Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân chấn thương xương thái dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.31 KB, 28 trang )

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG - CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN
CHẤN THƯƠNG XƯƠNG THÁI DƯƠNG

TÓM TẮT
Mở đầu: Xương thái dương là xương phức tạp. Các tổn thương quan trọng
sau chấn thương xương thái dương bao gồm giảm thính lực, tổn thương thần
kinh mặt và chảy dịch não tủy.
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của chấn thương
xương thái dương.
Phương pháp: Nghiên cứu các dấu hiệu lâm sàng và phân loại kiểu gãy
xương thái dương được thực hiện trên 42 bệnh nhân. Phân tích mối liên quan
giữa giảm thính lực, liệt mặt, chảy dịch não tủy với kiểu gãy xương theo 2
hệ thống: hệ thống phân loại cổ điển (gãy dọc, gãy ngang hay gãy hỗn hợp)
và hệ thống phân loại mới hơn (có hay không có tổn thương mê đạo xương).
Kết quả: Giảm thính lực gặp trong 14 bệnh nhân (33,3%), liệt mặt ở 11 bệnh
nhân (26,2%), chảy dịch não tủy ở 2 bệnh nhân (4,8%). Hệ thống phân loại
cổ điển không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với giảm thính lực, liệt
mặt và chảy dịch não tủy. Trong khi đó, hệ thống phân loại dựa theo tổn
thương mê đạo xương có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (P<0,001).
Kết luận: Biểu hiện của chấn thương xương thái dương rất đa dạng. Hệ
thống phân loại dựa trên tình trạng có hay không có tổn thương mê đạo
xương đưa ra tiên lượng lâm sàng tốt hơn so với hệ thống phân loại gãy dọc,
gãy ngang hay gãy hỗn hợp.
ABSTRACT
CLINICAL AND PARACLINICAL STUDIES OF PATIENTS WITH
TEMPORAL BONE TRAUMA BEING CURRED IN 115 PEOPLE’S
HOSPITAL
Nguyen Minh Tuan, Tran Thi Bich Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 275 -
283
Background: The temporal bone is the complex bone. Important damages of


temporal bone fractures include hearing loss, facial nerve injury, and
cerebrospinal fluid leak.
Objectives: Clinical and paraclinical studies of temporal bone trauma.
Methods: The clinical studies and classification of temporal bone fractures
were carried out on 42 patients. To analyze the correlations of hearing loss,
facial nerve injury, and cerebrospinal fluid leak with the types of fractures
based on 2 systems: the traditional system (transverse vs longitudinal vs
mixed) and the newer system (otic capsule violating vs otic capsule sparing).
Results: Hearing loss was present in 14 patients (33.3%); facial nerve injury
in 11 patients (26.2%) and cerebrospinal fluid leak in 2 patients (4.8%). The
traditional classification system of temporal bone fractures did not
significantly predict hearing loss, facial nerve injury, and cerebrospinal fluid
leak. On the other hand, the otic capsule-based system demonstrated
statistically significant predictive ability (P<0.001).

Conclusions: Outcomes of temporal bone trauma were diversiform. The otic
capsule-based system demonstrated statistically significant predictive ability
for clinical outcomes associated of temporal bone fractures.
MỞ ĐẦU
Xương thái dương là xương phức tạp nhất trong hệ thống xương của người.
Xương thái dương chứa nhiều cấu trúc sống còn như cơ quan tiền đình - ốc
tai, thần kinh mặt, động mạch cảnh trong và tĩnh mạch cảnh. Các tổn thương
quan trọng sau chấn thương xương thái dương bao gồm giảm thính lực, tổn
thương thần kinh mặt, chảy dịch não tủy …(24).
Phân loại kiểu gãy xương thái dương cũng rất quan trọng. Một hệ thống
phân loại tốt không chỉ mô tả về mặt giải phẫu mà còn phải hữu ích trong
việc dự đoán biến chứng và hậu quả của gãy xương(14). Ulrich là người đầu
tiên đưa ra cách phân loại gãy xương thái dương thành gãy dọc, gãy ngang
và gãy hỗn hợp(15). Hệ thống phân loại cổ điển này phân loại kiểu gãy
xương dựa trên mối liên hệ giữa đường gãy và trục dọc của phần đá xương

thái dương(8,16,24). Gãy dọc thường gặp nhất, chiếm 70-90% các trường
hợp, đường gãy đi dọc theo chiều dài xương đá. Gãy ngang có đường gãy
cắt ngang xương đá, chiếm khoảng 10-20%. Gãy hỗn hợp là các trường hợp
phối hợp cả 2 kiểu, gãy dọc và gãy ngang. Tuy nhiên, cách phân loại này tỏ
ra liên quan một cách nghèo nàn đến triệu chứng lâm sàng. Do đó một số
nhà nghiên cứu đề nghị các cách phân loại khác, hy vọng có thể đưa ra tiên
lượng của chấn thương. Hệ thống phân loại theo Aubry và Pialoux chia gãy
xương thái dương thành 2 nhóm: nhóm có chấn thương mê đạo xương và
nhóm không có chấn thương mê đạo xương (25). Theo một số nghiên cứu,
hệ thống phân loại này cho thấy có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
kiểu gãy xương với sự xuất hiện các triệu chứng quan trọng của gãy xương
thái dương như liệt mặt, chảy dịch não tủy, điếc (14, 15).
Trong đa số các trường hợp, chấn thương xương thái dương thường đi kèm
với các chấn thương nặng của cơ thể hoặc/và chấn thương đầu. Do đó, bệnh
nhân thường được tiếp nhận và xử trí ban đầu tại phòng cấp cứu. Việc xử trí
ban đầu rất quan trọng và đóng góp đáng kể vào việc xử trí sau đó và cải
thiện chức năng.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tình hình chấn thương, đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của
bệnh nhân chấn thương xương thái dương điều trị tại Bệnh Viện Nhân Dân
115 từ 10/2007 đến 06/2008.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu.
Đây là nghiên cứu tiền cứu mô tả cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu.
Là 42 bệnh nhân chấn thương xương thái dương điều trị tại Bệnh Viện Nhân
Dân 115 từ 10/2007 đến 06/2008.
Tiêu chuẩn nhận vào
- Bệnh nhân chấn thương xương thái dương trên phim CT, điều trị tại Bệnh
Viện Nhân Dân 115.

- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân bị liệt mặt, bị điếc trước chấn thương.
- Bệnh nhân có bệnh lý hoặc u bướu vùng tai phát hiện trên CT hoặc MRI.
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu được khám và ghi nhận các biểu hiện
lâm sàng: giảm thính lực, tổn thương thần kinh mặt, chảy dịch não tủy,
chóng mặt, thủng màng nhĩ, tụ máu sau màng nhĩ, chảy máu qua ống tai
ngoài, dấu tụ máu vùng xương chũm (beattle’s sign), dấu mắt kính râm
(raccoon eyes). Phân tích hình ảnh CT scan và phân loại kiểu gãy xương thái
dương theo 2 hệ thống: hệ thống phân loại gãy dọc, gãy ngang hoặc gãy kết
hợp và hệ thống phân loại có hoặc không có tổn thương mê đạo xương.
Kiểm chứng mối liên quan giữa các biểu hiện giảm thính lực, liệt mặt, chảy
dịch não tủy với 2 hệ thống phân loại nêu trên.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1 trình bày đặc điểm của các bệnh nhân chấn thương xương thái dương
trong nghiên cứu. Trong 42 bệnh nhân, có 38 bệnh nhân nam và chỉ có 4
bệnh nhân nữ (nam giới chiếm 90,5%). Tuổi nhỏ nhất của các bệnh nhân là
12 tuổi, tuổi lớn nhất là 52 tuổi. Bệnh nhân trong độ tuổi 18-30 tuổi chiếm tỉ
lệ cao nhất (57,1%). Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 28,7 tuổi. Thời
gian nằm viện trung bình của mỗi bệnh nhân là 12,5 ngày (ngắn nhất là 5
ngày và dài nhất là 26 ngày). Nguyên nhân gây chấn thương xương thái
dương chủ yếu trong nghiên cứu là tai nạn giao thông, chiếm 37/42 các
trường hợp (88,1%). Trong số 37 bệnh nhân chấn thương xương thái dương
do tai nạn giao thông, có 3 bệnh nhân đi bộ và 34 bệnh nhân sử dụng xe gắn
máy. Trong nhóm bệnh nhân sử dụng xe gắn máy, có 23/34 trường hợp
không đội nón bảo hiểm khi tham gia giao thông (chiếm 67,6% các trường
hợp). Đánh giá tình trạng tri giác vào thời điểm nhập viện, chúng tôi ghi
nhận có 24 bệnh nhân tỉnh táo, 5 bệnh nhân hôn mê và 13 bệnh nhân say

rượu, chiếm tỉ lệ lần lượt 57,1%; 11,9% và 31%. Trong số 42 bệnh nhân, có
29 trường hợp gãy xương thái dương phải (69%), 7 trường hợp gãy bên trái
(16,7%) và 6 trường hợp gãy cả 2 bên( 14,3%).
Bảng 1. Đặc điểm của 42 bệnh nhân chấn thương xương thái dương.
Đặc điểm

Tần xuất

Tỉ lệ %
Giới tính

Nam

38

90,5
Nữ

4

9,5
Tuổi

< 18 tuổi

3

7,1
18-30 tuổi


24

57,1
31-43

8

19,1
>44 tuổi

7

16,7
Nguyên nhân

Tai nạn giao thông

37

88,1
Tai nạn lao động

2

4,8
Tai nạn sinh hoạt

3

7,1

Đội nón bảo hiểm *



11

32,4
Không

23

67,6
Thời gian nằm viện

<7 ngày

2

4,8
7-14 ngày

25

59,7
>14 ngày

15

35,7
* tính trên tổng số 34 bệnh nhân sử dụng xe gắn máy khi gặp tai nạn

Bảng 2 trình bày các đặc điểm lâm sàng của chấn thương xương thái dương
của các bệnh nhân trong nghiên cứu.
Trong 42 bệnh nhân, có 14 trường hợp giảm thính lực, 2 người không giảm
thính lực và 6 trường hợp tình trạng bệnh nhân không cho phép đánh giá
thính lực (4 bệnh nhân hôn mê nằm hồi sức và 2 bệnh nhân chấn thương
nặng không ngồi được). Số bệnh nhân giảm thính lực chiếm 33,3% các
trường hợp (14/42), trong đó có 5 bệnh nhân điếc dẫn truyền và 9 bệnh nhân
điếc tiếp nhận.

×