Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vị trí và vai trò của thương cảng Nước Mặn Thị Nại trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 2
Chương 1: NHỮNG YẾU TỐ HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG NƯỚC MẶN
1.1. Yếu tố địa lý:............................................................................................................... 3
1.1.1. Vị trí địa lí thương cảng Nước Mặn.....................................................................3
1.1.2. Địa hình khu vực thương cảng Nước Mặn:..........................................................5
1.2. Yếu tố lịch sử- xã hội:.................................................................................................6
1.3. Yếu tố kinh tế:.............................................................................................................7
Chương 2: VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO THƯƠNG CẢNG NƯỚC MẶN
2.1. Quang cảnh thương cảng Nước Mặn:........................................................................12
2.2. Hoạt động của thương cảng Nước Mặn:....................................................................13
2.3. Tác động của tự nhiên đối với sự suy tàn của thương cảng Nước Mặn:....................14
Chương 3: VỊ TRÍ HIỆN NAY VÀ DẤU VẾT CỊN LẠI CỦA THƯƠNG CẢNG
NƯỚC MẶN.
3.1. Vị trí hiện nay:..........................................................................................................16
3.2. Những dấu vết còn lại:..............................................................................................16
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................20

1


MỞ ĐẦU
Thương cảng Thị Nại đã từng là quốc cảng của vương quốc Champa trong một
khoảng thời gian dài từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, là một địa điểm quan trọng trong tuyến
hải thương của khu vực. Sau biến cố lịch sử năm 1471, Người Việt đã tiếp nhận truyền
thống hải thương, và tầm nhìn hướng biển của các cư dân vương quốc Champa xưa. Do
vậy đã diễn ra một q trình chuyển hóa từ thương cảng Chăm thành thương cảng của
người Việt trên khắp hệ thống thương cảng thuộc miền Trung miền Nam. Thương cảng
Thị Nại thời vương quốc Champa đã trở thành thương cảng Nước Mặn thời các chúa
Nguyễn Đàng Trong. Vị thế và vai trò của thương cảng Nước Mặn cũng đã có những thay


đổi đáng kể so với thương cảng Thị Nại thời vương quốc Champa.
Những nghiên cứu bước đầu của các nhà nghiên cứu đã cung cấp cho chúng ta
những nhận thức chung về q trình phát triển, vai trị và vị thế của thương cảng Nước
Mặn trong sự phát triển chung của xứ Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII. Cùng với Hội An,
Thanh Hà, thì Nước Mặn đã trở thành một trong những thương cảng quan trọng nhất, góp
phần vào sự hưng khởi của nền ngoại thương xứ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Việc
đặt Nước Mặn trong mối liên hệ giữa biển với lục địa, và trong hệ thống các thương cảng
ven biển sẽ làm nổi bật vai trò và vị thế của thương cảng này. Vậy từ đâu thương cảng
Nước Mặn lại có được vị trí quan trọng trong hệ thống cảng thị Đàng Trong và cho đến
nay thương cảng ấy cịn lại những dấu vết gì sau những thay đổi của thời gian. Dưới góc
nhìn của địa lí học, tơi xin trình bày đơi nét về những yếu tố hình thành nên và những dấu
vết còn lại của thương cảng Nước Mặn hiện nay.

2


Chương 1: NHỮNG YẾU TỐ HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG NƯỚC MẶN
1.1. Yếu tố địa lý:
1.1.1. Vị trí địa lí thương cảng Nước Mặn.
Nước Mặn là tên gọi của một thương cảng sông nằm bên đầm Thị Nại, cách thành
phố Quy Nhơn ngày nay khoảng 15 km về phía bắc, cách cửa Kẻ Thử 8 km về phía tây.
Nhưng khơng gian Nước Mặn đối với thương khách nước ngoài bao gồm cả đầm Thị Nại
và đôi khi chỉ cả vùng đất rộng lớn của phủ Quy Nhơn – vì đó là thương cảng chính của
phủ Quy Nhơn.
Nước Mặn nằm ở hạ lưu sông Côn, nơi tiếp giáp với biển Đông, khi xưa nơi đây
từng tồn tại thương cảng Thị Nại, là trung tâm kinh tế của vương quốc Chăm pa. Cảng
Thị Nại dần tàn lụi theo thời gian do chiến tranh và những thay đổi về địa chất để rồi
được thay thế bằng một cảng thị khác là Nước Mặn, mặc dù thương cảng này khơng đóng
vai trị quan trọng như Thị Nại trong hệ thống cảng biển Đàng Trong. Vì nằm ở vị trí hạ
lưu sơng nên cảng Nước Mặn tiếp nhận nguồn hàng từ khu vực Tây Nguyên và cũng là

cửa ngõ tiến ra biển của toàn bộ vùng cao nguyên phía Tây thời bấy giờ. Với đặc điểm
này, thương cảng Nước Mặn có thể được xem là điểm kết nối giữa biển và lục địa. Trong
chuyên luận Thuận Quảng và Bình Định trong cuộc xung đột vùng miền ở Việt Nam, GS
Keith W.Taylor cũng đã đặc biệt quan tâm tới vị thế của Bình Định nói chung, cũng như
vị thế đầu mối giao thương của thương cảng Nước Mặn đối với sự phát triển của xứ Đàng
Trong. “Đến những năm 1690, Bình Định đã trở thành trung tâm của một mạng lưới
giao thông và liên lạc kết nối trung tâm Thuận Quảng của Đàng Trong với đồng bằng
sông Mê Kơng … Một tính chất quan trọng khác của Bình Định là vị trí của nó như một
bến cuối của tuyến đường được đi lại nhiều dọc cao nguyên đến thung lũng Mê Kông,
băng qua An Khê, Play Ku, và đến sông Mê Kông ở Stung Treng ở nơi mà hiện nay là
phía Bắc Campuchia, nơi nó nối kết với mạng lưới giao thương tỏa ra từ
Ayudhaya/Băngkok. Thương mại di chuyển dọc tuyến đường này, nối Bình Định với
những mối quan tâm buôn bán của người Xiêm. Các dân tộc vùng cao và người Việt
3


