Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đề tài quyền nhân thân theo quy định của bộ luật dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.78 KB, 30 trang )

A. Mở bài:
Quyền nhân thân là một trong những quyền rất quan trọng đuợc Luật Dân sự Việt
Nam - quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định, gắn liền với giá trị tinh thần,
gắn liền với mỗi chủ thế nhất định và không chuyến giao đuợc về nguyên tắc . Tại Việt
Nam, quyền nhân thân đuợc quy định tại Điều 24 Bộ luật dân sự năm 2005.
Điều 24. Quyền nhân thân: Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn
liền với moi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật cỏ quy định khác.

Bộ luật Dân sự Việt Nam dành 28 điều để làm rõ những điều liên quan đến quyền
nhân thân này, cụ thể đó là những quyền nhu: quyền đuợc khai sinh, khai tử, đuợc cải chính
họ tên, quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền kết hôn, ly hôn, quyền xác định giới tính, quyền
tự do kinh doanh...
Mặc dù luật đã quy định cụ thể nhu vậy, nhung trong thực tiễn thi hành, các vấn đề
về quyền nhân thân luôn gặp nhiều vuớng mắc. Truớc các vấn đề đó, đề tài “
Quyền nhân thân theo quy định trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
là rất cấp thiết, cần có sự nghiên cứu, tìm tịi, đào sâu để làm rõ những vấn đề còn vuớng
mắc, đem lại sự hồn thiện của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng.

B. Phần nội dung:
I. Khái niệm và phân loại quyền nhân thân.
1. Khái niệm quyền nhân thân
Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật
này là quyền dân sự gắn liền với moi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác”.

Quy định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân thân thông qua hai đặc

điếm cơ bản là: gắn liền với cá nhân, không chuyến dịch.
Neu chỉ dừng lại ở những đặc điếm đó thì khái niệm quyền nhân thân sẽ vuớng phải
một số bất cập nhất định sau đây:
- Với hai đặc điểm nêu trên thực sự chua đủ để phân biệt quyền nhân thân với các


quyền dân sự khác, bởi lẽ có một số quyền tài sản cũng mang đủ hai đặc điểm này.
Ví du: Pháp luật hơn nhân và gia đình quy định rằng quyền đuợc cấp duỡng và
nghĩa vụ cấp duỡng cũng đuợc gắn liền với những cá nhân nhất định nhu: giữa cha mẹ và
con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng. Quyền yêu cầu cấp
1


duỡng và nghĩa vụ cấp duỡng không thể thay thế bằng các quyền, nghĩa vụ khác và cũng
‘‘“'không thế chuyến giao cho người khác” (Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình 2000).
Quyền này là quyền tài sản chứ khơng phải là quyền nhân thân.
- Điều 24 BLDS 2005 quy định rằng quyền nhân thân là quyền “gan liền với moi
cá nhân”, vậy thì các chủ thể khác (nhu pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có các quyền
nhân thân của mình khơng? Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005 có đề cấp đến “danh dự, uy
tín của pháp nhân, chủ thể khác”, vậy đây có được coi là quyền nhân thân của pháp nhân
và các chủ thể khác không? Điều 1 Nghị quyết số 01/2004/NQ- HĐTP ngày 28/04/2004,
cũng như Điều 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao. Các quy định đó đều hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân
thân đối với pháp nhân và các chủ thế khác.
Các phân tích hên cho ta thấy phải chăng khái niệm quyền nhân thân nên được mở
rộng không những gắn với cá nhân mà với cả các chủ thế khác, đế phân biệt quyền nhân
thân với các quyền dân sự khác. Từ đó xây dựng một khái niệm quyền nhân thân mới.
2. Phân loại quyền nhân thân:
BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51).
Điều 738 và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân. Các quyền
nhân thân này có thế được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chí thế hiện
một khía cạnh pháp lý đặc thù. Thông qua các phân loại này chúng ta sẽ hiếu được rõ nét
hơn bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân, từ đó nhận diện được chính xác các
hành vi xâm phạm và đề ra được phương thức bảo vệ thích họp nhất.
Thứ nhất, dựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thế phân thành
nhóm các quyền nhân thân khơng gắn với tài sản (các quyền nhân thân không gắn với tài

sản này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, khơng phụ
thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó) và nhóm các
quyền nhân thân gắn với tài sản (quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ được xác lập cùng với
sự hình thành của một tài sản vơ hình, như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng
chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích họp bán dẫn, giống cây trồng, ...). Phân loại này
được thế hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản
2


