ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA MIDAZOLAM XỊT MŨI ĐỂ AN THẦN
BỆNH NHI TRONG NỘI SOI TAI MŨI HỌNG
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả an thần và sự an toàn khi dùng midazolam xịt
mũi trong nội soi Tai Mũi Họng trẻ em.
Phương pháp: Mô tả hàng loạt ca; 33 bệnh nhân tuổi từ 3-7 có biểu hiện lo âu,
không hợp tác được dùng midazolam xịt mũi liều 0,2 mg/kg. Mức độ an thần
(theo thang điểm Wilton), sinh hiệu được đánh giá trước và sau khi dùng thuốc.
Quá trình thực hiện thủ thuật cũng như thời gian đạt tác dụng, hồi tỉnh, tác dụng
ngoại ý được ghi nhận.
Kết quả: Mức an thần đạt độ 3 và 4 là 84,9% và 3%. Thời gian đạt tác dụng
trung bình 7,8 phút, hồi tỉnh 39 phút. Kết quả thực hiện thủ thuật được đánh giá
là tốt và rất tốt chiếm 30 ca (90,9%). Sinh hiệu giữ ổn định trước và sau dùng
thuốc, không có tác dụng ngoại ý nghiêm trọng nào xảy ra.
Kết luận: dùng midazolam xịt mũi cho thấy an toàn và có hiệu quả an thần,
hơn nữa nó còn làm tăng sự thành công của thủ thuật nội soi Tai Mũi Họng ở
trẻ từ 3-7 tuổi ít hợp tác
ABSTRACT
EVALUATE SEDATIVE EFFICACY OF INTRANASAL MIDAZOLAM
SPRAY IN ENT ENDOSCOPIC PROCEDURES IN CHILDREN.
Bui Minh Chau, Pham Kien Huu* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 –
Supplement of No 1 - 2009: 243 - 249
Objective: Evaluate sedative efficacy and safety of intranasal midazolam spray
in ENT endoscopic procedures in children.
Method: Case series study, in which a group of 33 uncooperative children aged
3 - 7 years were administered intranasal midazolam spray (0.2mg/kg). The
level of sedation (according to Wilton’s scale) and vital signs were documented
before and after administering midazolam. The process of procedures as well as
the onset and recovery time, the side effects were also assessed.
Result: Sedation level 3 and 4 were achieved in 84.9% and 3% of cases; Mean
onset time is 7.8 minutes; mean recovery time is 39 minutes. Result of
procedures were assessed as good and very good in 30 cases (90.9%). The vital
signs were stable. No major side effect was documented.
Conclusion: Intranasal midazolam spray has been proved its safe, effective
nature, and further more, it increases the success in ENT endoscopic
procedures in uncooperative children aged 3-7 years.
MỞ ĐẦU
Ngày nay, nội soi đã trở thành phương tiện rất hữu ích trong chẩn đoán và điều
trị bệnh lý TMH nhưng vẫn còn hạn chế khi triển khai cho trẻ em vì trẻ thường
sợ hãi, giãy giụa gây nhiều khó khăn khi soi, đặc biệt là soi bằng ống cứng. Để
giải quyết vấn đề này người ta sử dụng các biện pháp an thần dùng thuốc hay
không dùng thuốc giúp trẻ bớt lo âu và hợp tác hơn. Biện pháp không dùng
thuốc như thái độ thân thiện của nhân viên y tế, phòng làm thủ thuật trang trí
phù hợp với trẻ em, cho phép cha mẹ vào phòng làm thủ thuật. Tuy nhiên,
những biện pháp này không phải là giải pháp cho tất cả mọi đứa trẻ mà đôi khi
phải cần dùng đến thuốc để giúp trẻ an tâm hơn. Việc sử dụng thuốc an thần đã
được nghiên cứu, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực (chụp MRI, nội soi dạ dày,
khâu vết thương, lấy dị vật, một số thủ thuật nha khoa trẻ em, tiền mê…) với
nhiều loại thuốc khác nhau; trong đó thông dụng nhất là midazolam.
Midazolam thuộc nhóm Benzodiazepines, có tác dụng giảm lo âu, an thần, giãn
cơ, gây ngủ, quên thuận chiều…; được ưa chuộng do tác dụng nhanh, ngắn, an
toàn và có thể sử dụng nhiều đường khác nhau. Với mục đích giảm sợ hãi cho
trẻ em thì đường tiêm không thích hợp; thuốc có vị đắng khó uống, tác dụng
chậm; đường hậu môn khiến trẻ không thích, đường mũi cho tác dụng nhanh,
độ khả dụng sinh học cao 57%
(Error! Reference source not found.)
và cũng dễ sử dụng.