tham gia vào hoạt động thương mại này, nhưng các cộng đồng người Hoa ở
Ayudhya/Bangkok và Qui Nhơn cung cấp vốn và các mối quan hệ để kích hoạt giao
thương. Qui Nhơn trở thành trung tâm thương mại quan trọng tại đầu mối của một cảng
biển lý tưởng, con đường phía tây qua núi, con đường phía Bắc đến Thuận Quảng, và
con đường phía nam tới đồng bằng sơng Mê Kơng”.1
Đồng thời, Nước Mặn nằm ở vị trí án ngữ trên tuyến đường hàng hải khu vực đi
qua biển Đông. Vì được bao bọc bởi những eo biển như: Malacca, Đài Loan, Lombok,…
nên biển Đơng đã hình thành nhiều tuyến đường hàng hải quốc tế. Nơi đây trở thành ngã
tư thông thương của các tuyến hàng hải thương mại quan trọng bởi đây là tuyến ngắn
nhất nối giữa Bắc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, châu Âu và châu Á, Trung Đơng
và châu Á. Trong đó, vùng biển của nước ta chính là nơi các tuyến hàng hải quan trọng
đó đi ngang qua. Đây là vị trí thuận lợi để hình thành và phát triển các thương cảng sầm
uất. Và ngay từ buổi đầu, người Chăm đã có tầm nhìn hướng biển khi mở nhiều cảng
biển, trong đó quan trọng nhất là Thị Nại. Đến đời các chúa Nguyễn là sự xuất hiện của

thương cảng Nước Mặn. Borry đã ghi lại con đường thương mại đó như sau: “Họ phải đi
qua tỉnh Ran Ran (Phú Yên), Pulucambi (Quy Nhơn) và vùng đá ngầm ở Pulusisi”2
Thương cảng Nước Mặn đã được ghi chép lại trong nhiều thư tịch cổ. Nước Mặn
được ghi trong Hồng Đức bản đồ là Nước Mặn hải mơn. Cịn giáo sĩ Alexandre de
Rhodes khi vẽ trên bản đồ đã phiên âm thành Nehorman. Nhiều nhà hàng hải phương Tây
trong q trình bn bán và du hành ở đây thì gọi tên cảng theo tên phủ Qui Nhơn là
Quingnin hay Pulucambi (người Bồ Đào Nha), Quy Nong (người Anh), Sintcheou hoặc
Chincheo (phiên âm theo tiếng Trung Quốc từ chữ Tân Châu). Trong các hồ sơ của công
ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) tên của cảng này là Quinam.3

1

Keith Taylor (2006), Thuận Quảng và Bình Định trong cuộc xung đột vùng miền ở Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay,
số 270, tr.8
2
Đỗ Bang (1993), Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỉ XVII- XVIII, Đại học Tổng hợp Hà Nội, tr. 27.
3

Theo Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng, Nxb. Thuận Hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, tr.153.

4


Cristophoro Borri vào đầu thế kỷ XVII đã đến và lưu lại tại Qui Nhơn trong một
thời gian, và điều này đã được ông ghi chép trong tác phẩm Xứ Đàng Trong năm
1621. Theo ghi chép của Borri thì Nước Mặn “là một địa điểm dài chừng hai dặm và
rộng tới một dặm rưỡi”.4
P. Poivre trong tập hồi ký của mình có viết “tại tỉnh Qui Nhơn có một thương
cảng khác gọi là Nước Mặn là một cảng tốt, an toàn được thương nhân lui tới nhiều
nhưng kém hơn Faifo, nhưng lại khơng thuận tiện vì q xa kinh thành mà các thuyền

trưởng thì nhất thiết phải đi đến kinh thành nhiều lần và phải đi ròng rã 6 ngày đường”5.
Theo cơng trình biên niên của Quốc sử qn triều Nguyễn – Đại Nam nhất thống
chí thì vùng Nước Mặn “ở phía đơng huyện Tuy Phước, rộng 197 trượng, thủy triều lên
sâu 4 trượng 7 thước, thủy triều xuống sâu 4 trượng 4 thước, thủ sở ở địa phận thôn Bình
Chính, có bảo đất, chu vi 48 trượng, 48 thước, cao 6 thước, mở một cửa, có một kì đì và
12 lỗ súng…”.6
1.1.2. Địa hình khu vực thương cảng Nước Mặn:
Địa hình vùng đất Bình Định giống như tồn thể khu vực Nam Trung Bộ, đều bị
chia cắt mạnh bởi những dãy núi đâm ngang ra biển, tạo thành những bức tường thàng
che chắn tự nhiên. Bên cạnh đó là một hệ thống sông nhỏ, dốc, chảy theo hướng Tây
Bắc- Đông Nam ra biển, tạo điều kiện cho giao thông đường thủy, đồng thời tạo ra những
đồng bằng màu mỡ nhưng nhỏ hẹp và bị chia cắt bởi các dãy núi. Cũng do bị chia cắt mà
các con sông thường đổ ra biển bằng nhiều cửa. Trong khi tại các cửa biển, đường bờ
biển tương đối khúc khuỷu tạo thành nhiều vũng vịnh kín gió, là nơi lý tưởng cho việc
neo đâu tàu thuyền, như: đầm Thị Nại, đầm Đề Gi, đầm Trà Ổ,…
Trong đó đầm Thị Nại đóng vai trị quan trọng trong việc tạo điều kiện hình thành
và phát triển thương cảng Thị Nại trước kia và thương cảng Nước Mặn sau này. Phía
4

C.Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb.Tp Hồ Chí Minh.
Đỗ Bang, Sđd, tr.154
6
Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, tr. 39- 40
5