được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005. . . Các quyền nhân thân này được quy
định tại khoản 2 Điều 738 và mục a khoản 1 Điều 751 BLDS 2005. Trong số các quyền này
có một quyền có thể chuyển giao được sang cho chủ thể khác - đó là quyền cơng bố hoặc
cho phép người khác công bố tác phẩm (theo quy định tại Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005).
Thứ hai, dựa vào chủ thể mang quyền mà các quyền nhân thân có thể được phân
thành hai nhóm là: Nhóm các quyền nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền nhân thân
của các chủ thế khác (không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm
các quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005 và các quyền nhân
thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS 2005. Các quyền nhân thân của
pháp nhân, hộ gia đình, tổ họp tác có thể bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín
(được đề cập đến tại Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005). Có thế thừa nhận thêm một số
quyền nhân thân của pháp nhân như quyền đối với tên gọi, quyền tự do kinh doanh đối với
các chủ thể có đăng ký kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành 5
nhóm sau đây:
- Nhóm các quyền cá biệt hố chủ thể, bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay
đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền đuợc khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh;
quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.
- Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, bao gồm: quyền đuợc đảm
bảo an tồn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ
phận cơ thế nguời.

- Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền đuợc bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tu; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền
tự do tín nguỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cu hú; quyền lao động; quyền tự do
kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hơn nhân và gia đình của cá nhân: quyền
kết hơn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền đuợc huởng sự chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình; quyền ly hơn; quyền nhận, khơng nhận cha, mẹ, con; quyền đuợc nuôi con
nuôi và quyền đuợc nhận làm con nuôi.
3


- Nhóm các quyền đối với các đối tuợng của quyền sở hữu hí tuệ: quyền đặt tên cho
tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hay trên văn bằng bảo hộ (đối
với sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích họp bán dẫn, giống cây trồng), quyền
đuợc nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm đuợc công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc
cho phép nguời khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho
nguời khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Thứ tư, Dựa vào thời hạn bảo hộ mà các quyền nhân thân đuợc phân loại thành hai
nhóm: Nhóm các quyền nhân thân đuợc bảo hộ vơ thời hạn và nhóm các quyền nhân thân
đuợc bảo hộ có thời hạn.
- Nhóm các quyền nhân thân đuợc bảo hộ vô thời hạn bao gồm: quyền đối với họ
tên; quyền đối với hình ảnh; quyền đuợc bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tu; quyền
đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, đuợc nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm
đuợc công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho nguời khác sửa
chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
- Nhóm các quyền nhân thân đuợc bảo hộ có thời hạn bao gồm: quyền thay đối họ
tên; quyền xác định dân tộc; quyền đuợc khai sinh, khai tử; quyền đuợc đảm bảo an toàn về
tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền đuợc bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận cơ thể;
quyền nhận bộ phận cơ thể nguời; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hơn, quyền bình
đẳng vợ chồng; quyền đuợc huởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền

ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền đuợc nuôi con nuôi và quyền đuợc
nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự
do tín nguỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cu trú; quyền lao động, quyền tự do kinh
doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc
cho phép nguời khác công bố tác phẩm.
Thứ năm, dựa vào đặc điểm của hành vi xâm phạm mà chúng ta phân loại các
quyền nhân thân thành ba nhóm:
- Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào chính chủ thế quyền, bao
gồm: quyền đuợc đảm bảo an tồn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ
thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền thay đổi họ tên;
4


quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được bảo vệ nhân phẩm, các
quyền nhân thân liên quan đến quan hệ hơn nhân và gia đình; quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do
nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thế khác (không phải là chủ thể
quyền), bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đối với
họ tên; quyền công bố hoặc cho phép người khác cơng bố tác phẩm.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên quan đến quyền, bao
gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở; quyền đối với quốc tịch; quyền bí mật đời tư; quyền đặt tên cho tác
phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh
khi tác phẩm được cơng bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, không cho
người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Thứ sáu, dựa vào phương thức bảo vệ mà các quyền nhân thân được phân thành hai
nhóm: Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu và nhóm được bảo vệ khơng phụ thuộc
vào u cầu.
- Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu bao gồm: quyền đối với họ tên;

quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối
với hình ảnh; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định
lại giới tính; quyền đươc bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết hơn; quyền
bình đẳng vợ chồng; quyền ly hơn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi
con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác
phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh
khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người khác sửa chữa, cắt xén,
xuyên tạc tác phẩm.

5


- Nhóm được bảo vệ khơng phụ thuộc vào u cầu bao gồm: quyền được đảm bảo
an tồn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền được
hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.
II. Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự. Một sế vấn đề lý luận và
thực tiễn.
1. Quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.
Khoản 3 Điều 32 BLDS năm 2005 quy định “việc thực hiện phương pháp chữa
bệnh mới trên cơ thế một người,... thì phải được sự đồng ỷ của người đó; nếu người đó
chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh, thì phải có sự
đồng ỷ của cha, mẹ, người giám hộ, vợ hoặc chồng và con đã thành niên của người đó;
trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà khơng chờ được ỷ
kiến của những người trên, thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế”.
Qui định này đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách và cần thiết trong việc cấp cứu
người bệnh. Tuy nhiên, việc trao quyền cho người đứng đầu cơ sở y tế quyết định việc chữa
bệnh khi không thế chờ được ý kiến của thân nhân, như cách qui định trên, sẽ gây ra những

hậu quả bất lợi cho nhân mạng của bệnh nhân và gây ra tâm trạng bất an cho gia đình,
những người thân thích nhất của bệnh nhân. Bởi lẽ, thực tế hiện nay tại một số cơ sở chữa
bệnh, người đứng đầu cơ sở chỉ là người quản lý mà không nắm bắt hoặc hiểu biết hết về
các lĩnh vực y khoa chuyên sâu. Do đó, để những người này ra các quyết định về việc áp
dụng phương pháp chữa bệnh mới, cắt bỏ bộ phận cơ thể, cấy hoặc ghép nội tạng... thì rất
mạo hiếm đối với sự an toàn cơ thế và sinh mạng của người bệnh, trong khi chúng ta chưa
có cơ chế giám sát chặt chẽ về việc ra các quyết định này của người đứng đầu cơ sở chữa
bệnh, nhất là đối với các phòng khám cơ sở, các cơ sở chữa bệnh tư nhân... Vì thế, nên bổ
sung thêm đoạn cuối khoản 3 Điều 33 BLDS 2005 với nội dung như sau “... quyết định của
người đứng đầu cơ sởy tế, dựa trên kết luận của hội đồng y khoa của cơ sở chữa bệnh đó
gồm từ 3 bác sỹ chuyên khoa trở lên có liên quan đến căn bệnh cần phải xử lý bằng các
phương pháp y khoa kế trên, sau khi đã hội chan về căn bệnh đó. Kết luận của Hội đồng
phải được lập thành văn bản hoặc thế hiện trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân”. Qui định
như vậy sẽ hạn chế tối đa những sai lầm cá nhân của người đứng đầu cơ sở y tế khi ra các
6


quyết định hệ họng liên quan đến sự sống và sức khỏe, sự an toàn cơ thể của bệnh nhân
(trong khi pháp luật hiện hành khơng có một qui định nào về trách nhiệm, chế tài hay biện
pháp cần thiết để hạn chế sai lầm của người này khi ra các qui định đó). Neu cẩn thận hơn,
cần xác định thêm là cơ sở y tế tuyến nào hoặc cấp nào mới có quyền ra những quyết định
nói hên. Theo em, chỉ nên cho phép những sơ sở chữa bệnh từ cấp huyện trở lên có đủ các
bác sỹ chuyên khoa có chun mơn để có thể đưa ra các quyết định đúng đắn về phương
pháp chữa bệnh thích ứng mới được quyền quyết định việc áp dụng phương pháp chữa
bệnh, khi việc áp dụng các phương pháp đã kể trên (không bao gồm các phương pháp y
khoa cần thiết để cấp cứu bệnh nhân) trường họp khẩn cấp mà không thế chờ được ý kiến
của thân nhân người bệnh. Đồng thời, việc áp dụng các phương pháp đó phải được thơng
báo cho những người thân thích nhất gồm những người được nêu trong điều luật, nếu họ có
yêu cầu, hừ trường họp việc thơng báo đó xâm phạm bí mật đời tư của bệnh nhân. Neu chỉ
quan tâm đến việc áp dụng các phương pháp đặc biệt để cứu chữa bệnh nhân mà không tạo