Năm 1988, Wilton là người đầu tiên dùng midazolam nhỏ mũi để tiền mê cho
trẻ từ 2-5 tuổi, sau đó có khá nhiều nghiên cứu ứng dụng phương pháp này cho
thấy có hiệu quả an thần và an toàn. Ở Việt Nam midazolam được dùng rộng
rãi trong tiền mê dưới dạng chích, uống, đôi khi nhỏ mũi cho trẻ em nhưng
chưa có nghiên cứu nào đánh giá kết quả và nhất là chưa ứng dụng trong TMH.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục đích đánh giá hiệu quả an
thần và sự an toàn của midazolam xịt mũi để áp dụng cho nội soi TMH ở
những trẻ ít hợp tác, góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ từ 3-7 tuổi đến khám tại BVĐHYD cơ sở 1, từ 02-06/2008, có chỉ định nội
soi TMH
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Trẻ có một trong những biểu hiện lo lắng, phản đối (theo thang điểm Fishbein);
người giám hộ đồng ý sử dụng thuốc
Tiêu chuẩn loại trừ
Xếp loại ASA độ III trở lên; suy hô hấp; bất thường về đường thở; đang dùng
thuốc an thần khác; bệnh lý thần kinh-cơ; dị ứng midazolam; nghẹt mũi hoàn
toàn, u bướu che lấp cửa mũi hoặc dị vật bít kín 2 mũi; xịt thuốc không đạt; cha
mẹ không đồng ý hợp tác.
Phương tiện nghiên cứu
Dụng cụ khám và nội soi TMH ống cứng, máy đo HA và SpO
2
, midazolam
(5mg/ml), dụng cụ xịt thuốc (MAD: Mucosal Atomization Device), phương
tiện hồi sức cấp cứu.
Các bước tiến hành
Đánh giá bước đầu
Hỏi bệnh sử, tiền sử, cân nặng, đánh giá mức độ an thần và hành vi phản đối,
trấn an trẻ và cha mẹ, đo sinh hiệu (M, HA, NT, SpO
2
), trẻ nhịn ăn uống 2 giờ
trước khi dùng thuốc
Độ an thần chia 5 mức theo Wilton:
1- kích động, đeo bám cha mẹ, khóc to.
2- tỉnh táo, nhận thức được, không đeo bám cha mẹ, có thể rên rỉ nhưng không
khóc.
3- điềm tĩnh, nằm hoặc ngồi thoải mái, mắt mở tự nhiên.
4- buồn ngủ, nằm hoặc ngồi thoải mái, mắt nhắm, nhưng đáp ứng với kích
thích nhẹ.
5- ngủ, mắt nhắm, đánh thức được nhưng không đáp ứng với kích thích nhẹ
Xịt thuốc
Liều 0,2 mg/kg, rút thuốc vào ống tiêm rồi bỏ kim, lắp đầu xịt vào, trẻ ngồi
trong lòng người thân, dụng cụ ôm vừa sát lỗ mũi, song song với sống mũi, xịt
đều và chậm cùng lúc 2 mũi. Thời gian đạt tác dụng tính từ lúc xịt thuốc đến
khi có một số biểu hiện như: ánh mắt trẻ bớt linh hoạt, đờ đẫn, nói hơi líu lưỡi,
mất đồng vận các cơ, ngồi không vững. Đo lại sinh hiệu
Tiến hành thủ thuật
Đối với nội soi mũi, chúng tôi dùng que gòn tẩm Xylometazoline 0,05% đặt
dọc theo cuốn mũi dưới 10 phút để giảm phù nề niêm mạc. Đánh giá mức độ
an thần, kết quả và thời gian thực hiện thủ thuật
Kết quả đánh giá 5 mức độ theo các tiêu chí sau :
1- Rất xấu: không thực hiện được, bé không chịu nằm xuống giường
2- Xấu: soi nửa chừng phải ngưng, bé nằm xuống giường nhưng giãy đạp mạnh
khó đưa ống soi vào
3- Trung bình: soi được nhưng phải có thêm người giữ chặt trẻ
4- Tốt: thực hiện trọn vẹn thủ thuật, không cần người giữ nhưng phải động viên
trẻ mới hợp tác tốt
5- Rất tốt: trẻ hoàn toàn hợp tác, thực hiện trọn vẹn, không gây sang chấn tai,
mũi; hình ảnh soi rõ, đẹp
Theo dõi sự hồi tỉnh
Sự hồi tỉnh tính từ lúc xịt thuốc đến khi bé có một số biểu hiện: ánh mắt linh
hoạt trở lại, đáp ứng lời nói tốt, có phản xạ ho, nuốt và tự đi được; sinh hiệu
nằm trong giới hạn bình thường
Xử lý số liệu
Dùng phần mềm SPSS 9.0
Kiểm định kết quả bằng phân tích ANOVA một chiều và ANOVA đo lường
lập lại
Hình 1:Thuốc và
dụng cụ xịt
Hình 2:Cách xịt
thuốc
KẾT QUẢ
Chúng tôi thực hiện 33 trẻ từ 3-7 tuổi, trung bình 5,18±1,24 tuổi; cân nặng
trung bình 18,8±3,6 kg (14-28kg); tỷ lệ nam/nữ là 24/9.
Thời gian đạt tác dụng 7,76±1,73 phút; thời gian hồi tỉnh 39±10,66 phút.
Bảng 1: mức độ an thần của bệnh nhi tại các thời điểm
Mức
độ an
thần
Khi
tiếp
xúc
Sau
khi
trấn an
Thuốc
đạt tác
dụng
Khi
làm
thủ
thuật
Hồi
tỉnh
1
7
(21,2%)
0 0
3
(9,1%)
0
2
26
(78,8%)
31
(93,9%)
2
(6,1%)
1
(3%)
32
(97%)
3 0
2
(6,1%)
30
(90,9%)
28
(84,9%)
1
(3%)
4 0 0
1
(3%)
1
(3%)
0