5


Đơng có dãy núi Triều Châu kéo dài chạy từ Đơng Phù Cát vào phía Nam tạo thành bán
đảo Phương Mai. Đây chính là bức bình phong thiên tạo ngăn cách giữa biển với đất liền

tạo thành một vùng vịnh kín gió, vừa thơng ra biển vừa giao lưu với đất liền. Đó là đặc
điểm cơ bản và lí tưởng cho việc hình thành thương cảng Nước Mặn.
Nhà hàng hải Manguin từng ghi chép trong hải trình “ở bờ biển Việt Nam, Qui
Nhơn là vịnh được cấu tạo cho việc trú ẩn của tàu thuyền tốt nhất. Ở đó được thiết lập
cảng của kinh đơ Vijaya- Thi Nại chính trong sách sử ký viết “là thương cảng thứ nhất
của Champa”.7
Năm 1793, một đoàn sứ bộ người Anh đến Quy Nhơn đã ghi lại một chi tiết đáng
chú ý là “…ở phía bắc mũi Nạy (Varella) là Quin Nong (Qui Nhơn), nơi ghe tàu trong
vùng thường qua lại… Vùng biển này rất tốt. Nó là chỗ chắn tất cả các loại gió. Cũng có
một con lạch đi qua rất hẹp nên những con tàu muốn đi vào đầm phải chờ thủy triều
lên.”8.
1.2. Yếu tố lịch sử- xã hội:
Vào thời Champa, vùng đất Vijaya là nơi hình thành và chứng kiến sự phát triển
của một trong những thương cảng và quân cảng thời đó: cảng Thị Nại. Năm 1471, vua
Lê Thánh Tơng đưa quân đánh vào tận kinh đô Vijaya của Champa, sáp nhập vùng đất
này vào lãnh thổ Đại Việt. Khi chiếm được vùng đất từ Quảng Nam trở vào. Vua Lê
Thánh Tơng đã đặt phủ Hồi Nhơn gồm 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Để mở
mang vùng đất mới, vua Lê tăng cường nhân khẩu cho vùng đất mới bằng cách “tù nhân
bị tội lưu, ở châu gần thì xung làm quân vệ ở Thăng Hoa, ở châu ngồi thì xung làm
qn vệ ở Tư Nghĩa, ở châu xa thì xung làm qn vệ Hồi Nhân, những kẻ được tha tội
chết cũng xung làm quân vệ Hoài Nhân”9.

7

Đỗ Bang, Sđd, tr.172
Đỗ Bang, Sđd, tr.148
9
Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử kí tồn thư- tập II, Nxb Khoa học xã hội, tr. 577
8


6


Theo quá trình Nam tiến, cư dân Việt ngày càng xuất hiện nhiều hơn ở khu vực
này. Xung quanh đồn binh của quân đội vua Lê ở Gò Dinh và bờ Nam sơng Hà Bạc từu
An Hịa đến Kim Xun hình thành nhiều cụm dân cư mới, bao gồm cư dân Việt đến
cộng cư với người Chăm khai phá vùng đất mới chiếm đóng. Q trình di cư của người
Việt đến vùng đất Bình Định ngày nay chỉ thực sự đẩy mạnh vào thế XVI, XVII- thời kì
cai trị của các chúa Nguyễn.
Như vậy, khoảng cuối thế kỉ XV, người Việt bắt đầu đến định cư ở vùng đất Bình
Định tuy nhiên vẫn cịn ít, làng mạc thưa thớt nên chưa thể phát triển bn bán, hình
thành thương cảng thay thế cho Thị Nại đã suy tàn vì chiến tranh. Nhưng từ thế kỉ XVI,
cùng với sự xuất hiện của các chúa Nguyễn, lập ra đất Đàng Trong, thì vùng đất phủ Hoài
Nhân mới phát huy được những lợi thế của mình với vùng đồng bằng rộng, đất đai màu
mỡ, cửa biển lớn,…Nhờ đó mà lượng dân cư đến đây sinh sống ngày càng đông.
Các chúa Nguyễn đã nhận thấy được vị trí, tiềm năng kinh tế của vùng đất: vùng
giàu có về tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều tài nguyên chưa được khai phá cùng
với việc kế thừa truyền thống thương mại, tính hướng biển từ thời Champa do vị trí địa lí
thuận lợi cho việc phát triển thương nghiệp quốc tế, nằm ở trung điểm của một trong
những tuyến chính của hệ thống giao thương châu Á. Đó là điều kiện để Nước Mặn được
chú ý và đầu tư để trở thành một thương cảng có tiếng.
1.3. Yếu tố kinh tế:
Phủ Quy Nhơn là vùng đất có nhiều cửa biển, vùng biển giàu có về hải sản, phía
Bắc giáp với xứ Quảng Nam, phía Tây giáp với vùng cao nguyen rộng lớn, phía Nam
giáp với vùng Phú Yên, Bình Khang, Diên Khánh với nguồn tài nguyên và sản vật phong
phú. Điều đó trở thành nguồn lực nội sinh để thương cảng Nước Mặn có điều kiện hình
thành và phát triển.
Tiến sĩ khảo cổ học Lê Đình Phụng trong bài viết Thương cảng Nước Mặn (Quy
Nhơn)- Xứ Đàng Trong đã nhận định thương cảng Nước Mặn “nằm trên địa bàn một phủ
7