ra cơ chế bảo đảm cho việc đó được thực hiện một cách an tồn, thì đó sẽ là một thiếu sót
nghiêm trọng - nguy cơ dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc không lường trước được.
2. Quyền của cá nhân đối với họ, tên.
Mỗi cá nhân sinh ra đều có tên gọi của mình do bố mẹ đặt cho đế phân biệt cá nhân
đó với những cá nhân khác. Có nhiều dấu hiệu đế phân biệt cá nhân này với cá nhân khác
nhưng có lẽ tên gọi là dấu hiệu đầu tiên đế cá biệt hoá cá nhân.
Điều 26 BLDS 2005 quy định:
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên
khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã
được cơ quan nhà nước cỏ thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh khơng được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác.
Như vậy, mặc dù một người có thế có nhiều tên gọi khác nhau như tên khai sinh, tên
thường gọi, biệt hiệu, bí danh ... nhưng khi tham gia quan hệ pháp luật, mỗi cá nhân chỉ

7


được công nhận mang một tên riêng đế phân biệt với những cá nhân khác. Đó là tên khai
sinh của người đó được ghi trong giấy khai sinh.
Tên của một người theo truyền thống, phong tục của Việt Nam thường bao gồm họ,
tên đệm và tên gọi. Họ của một người thường theo họ cha hoặc họ mẹ của người đó. Theo
quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch thì pháp luật cũng khơng quy
định việc khai sinh cho trẻ bắt buộc phải có họ. Do vậy, việc lựa chọn họ cho trẻ theo họ
cha hoặc họ mẹ hoặc một họ khác hoặc khơng có họ là hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của
người đi đăng ký khai sinh cho trẻ.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tên khai sinh của một người cũng có những
khó khăn, phức tạp đặc biệt là trong trường họp người đó khơng được đăng ký khai sinh.
Trên thực tế đã có những trường họp do điều kiện hồn cảnh mà rất nhiều em bé khơng

được khai sinh ví dụ như Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-1 có bài “Một phường có hơn
400 trẻ “vơ danh ” phản ánh phường Bình Hưng Hịa A (quận Bình Tân, TP.HCM) có hơn
400 trẻ em chưa có giấy khai sinh. Hầu hết cha mẹ của các em là cơng nhân, người lao
động có hộ khẩu ở tỉnh, khơng có tiền về q làm thủ tục khai sinh cho con... Có em sắp thi
đại học vẫn chưa có giấy khai sinh. Nhiều em khơng được nhận vào học tại các trường
công mà phải học ở các lóp học tình thương.
Quyền đối với họ tên là một quyền nhân thân của cá nhân. Cá nhân có quyền nhân
thân này kế từ khi sinh ra. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền nhân thân này lại không phụ
thuộc vào cá nhân, là những em bé khơng có năng lực hành vi dân sự mà hoàn toàn phụ
thuộc vào người khác, những người có quyền và trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ.
Trong hường hợp trẻ em không được đăng ký khai sinh do lỗi của người lớn thì rõ ràng
quyền và lợi ích của trẻ em đã bị xâm phạm. Vậy ai sẽ chịu trách nhiệm trong những
trường họp này và vấn đề trách nhiệm dân sự như bồi thường thiệt hại có được đặt ra hay
không?
Không những thế, trong trường họp trẻ em đã trở thành người lớn và có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự mà vẫn chưa được đăng ký khai sinh thì có thế tự đi đăng ký khai sinh
cho mình không? Nghị định 158 chỉ quy định hường họp đăng ký khai sinh cho trẻ em
trong đó quy định rõ người đi đăng ký khai sinh phải là người khác và thủ tục đăng ký khai
8


