nghề nghiệp kế tốn của Việt Nam trong cơng tác
đào tạo và cập nhật kiến thức IFRS, tạo được bước đà quan trọng góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực kế tốn trước thềm vận dụng IFRS tại Việt Nam.
---------------------------

272


n trị - Kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ë ViÖt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Adams H. A. & Đ. Thị Linh (2004), Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam: Dự định và mục tiêu so với chuẩn
mực kế toán quốc tế:ACW.
2. Hà Thị Ngọc Hà (2016), Kế toán Việt Nam trong điều kiện hội nhập TPP và AEC, Kỷ yếu hội thảo quốc gia –
Đại học Kinh tế quốc dân
3.Vũ Hữu Đức (2016), Năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực kế toán – nghiên cứu so sánh Singapore và
Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc gia – Đại học Kinh tế quốc dân
4. Pham Hoai Huong (2010), De-jure convergence between Vietnamese and international accounting
standards.Journal of Science and technology (in Vietnamese)(40),155-164.
5. />6. />7. />
273



×