giàu có, gần các phủ Phú n, Bình Khang, Dinh Nha Trang, có nguồn hàng dồi dào từ
cao nguyên đổ về, cảng Nước Mặn có vai trị quan trọng trong giao lưu thương mại”10
Nguồn hàng hóa.
Phủ Quy Nhơn được xem là một trong những phủ giàu có nhất, tham gia vào cơ
cấu các mặt hàng khơng chỉ có các hàng hóa lâm thổ sản, mà cịn có hàng thủ cơng
nghiệp, nơng- ngư nghiệp, những đặc sản của vùng đất Bình Định.
Hàng hóa nơng nghiệp
Sự trù phú của vùng đất Bình Định đã tạo nên nguồn sản vật dồi dào với nhiều
giống cây khác nhau: lúa, lạc, mía, hồ tiêu, thuốc lá, trầu cau, dừa, … không những cung
cấp cho cư dân trong vùng mà cịn dùng bn bán, giao thương. Những loại nơng sản này
có nguồn gốc từ cả miền xi và miền ngược, được giao thương qua sơng Cơn.
Ngồi ra, nguồn lợi từ chăn ni cũng đáng góp đáng kể vào cơ cấu hàng hóa
bn bán, như. Gia súc và giá cầm ở đây khá nhiều, đáng kể nhất là trâu, ngựa. Lê Quý
Đôn cho biết các nhà dân đều có chăn ni, “các xứ Cị Đen, Kẻ Dã xứ Quy Nhơn thì sản
xuất ngựa, ngựa sinh trong hang núi, thành đàn hàng trăm, hàng ngàn con, có con cao
tới hai thước rưỡi, ba thước trở lên. Người đại phương tập dạy cho chở hàng hóa sang
phủ Phú Yên, cho đến đàn ba đi chơ buôn bán hay đi xa cũng cưỡi ngựa bình thường”.11
Hàng hóa thủ cơng nghiệp.
Vốn hình thành trên mảnh đất từng là kinh đơ của vương quốc Cham pa, lại có
thương cảng Thị Nại tồn tại trong vịng 5 thế kỉ nên hàng hóa thủ cơng nghiệp cũng mang
tính chất đặc trưng của vùng.
Sản phẩm gốm: với hai lò gồm nổi tiếng là gốm Gò Sành (từ thời Champa để lại)
và gốm chợ Gồm, các sản phẩm của khu vực này cũng khá phong phú và có giá trị.
10

Lê Đình Phụng (2007), Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVI-XVII, Nxb Thế giới, tr.583-592

11


Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa Thơng tin, tr. 433

8


Sản phẩm dệt: với nhiều làng dệt bên bờ sống Côn như: dệt Phú Phong, An Thái,
Phương Danh, … với kĩ thuật khung cửi thô sơ của người Việt và kĩ thuật dệt tinh xảo
của người Chăm giúp cho mặt hàng này khá đa dạng. Ở Bình Định cịn nổi tiếng với câu
ca dao:
“Con gái Phú Phong ngồi trong dệt lụa
Con gái Cây Dừa cấy lúc quanh năm”
Bên cạnh sản phẩm về dệt vải thì vùng đất này cịn nổi tiếng về các sản phẩm
khác như: chiếu, nón,…
Sản phẩm rèn đúc: các sản phẩm đa dạng của các lò rèn ở Đập Đá, Nhơn Phúc,…
được chuyển đi phục vụ như cầu khắp nơi từ Tây Nguyên vào đến các vùng đất xa hơn ở
phái Nam,…
Ngồi ra cịn có sản phẩm về xây dựng như việc khai thác đá ong, nấu vơi phục vụ
xây nhà, hay việc địng tàu thuyền gỗ đễn ra khơi của cư dân: Cẩm Thượng, Trường Úc,
Kiên Mỹ, Nhơn Thọ, Phú An,…
Hàng hóa từ biển:
Phủ Quy Nhơn có nhiều sơng, các đầm nước, lại thêm vùng biển rộng, nhiều hải
sản nên sản lượng rất phong phú. Thêm vào đó, trên các đảo ngồi khơi cịn có sản vataj
yến sào rất quý. Giáo sĩ Borri khi đến Nước Mặn vào thế kỉ XVII đã nói: “Người ta tìm
thấy được tổ này với số lượng khá lớn, chính tơi đã thấy 10 thuyền chở đầy tổ này thu
lượm được ở các mỏm đá trong khảong một ngàn thước”.12
Hàng lâm thổ sản: Phủ Quy Nhơn có nhiều loại gỗ quý, ngồi ra cịn có kì nam,
dầu rái, mật ong, ngà voi,…
Có thể nói, phủ Quy Nhơn có nguồn sản vật rất phong phú, đa dạng và có giá trị
xuất khẩu cao. Đánh giá về sự trù phú của phủ Quy Nhơn, Phan Huy Chú trong Lịch trều

12

Borri, Sđd, tr. 64

9


hiến chương loại chí đã viết: “Của cải trong phủ có phần đầy đủ, cùng với phủ Tư
Nghĩa, phủ Thang Hoa, đều gọi là hạt giàu có, Sản vật có nhiều như: trầm hương, sừng
tê, vàng bạc, sáp ong, đường, mật, dầu, sơn, cau tươi, hồ tiêu, cá, muối và các thứ gỗ đều
rất tốt, lúa gạo không biết bao nhiêu mà kể. Ngựa sinh ra ở trong hang núi, có từng đàn
cả trăm nghìn con. Núi sơng có nhiều phong cảnh…”13
Borri cũng nhận xét: “Các thương gia châu Âu đến đây bn bán cũng nói rằng
Xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Hoa mà chúng tôi biết là rất dồi dào về mọi
thứ”14. Chính sự dồi dào về nguồn hàng hóa và sản vật tự nhiên có giá trị đã thu hút nhiều
thương nhân, tàu buôn đến khu vực này.
Mạng lưới giao thơng
Mạng lưới giao thơng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền sản xuất
hàng hóa vì những nguồn hàng hóa khắp nơi đổ vào trung tâm cảng chính là nhờ những
tuyến giao thơng trọng yếu.
Giao thông đường bộ: đi qua khu vực phủ Quy Nhơn có hai con đường chính. Một
tuyến đường phía Bắc giáp Quảng Ngãi, phía Nam nối Phú Yên, nếu đi bộ phải mất 4
ngày đường, đây là một phần của Thiên lý lộ. Một con đường nữa là đường nối liền vùng
thượng đạo với đường Thiên lý lộ (về sau này trở thành Quốc lộ 19)- hành trình này đi
qua phủ Quy Nhơn mất khoảng 5 ngày rưỡi.15
Giao thông đường thủy: ở Quy Nhơn có nhiều con sơng đổ ra đầm Thị Nại: Côn
Giang, Lại Giang, Hà Thanh, La Tinh… nối liền các vùng núi- đồi- đồng bằng và duyên
hải rất thuận lợi cho việc đi lại và giao lưu hàng hóa giữa miền ngược và miền xi. Quy
Nhơn lại có ưu thế về đường biển với 134km bờ biển cùng nhiều cửa biển và đầm phá từ
thời là vùng đất của Champa, như: Đề Gi, Kẻ Thử, Thị Nại… với các đầm Nước Ngọt,

13

Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội.