sinh phải cần những giấy tờ nhất định. Như vậy, nếu pháp luật khơng có quy định và giải
thích rõ ràng thì người khơng được khai sinh đó mãi vẫn là người khơng có họ, tên và
khơng được tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như các quan hệ pháp luật
khác. Và như vậy, quyền nhân thân của cá nhân sẽ chỉ là những quyền khách quan do pháp
luật quy định mà sẽ không thể trở thành những quyền năng chủ quan, cụ thể của cá nhân.
Theo em, để khắc phục tình trạng này, pháp luật cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của
nguời không thực hiện việc khai sinh cho hẻ cũng nhu cần bổ sung thêm truờng họp một
nguời có thể tự đi đăng ký khai sinh cho chính mình.
Ngồi ra, hên thực tế còn diễn ra nhiều trường họp người này sử dụng họ, tên của

người khác trong các quan hệ xã hội cũng như quan hệ dân sự. Việc sử dụng này khơng
những gây tốn hại cho danh dự, uy tín mà còn gây thiệt hại về tài sản của cá nhân. Hành vi
này bị coi là hành vi bất họp pháp và sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp lý theo quy định
của pháp luật.
3. Quyền xác định dân tộc.
Quyền xác định dân tộc là một quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật công
nhân và bảo vệ. Theo quy định của BLDS năm 2005, Điều 28 thì cá nhân sinh ra được xác
định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường họp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai
dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân
tộc của mẹ để theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ.
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hồ thuận, trong đó dân
tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc cịn lại có số lượng dao động trcn dưới 1 triệu
người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer cho đến vài trăm người như dân tộc ơ Đu và
Brâu.
Khác với quyền đối với họ, tên, dân tộc của cá nhân được xác định theo dân tộc của
cha hoặc của mẹ chứ khơng được hồn tồn tự do lựa chọn và dân tộc của cá nhân cũng sẽ
được ghi vào giấy khai sinh khi trẻ đựơc đăng ký khai sinh.
Cũng giống như họ, tên, việc xác định dân tộc cho trẻ gặp khó khăn khi trẻ sinh ra
bị bỏ rơi hoặc không xác định được cha, mẹ. Theo quy định của khoản 3 Điều 16 Nghị định
158 thì trong trường họp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi thì phần cha, mẹ, dân tộc được bỏ
9


trống. Quy định này tạo thuận lợi cho việc đăng ký khai sinh cho hẻ được dễ dàng cũng
như tạo được sự chính xác khi xác định dân tộc cho trẻ. Tuy nhiên, quy định này lại có
điếm hạn chế trong trường họp sau đó khơng thế xác định được cha, mẹ đẻ của trẻ cũng
như hẻ không được nhận làm con ni thì trẻ sẽ lớn lên và sẽ mãi mãi khơng có dân tộc và
như vậy thì quyền nhân thân của cá nhân cũng không thế thực hiện được. Trong trường hợp
này, pháp luật nên quy định dân tộc của trẻ được xác định theo dân tộc Kinh hoặc theo dân
tộc chiếm đa số ở địa phương nơi phát hiện trẻ bị bỏ rơi. Khi đó mỗi cá nhân đều có được

một dân tộc nhất định và sau này khi xác định được cha, mẹ của trẻ thì có thể xác định lại
dân tộc theo quy định của pháp luật.
Vấn đề xác định lại dân tộc cũng là một trong những nội dung quyền nhân thân của
cá nhân. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền xác định lại dân tộc trong hai trường họp:
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân
tộc khác nhau.
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của
người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không
biết cha mẹ đẻ là ai.
Nhà nước Việt Nam thi hành chính sách bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau
giữa các dân tộc. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển đồng đều, Chính phủ Việt Nam ưu
tiên đầu tư phát hiến kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi. Chính vì vậy, đế hưởng
lợi từ những chính sách của Nhà nước, trên thực tế có nhiều hường họp muốn thay đổi dân
tộc từ dân tộc này sang dân tộc khác. Trong trường họp này pháp luật nước ta quy định rất
chặt chẽ, các cá nhân khơng có quyền thay đổi dân tộc mà chỉ có quyền xác định lại dân tộc
theo những trường họp do pháp luật quy định. Hơn nữa, chủ thể yêu cầu xác định lại dân
tộc cũng rất hạn chế bao gồm người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ
của người chưa thành niên. Và trong truờng họp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của
người chưa thành niên yêu cầu xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười

1
0


lăm tuổi trở lên thì phải được sự đồng ý của người chưa thành niên đó. Tuy nhiên, quy định
này của BLDS cũng có những điếm chưa thật họp lý:
Thứ nhất, Điều luật quy định người đã thành niên có quyền yêu cầu xác định lại
dân tộc. Tuy nhiên có hường họp người đã thành niên lại mất năng lực hành vi dân sự thì

người đó lại khơng thể tự mình thực hiện được quyền yêu cầu mà phải cần có sự tham gia
của người giám hộ.
Thứ hai, Điều luật quy định cha đẻ và mẹ đẻ của người chưa thành niên có quyền
yêu cầu. Quy định này được hiểu là phải có sự yêu cầu của cả cha và mẹ của người chưa
thành niên trong trường họp yêu cầu xác định lại dân tộc cho con. Điều này cũng gây khó
khăn trong trường họp cha, mẹ đã ly hơn, một bên ở nước ngoài hoặc một bên đã chết...
Thứ ba, Điều luật quy định giám hộ của người chưa thành niên có quyền u cầu
nhưng khơng quy định người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu
cầu dẫn đến hên thực tế có những trường họp không xác định được người nào là người có
quyền yêu cầu trong trường hợp người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự cần xác
định lại dân tộc.
Vì vậy để quy định hợp lý và chặt chẽ hơn, điều luật cần quy định người có quyền
yêu cầu xác định lại dân tộc bao gồm: người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; cha, mẹ
của người chưa thành niên hoặc người giám hộ.
4. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của
mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Trong truờng họp
người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha,
mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, hừ trường họp
vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng hoặc pháp luật có quy định khác.
Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vực riêng tư của mỗi người. Tuy nó khơng có gì bí
mật, cần phải hạn chế sử dụng nhưng một khi muốn sử dụng những hình ảnh của cá nhân ai
đó, nhất là sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (như in lịch, in bìa sách, bao bì mẫu
quảng cáo...) thì đều phải hỏi ý kiến “người chủ” hình ảnh đó. Bởi về ngun tắc, mọi cá
nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Mỗi người đều có quyền cho hay khơng cho
1
1


người khác sử dụng hình ảnh của mình. Neu chưa được sự đồng ý mà sử dụng đã là vi

phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Khái niệm hình ảnh của cá nhân được hiếu là bao gồm mọi hình thức nghệ thuật ghi
lại hình dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra có thể bao gồm
cả bức tượng của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh có được do ghi hình (quay video). Đối với
mỗi loại hình nghệ thuật cũng bao gồm nhiều loại khác nhau.
Ví dụ: ảnh chụp có thể bao gồm ảnh chân dung, ảnh nghệ thuật, ảnh tư liệu, ảnh
phóng sự... đều có thể chụp lại hình ảnh của con người; ảnh vẽ có thể bao gồm vẽ truyền
thần, vẽ ký hoạ ...
BLDS không quy định rõ như thế nào là đồng ý. Đồng ý ở đây được hiểu là có sự
thoả thuận giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân với cá nhân có hình ảnh đó hay chỉ
cần việc sử dụng hình ảnh khơng có sự phản đối của người có hình ảnh thì được hiểu là
người đó đương nhiên đồng ý. Theo em, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân vào bất kỳ mục
đích gì mà khơng xin phép đều bị coi là vi phạm quyền nhân thân về hình ảnh của cá nhân
dù việc sử dụng đó có thế mang lại lợi ích hay gây thiệt hại cho người có hình ảnh. Cịn
việc người có hình ảnh đó có khởi kiện hay khơng thì đó lại là quyền của chủ thể trong
quan hệ về tố tụng dân sự và người đó có quyền lựa chọn.
Còn làm sao để được sự đồng ý thì hiện nay luật chưa “đả động” tới. Điều 31 BLDS
nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy
tín của người đó. Có việc này xảy ra tất nhiên phải bồi thường thiệt hại về tinh thần. Nhưng
trường họp không gây ra thiệt hại thì sao?
Trong thực tế lâu nay việc sử dụng “ảnh chùa” đã hở thành thói quen của mọi người.
Cùng lắm người nào “biết điều” cũng chỉ hỏi ý kiến của người sáng tác (chụp, vẽ ảnh) chứ
ít khi chịu tìm đến hỏi ý kiến của “nhân vật trong ảnh”. Bởi người ta vẫn thường đinh ninh
rằng người có hình ảnh được sử dụng đế ‘Tăng - xê” mình trước xã hội đã là... “khối” lắm
rồi, cần gì phải hỏi ý kiến. Nhưng một khi chuyện lỡ rồi, người có hình ảnh đó lại tìm cách
làm khó dễ, việc xin lỗi không thôi chưa đủ. Tuỳ theo giá trị sử dụng hình ảnh trong việc
kinh doanh mà người có hình ảnh địi phải thanh tốn bằng một khoản tiền vài triệu đồng,