14

Borri, Sđd, tr.36

15

Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 151- 152

10


Nước Mặn. Nhà hàng hải Maguin từng nhận định: Quy Nhơn là vịnh được cấu tạo cho
tầu thuyền trú ẩn một cách tốt nhất.
Điều kiện giao thông thuận lợi cho việc đi lại lẫn giao thương buôn bán. Vùng phủ
Quy Nhơn giàu sản vật, lại nằm dọc bờ biển cùng hệ thống sơng ngịi chằng chịt. Cho nên
nơi đây đã hình thành một thương cảng sầm uất vào thế kỉ XVI- XVIII, cảng Nước Mặn,
với nhiều hoạt động trao đổi bn bán tấp nập trong và ngồi nước.
Sơ kết:
Có thể thấy, nơi đây đã hội tụ được những điều kiện thuận lợi cả về địa lý lẫn lịch
sử- xã hội và kinh tế. Khi kinh tế khu vực đang phát triển, địi hỏi có một thương cảng để
thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán với các vùng khác, và với các thương nhân- thuyền
gia nước ngoài. Cộng với đặc điểm tự nhiên thuận lợi sẵn có của bờ biển Thị Nại, thương
cảng Nước Mặn đã hình thành và nhanh chóng trở thành trung tâm giao thương bn bán
của khơng chỉ với phủ Quy Nhơn mà cả vùng Tây Nguyên và khu vực lân cận.

11



Chương 2: VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO THƯƠNG CẢNG NƯỚC MẶN
2.1. Quang cảnh thương cảng Nước Mặn:
Trong sách “Xứ Đàng Trong năm 1621”, thừa sai người Bồ Đào Nha Cristophoro
Borri miêu tả cảng thị Nước Mặn: “dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi”. Nếu
như mô tả này là đúng với hiện thực thì có thể nói quy mô của thương cảng Nước Mặn là
rất lớn. Chúng ta có thể hình dung thương cảng Nước Mặn bắt đầu từ bờ Nam sông Hà
Bạc xưa tức là từ thôn An Hịa qua thơn Lương Quang (xã Phước Quang), thơn Kim
Xun (xã Phước Hịa), kéo dài đến thơn Tùng Giảng (nơi có cửa sơng Hà Bạc), tiếp giáp
với Gị Bồi và thơn Bình Lâm, nơi có thành Thị Nại xưa. Đây chính là khu vực trung tâm
của cảng thị. Theo GS. Đỗ Bang, không gian Nước Mặn không chỉ giới hạn ở riêng vùng
này mà đối với thương khách nước ngoài bao gồm cả khu vực đầm Thị Nại mà đơi khi
cịn chỉ cả vùng đất rộng lớn của phủ Quy Nhơn.16
Còn tác giả Nguyễn Xuân Nhân cũng cho rằng: “Khơng nên nhìn vào thực địa
hiện nay mà đốn định theo chủ quan của người đời sau mà cho là thừa sai Borri đã ca
ngợi quá lời về tầm vóc của cảng thị này”. 17 Như vậy, có thể ngồi khu vực trung tâm,
cảng thị Nước Mặn còn bao gồm khu vực lân cận, gồm: khu vực cửa Kẻ Thử đến cửa Thị
Nại và hạ lưu sơng Cơn: Gị Bồi, Đập Đá, Gò Găng, An Thái, Phú Đa,… Những khu vực
nói trên đều có những hoạt động bn bán với vai trị là những điểm thu gom hàng hóa về
cho vùng thương cảng.
Bến cảng ở phía đơng cầu Ngói; kéo dài đến trước mặt chùa Bà (Thiên Hậu Cung)
của con sơng Âm Phủ. Cịn khu phố được khoanh vùng trên thực địa, chiều dài khoảng
hơn 1km, bề ngang chừng 500 mét. Trước đây lúc cửa Kẻ Thử còn tấp nập ghe thuyền ra
vào buôn bán, các nhanh sông Âm Phủ, Cây Đa còn rộng và sâu, nước Mặn từ biển và
đầm dâng lên đến đây, thương thuyền vào tận Cầu Ngói để trao đổi bn bán trực tiếp
trên phố cảng của Nước Mặn.
16
17


Đỗ Bang (2000), Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, tr. 130
Nguyễn Xuân Nhân (2010), Cảng thị Nước Mặn và văn hóa cổ truyền, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 86

12


Thời phồn vinh của cảng thị Nước Mặn là từ đầu thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ
XVIII. Thời ấy, vùng trung tâm cảng thị Nước Mặn có nhiều dãy phố chạy ngang chạy
dọc như kẻ bàn cờ. Có những dãy phố chuyên bán một loại hàng hóa: dãy phố Tàu Sáu
chuyên bán vàng bạc và đồ trang sức, dãy phố Tàu Đơng có nhiều tiệm thuốc Bắc; ngồi
ra cịn có phố hàng mã, hàng pháo, hàng đồ gốm, hàng mỹ nghệ… Sầm uất nhất là khu
phố chợ. “Tới ngày chợ phiên, tàu thuyền đậu kín bến, voi chở lâm sản từ miền thượng
về, ngựa thồ hàng từ các thị trấn, thị tứ trong vùng tới. Người trong nước, người nước
ngồi đủ màu da, nhiều tiếng nói, đi lại nhộn nhịp trên đường phố”18.
2.2. Hoạt động của thương cảng Nước Mặn:
Thương thuyền và thương gia các nước vào Nước Mặn để buôn bán các sản phẩm
của nước họ và mua về những sản vật của vùng đất Đàng Trong. Một thương gia Trung
Quốc cho biết: “Thuyền tự Sơn Nam về chỉ mua được một thứ củ nâu, thuyền từ Thuận
Hóa về cũng chỉ mua có một thứ hồ tiêu, nhưng từ Quảng Nam về thì các hàng khơng
món gì khơng có, các nước phiên khơng kịp được”.19
Giai đoạn này, thương cảng Hội An đóng vai trị là thương cảng liên vùng, thương
cảng quốc tế, thương cảng chính của Đàng Trong nên tất cả hàng hóa từ các vùng, miền
đều tập trung ở đây cho nên thương cảng Nước Mặn (giống như Thanh Hà) chủ yếu là
nơi tập kết hàng hóa của phủ Quy Nhơn và của vùng Tây Nguyên.
Phương tiện vận tải hàng hóa tại Nước Mặn tương đối đa dạng, phong phú. Nhưng
tập trung nhất vẫn là các loại đội thuyền, ghe và ghe bầu nhờ có trọng tải lớn, chuyên chở
được nhiều hàng hóa, lại có thể thực hiện những chuyến đi có hải trình dài. Riêng thuyền
vận tải cơng tại Quy Nhơn có số lượng lên đến 93 chiếc, chỉ thua mỗi Hội An. 20 Bên cạnh
tàu thuyền, việc sử dụng sức kéo của loài vật để chuyên chở hàng hóa cũng khiến nơi đây
nhộn nhiệp hơn khi phủ Quy Nhơn nổi tiếng là nơi có nhiều ngựa và voi. Nhà truyền giáo

18

Borri, Sđd, tr. 89-90

19

Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 295

20

Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 270

13


Borri ghi lại rằng: “Chính tơi đã thấy một con voi dùng voi chuyên chở những vật rất
nặng, một con khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình chuyển đến 10
chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách khéo léo và đưa xuống
biển”.
Các phương tiện vận tải đóng vai trị quan trọng trong việc điều phối hàng hóa đến
Nước Mặn, từ Nước Mặn đến các thương cảng khác và điều đó cũng chứng tỏ hoạt động
kinh tế thương mại tại thương cảng diễn ra sôi nổi. Sự phong phú về nguồn hàng từ các
vụng, đầm làm cho tàu thuyền tập trung rất tập nập.
2.3. Tác động của tự nhiên đối với sự suy tàn của thương cảng Nước Mặn:
Từ cuối thế kỉ XVIII, do sự bồi lấp ở cửa Kẻ Thử và những con sơng quanh
thương cảng Nước Mặn, phía Bắc đầm Thị Nại phù sa ngưng tụ, nâng lịng sơng Côn lên,
làm các nhánh của sông Côn: sông Hà Bạc, Gò Bồi cũng bị cạn dần và thu hẹp lại. Vì
vậy, đến đầu thế kỉ XIX, từ sau cuộc chiến tranh Nguyễn- Tây Sơn kết thúc, tàu thuyền
trong và ngoài nước bắt đầu ra vào khơng thuận lợi. Điều đó khiến nhiều thương gia bắt
đầu không đưa thuyền vào Nước Mặn (có nguy cơ mắc cạn) và chuyển sang bn bán ở

các thương cảng khác, như: Gò Bồi, Quy Nhơn…
Theo truyền tụng dân gian, vào thời Gia Long, trời nổ sấm, mở cửa Qui Nhơn và
lấp cửa Kẻ Thử . Theo bản đồ địa chất, từ Đề Gi qua núi Bà đến Qui Nhơn có mạch đứt
gãy hoạt động từ hơn 500 năm nay, mạch đứt gãy chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.
Hơn 200 năm trước, ở vùng Đề Gi qua Núi Bà đến Quy Nhơn vết đứt gãy địa chất có sự
kiến tạo đột biến làm cho vùng phía Nam Núi Bà trồi lên một cách bất thường, gọi là tân
kiến tạo.21 Chính hiện tượng này đã nối liền quần đảo Triều Châu phía Bắc với lục địa tạo
thành bán đảo Phương Mai, tạo điều kiện cho cửa Thị Nại (Quy Nhơn) trở thành cửa biển
duy nhất đi vào cảng Quy Nhơn. Còn cửa Kẻ Thử nằm ngay trên mặt đứt gãy nầy nên
đành chịu sự vùi lấp của nó.

21

Đỗ Bang, Sđd, tr.70

14


Qua những tư liệu từ sự miêu tả của nhà hàng hải Chapman khi đến Quy Nhơn vào
năm 1778: “lối vào cảng rất hệp và thiếu độ sâu, tàu thuyền lớn phải đợi thủy triều lên
mới vào được”22. Đến năm 1801, hai tướng Nguyễn Ánh là “Nguyễn Văn Trương, Tống
Phước Lương đem thuyền nhỏ vượt ra Bắc Thị Nại, vào cửa Thử lẻn vào đầm Thị Nại
dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn”23. Điều đó cho thấy thời điểm đó, cửa Kẻ Thử vẫn
chưa bị lấp hồn tồn và thuyền nhỏ cịn có thể ra vào được. Tuy nhiên, sau đó, cửa Kẻ
Thử đã dần dần bị bồi lấp hẳn. Cùng với đó là sự biến mất của thương cảng Nước Mặn.
Đến cuối thế kỉ XIX, vào năm 1888, khi Jean Marquet vẽ bản đồ vùng phụ cận
Quy Nhơn thì khơng cịn thấy sự hiện diện của địa danh Nước Mặn và Quy Nhơn khi đó
chỉ là một thị xã nhỏ mới được định hình trên bản đồ hành chính khu vực.