1
2



có khi vài chục triệu và vừa rồi có vụ yêu cầu của phía chủ ảnh lên đến hàng trăm hiệu
đồng.
Thử đặt câu hỏi, người sáng tác chụp ảnh đạt yêu cầu chỉ được hả thù lao cùng lắm
vài trăm ngàn hay vài triệu đồng mà nhân vật trong ảnh lại ra giá tới hàng trăm triệu đồng
thì có q đáng khơng? Dù sao một khi khơng có luật định thì mạnh ai nấy địi, địi cho
bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến tồ án thì tồ cũng chỉ theo thông lệ là...
“việc dân sự muốn xử sao cũng được”
Lại thử đặt câu hỏi trong tình hình hiện nay nếu áp dụng gắt việc này thì mỗi ngày
toà phải xử bao nhiêu vụ nguời trong ảnh kiện báo chí và mỗi ngày báo chí phải tốn bao
nhiêu tiền để bù cho cái thông lệ sử dụng ảnh mà chua đuợc sự đồng ý của nguời ta.
Tóm lại, quyền nhân thân trong đó có quyền của cá nhân đối với họ tên, hình ảnh,
dân tộc thuộc nhóm quyền tuyệt đối, thể hiện sự công nhận của Nhà nuớc đối với các giá trị
tinh thần của cá nhân. Bất kỳ hành vi xâm phạm quyền nhân thân nào cũng sẽ phải chịu
một trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm đó có thế là trách nhiệm hình sự, hành chính hay dân
sự. Theo quy định của BLDS thì khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm cá nhân có
quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. u cầu nguời vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc nguời
vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai.
3. u cầu nguời vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc nguời
vi phạm bồi thuờng thiệt hại.
Một sế vụ xài ảnh bị kiện:
- Tháng 1 -2003, cô Phan Thị Như Quỳnh gửi đơn khiếu nại Tống cục Du lịch Việt
Nam và tác giả Vũ Quốc Khánh vì sử dụng bức ảnh “Nụ cười Việt Nam ” có ảnh của cơ
mà khơng xin phép. Bức ảnh này được nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Quốc Khánh chụp năm 1994,
đến năm 2000 được Tống cục Du lịch Việt Nam chọn làm biếu tượng “Việt Nam! Điếm đến
của thiên niên kỷ mới!”
- Đầu năm 2004, gia đình bé Minh Khơi kiện Cơng ty Biti’s, địi bồi thường thiệt

hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh Khơi in trên bìa lịch, tập quảng
1
3