22


Charles Maybon (Nguyễn Thừa Hỷ dịch) (2011), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới, tr. 13

23

Quách Tấn, Quách Giao (2000), Nhà Tây Sơn, Nxb Trẻ, tr. 178

15


Chương 3: VỊ TRÍ HIỆN NAY VÀ DẤU VẾT CỊN LẠI CỦA THƯƠNG CẢNG
NƯỚC MẶN.
3.1. Vị trí hiện nay:
Vào thế kỷ XVII – XVIII, cửa khẩu đi vào Nước Mặn được gọi là Kẻ Thử. Cửa
khẩu này dẫn vào phía Bắc đầm Thị Nại, phân biệt với cửa Thị Nại ở phía Nam. Cửa Kẻ
Thử đã bị bồi lấp, nối liền núi Bà ở phía Bắc và núi Đơn ở phía Nam tạo nên một trảng
cát dài hơn 8km. Ngày nay tại vùng đất nầy vẫn còn tên gọi chợ Kẻ Thử thuộc thôn
Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát.
Cịn thương cảng Nước Mặn nằm ở vị trí được xác định thuộc thơn An Hịa, Hịa
Quang (xã Phước Quang) và thơn Vĩnh Xun (xã Phước Hịa), huyện Tuy Phước, cách
huyện lị Tuy Phước về hướng Bắc. Thương cảng Nước Mặn nằm ở cuối hạ lưu sông Côn.
Do sông Côn tách ra thành nhiều nhánh, trong đó, nhánh sống Hà Bạc chảy từ xã Phước
Hưng về Phước Quang cuối cùng hợp với sơng Gị Bồi đổ vào đầm Thị Nại. Nhánh sơng
Hà Bạc khi chảy qua thơn An Hịa và Hịa Quang thuộc xã Phước Quang có tên gọi là
sống Cây Da đóng vai trị quan trọng là con đường thơng thương cho việc hình thành
thương cảng Nước Mặn trong lịch sử. Khi khúc sông Côn trên thượng nguồn bị lấp, các
chi lưu bị ngưng đọng lại, sông Cây Da vì thế cũng cạn dần, thành đồng ruộng canh tác.
3.2. Những dấu vết còn lại:
Thương cảng Nước Mặn ngày xưa nằm trên phần đất làng Lạc Hòa và Vĩnh An
(tức Minh Hương cũ) sau nhập lại gọi là An Hòa. Bến cảng kéo dài từ Cầu Ngói (nay cầu

khơng có mái che, kiểu cầu Lai Viễn của Hội An, được xây bằng bê tông) đến chùa Bà
(Thiên Hậu Cung). Chùa Bà là di tích cịn lại quan trọng của phố cảng Nước Mặn với lần
trùng tu cuối cùng vào năm 1921, nhưng bị chiến tranh tàn phá trên 80%. Hiện nay trong
chùa còn lưu giữ một đỉnh lư 3 chân bằng hợp kim: cao 47 cm, đường kính 46 cm,được
đúc tại lò Vạn Minh (Trung Quốc) thời Gia Khánh năm Đinh Tỵ (1797). Giữa chùa Bà và
chợ Nước Mặn còn dấu tích của chùa Ơng (đền Quan Thánh) đã bị chiến tranh tàn phá
16


chỉ cịn lại bức bình phong và chiếc đỉnh lư hỏng, nhưng còn 3 chữ “Quan Thánh đế”,
trước cửa còn 3 trụ đá tán.
Cạnh chợ Nước Mặn cịn dấu tích phố cũ với bức tường dài 5,2 mét, dày 0,3 mét,
cao 0,9 mét; vật liệu xây dựng gồm: vôi, gạch, đá ong, mật, mạch bằng vơi. Cạnh đó là
một dãy phố dài cịn dấu tích ở nhà ơng Nguyễn Cự một bờ tường dài 16,27 mét, dày
0,39 mét, cao 1,85 mét. Phía đơng bắc là khu mộ cổ.
Ngồi ra, cửa Kẻ Thử vốn là cửa khẩu quan trọng, là con đường dẫn duy nhất và
thương cảnh Nước Mặn. Dấu vết còn lại hiện nay tại đây là nhiều bàu nước, ruộng lúa có
độ mặn cao bất thường. Đặc biệt, người dân nơi đây cịn tìm thấy những hiện vật như:
nhiều mỏ neo tàu bằng sắt và dây dừa bện với đường kính hơn 10 cm, súng đại bác cổ
bên đầm và nhiều súng, neo sắt ở vũng Bắc, Eo Gió (xã Nhơn Lý).24
Cho đến nay việc khảo sát cảng thị Nước Mặn chưa được đi sâu. Vào tháng 4 năm
2006, Bảo tàng tổng hợp Bình Định đã tổ chức khảo sát nhưng khơng quy mơ. Hố khảo
sát chỉ có diện tích 6m², lại mới đào khoảng 50cm, nhưng các nhà khoa học đã tìm thấy
hàng vài trăm mảnh gốm sứ các loại: gốm Gò Sành (gốm Chăm thế kỷ XIV-XV), gốm
Chu Đậu (Việt Nam, thế kỷ XIV-XVIII), Nhật Bản, Trung Quốc (thế kỷ XVII), thậm chí
cả gốm vùng Trung Cận Đông, gốm Thái Lan. Nhiều nhất vẫn là gốm Chăm, Trung Quốc
và Nhật Bản. Gốm Trung Quốc và Nhật Bản cùng mang màu xanh trắng, nhưng có thể
phân biệt khá rõ về sắc độ và sự tinh xảo. Có mặt tại điểm khảo sát, TS Roxana M.
Brown (một chuyên gia về gốm Đông Nam Á, hiện là Giám đốc Bảo tàng Gốm Đông
Nam Á thuộc Đại học Bang Kok – Thái Lan), nhận xét: “Niên đại của các hiện vật gốm

Trung Quốc và Nhật Bản nằm khoảng thời gian từ 1620 đến 1680”.
Cịn Tiến sĩ Đinh Bá Hịa – Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định
đánh giá: “Sự phong phú các mảnh gốm trên cùng một lớp địa tầng cho thấy sự giao lưu,
buôn bán thời kỳ này rất phồn thịnh. Những mảnh gốm Nhật khá nhiều, chứng tỏ các
thương gia Nhật đã tìm đến Nước Mặn giao lưu, buôn bán rất nhiều. Những hiện vật này
24

Đỗ Bang (2000), Lịch sử thành phố Quy Nhơn, Nxb. Trẻ, tr. 68.

17


làm sáng tỏ thêm hiểu biết của chúng ta về cảng thị Nước Mặn thuở phồn vinh và cũng
chứng tỏ rằng, cảng thị này chỉ tồn tại đến thế kỷ XVII”.
Có thể thấy, sau những biến thiên của lịch sử, giờ đây dấu vết của thương cảng
Nước Mặn năm xưa đã khơng cịn nhiều. Tuy nhiên, những bằng chứng ban đầu của khảo
cổ học đã cho chúng ta thấy đây thực sự là một thương cảng tấp nập “trên bến dưới
thuyền” vào thời các chúa Nguyễn, thế kỉ XVI- XVIII.

18


KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển của bất kì thương cảng nào cũng phụ thuộc rất nhiều
các yếu tố. Trong đó, yếu tố về địa lí là quan trọng nhất. Những đặc điểm thuận lợi về địa
hình là điều kiện cơ bản bên cạnh các yếu tố về sự chuyển biến của ngành hải thương khu
vực, chính sách và chiến lược kinh tế biển của nhà cầm quyền…
Thương cảng Nước Mặn kế thừa những điều kiện thuận lợi từ thương cảng Thị
Nại từng rất thịnh vượng dưới thời của vương quốc Champa. Với đường bờ biển dài và
khúc khuỷu, cộng với địa hình chắn gió lý tưởng và những cửa sơng đổ ra biển, đó là

điểm lí tưởng cho sự hình thành thương cảng Nước Mặn. Thương cảng này mặc dù khơng
có được vai trị và tầm quan trọng cũng như sức ảnh hưởng như cảng Thị Nại của đất
nước Champa vào thế kỉ X- XV, nhưng nó vẫn đóng vai trị là cửa ngõ hướng ra biển của
vùng phủ Quy Nhơn và cả khu vực cao nguyên phía Tây. Nhờ thuận lợi về giao thông
đường bộ và đường sơng mà từ Nước Mặn có thể chuyển hàng hóa đến nhiều khu vực
khác nhau. Nước Mặn nằm tại phủ Quy Nhơn - một phủ giàu có của Đàng Trong. Sản vật
có nhiều loại như: trầm hương, tốc hương, sừng tê, vàng bạc, đồi mồi, châu báu, sáp ông,
đường, mật, dầu, sơn, cau tươi, hồ tiêu, gỗ, thóc lúa… Khơng những thế, phủ Quy Nhơn
lại nằm gần các phủ Phú Yên, Bình Khang, Dinh Nha Trang. Sự phong phú của các sản
vật tự nhiên đã mang lại nguồn hàng dồi dào, có giá trị, thu hút sự có mặt của các thương
nhân, tàu buôn tại khu vực này. Nơi đây đã trở thành một cửa khẩu thương mại quan
trọng trong vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên, theo thời gian, do sự bồi đắp của sông Côn cùng với những thay đổi về
địa chất của khu vực, trong đó có việc cửa biển Kẻ Thử- cửa ngõ duy nhất dẫn vào
thương cảng Nước Mặn bị bồi lấp đã dẫn đến việc Nước Mặn dần lụi tàn và chìm vào di
vãng. Trải qua những thăng trầm lịch sử khác nhau, giờ đây thương cảng Nước Mặn chỉ
còn là những dấu vết minh chứng cho một thời kì phát triển rực rỡ của nó.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Christophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Charles Maybon (Nguyễn Thừa Hỷ dịch) (2011), Những người châu Âu ở nước
An Nam, Nxb Thế giới.
3. Đào Duy Anh (2012), Đất nước Việt Nam qua các đời: Nghiên cứu địa lý học lịch
sử, Nxb Thuận Hóa.
4. Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, Nxb Văn
hóa thơng tin

5. Đinh Bá Hịa (2006), Đào thám sát thương cảng Nước Mặn, Tài liệu Thư viện
Tổng hợp Bình Định.
6. Đinh Bá Hịa (2007), Nhận diện Thị Nại- Nước Mặn qua tư liệu Khảo cổ học, Tạp
chí Khảo cổ học số 1.
7. Đỗ Bang (1992), Dấu tích của cảng thị Nước Mặn- Những phát hiện mới về khảo
cổ học 1991- 1992, Viện Khảo cổ học.
8. Đỗ Bang (2000), Lịch sử thành phố Quy Nhơn, Nxb. Trẻ.
9. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng, Nxb. Thuận Hóa, Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam
10. Keith Taylor (2006), Thuận Quảng và Bình Định trong cuộc xung đột vùng miền ở
Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay, số 270
11. Lê Q Đơn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb Văn hóa Thơng tin
12. Lê Đình Phụng (2007), Việt Nam trong hệ thống thương mại châu Á thế kỷ XVIXVII, Nxb Thế giới
20


13. Li Tana (1997), Xứ Đàng Trong- Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ 17 và 18,
Nxb. Trẻ.
14. Nguyễn Xuân Nhân (2010), Cảng thị Nước Mặn và văn hóa cổ truyền, Nxb. Khoa
học xã hội
15. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội.
16. Quách Tấn, Quách Giao (2000), Nhà Tây Sơn, Nxb Trẻ
17. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa

21


PHỤ LỤC
Hình ảnh:


Hình ảnh 1: Bản đồ hành chính tỉnh Bình Định
(Nguồn: www.bvmatbinhdinh.vn)
22


Hình ảnh 2: Bản đồ vị trí cảng Thị Nại xưa (Nguồn: vietnam-maritime.com)

Hình ảnh 3: Bản đồ địa hình thương cảng Nước Mặn (Nguồn: vietnam-maritime.com)

23


24


Hình ảnh 4: Vị trí cảng Nước Mặn hiện nay
(Nguồn: : www.baobinhdinh.com.vn)

25


×