cáo. Thảng 9-2004, TAND quận 6 (TP.HCM) buộc Biti’sphải xin lỗi cơng khai gia đình bé
Khơi, chấm dứt vơ điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé và bồi thường gần ba
triệu đồng.
- Tháng 2-2004, Công ty Điện tốn và Truyền sổ liệu VDC (Tổng Cơng ty Bưu
chỉnh Viên thông Việt Nam) xài không xin phép ảnh “Hai bà cháu” trên thẻ gọi điện thoại
1717. Đây là bức ảnh được nghệ sĩ Mạnh Đan chụp năm 1982. Sau đó, VDC phổi hợp với
đơn vị thiết kế mâu đến, gặp gia đình thân nhân người được chụp ảnh đế nhận lôi, thoả
thuận bồi thường...
- Tháng 12-2004, nhà nhiếp ảnh Nguyên Văn Trí phát hiện bức ảnh in trên tờ vé số
An Giang chỉnh là tấm ảnh có tên “Hoa sen ” mà ông chụp ở Đồng Tháp Mười. Ơng Trí
đã hỏi Cơng ty Xo số kiến thiết An Giang và Công ty cố phần In An Giang, được các nơi
này cho biết lấy bông sen trên đĩa vi tỉnh, không đề tên tác giả nên không biết và “mong
tác giả thông cảm ”!
- Tháng 4-2006, luật sư Phạm Thành Long khiếu nại sân bay Tân Sơn Nhất dùng
bức ảnh “Ảo dài ” của ông làm pano ở đường vào sân bay. Bức ảnh này được ông chụp
nhân ngày khai giảng tại cống trường Trần Phú (Hà Nội), sau đó được cơng bố lần đầu
vào ngày 6-9-2004 trên mạng. Ông đã đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với bức ảnh tại
Cục Bản quyền (Bộ Văn hoá - Thơng tin). Trước đó, bức ảnh từng bị ... “xài chùa” 14 lần
khiến ông phải khiếu nại nhiều tờ báo và doanh nghiệp. Kết quả, một doanh nghiệp của
Nhật đã phải bồi thường...
5. Qui định về quyển hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến xác sau khi chết
Việc hiến tặng bộ phận cơ thế hay hiến xác cho khoa học hay chữa bệnh là việc làm
cao thượng của người quá cố, là một quyền dân sự thể hiện sự tự định đoạt của cá nhân,
cần phải được mọi người trong xã hội tơn trọng. Nhưng sự tồn vẹn cơ thế người chết là
một vấn đề nhạy cảm đối với bản thân người chết cũng như đối với gia đình họ. Dân gian

rất kiêng kỵ “cái chết khơng tồn thây” nên dù cho việc hiến bộ phận cơ thế hoặc hiến xác
của người chết là một nghĩa cử cao thượng đi nữa, thì cũng rất dễ bị những người thân
thích nhất phản đối, dẫn đến việc khó mà lấy được xác hoặc bộ phận trên cơ thể của người
chết. Cả về pháp lý và về đạo lý, người ta không thể kiện ra tòa để yêu cầu một phán quyết
1
4


ngay lập tức của tòa án về việc buộc những người thân của người chết phải giao xác người.
Cho dù đã cầm được một quyết định có hiệu lực của tịa án, cơ quan thi hành án cũng khó
có thế cưỡng chế thân nhân người chết phải giao xác chết, trong khi gia đình của họ đang
tố chức việc tang. Neu cứ cưỡng chế để buộc những người này phải giao thi thể của người
chết, thì khơng phù họp với tình cảm và đạo lý con người. Do đó, việc hiến tặng xác và bộ
phận cơ thể như đã nói trên vừa phải được sự đồng ý của người quá cố trước khi chết, đồng
thời phải khơng có sự phản đối của những người thân thích của người chết.
Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “Cá nhân có quyền
hiến bộ phận cơ thế của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích chữa bệnh hoặc
nghiên cứu khoa h ọ c . . T u y nhiên, quy định tại Điều 34 của BLDS 2005 về cá nhân
được hiến cịn có nhiều cách hiếu khác nhau. Có cách hiếu cho rằng, cá nhân ở đây có thế
là bất kỳ ai khơng phân biệt họ bao nhiêu tuổi, miễn là họ không bị nhược điếm về thế chất,
tâm thần và tự nguyện, quan điếm khác lại cho rằng cá nhân hiến bộ phận cơ thế ở đây phải
là người đã thành niên - mới có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiến hành vi. Sở dĩ có
các cách hiếu khác nhau như vậy bởi vì trong Bộ luật chưa quy định điều kiện cụ thể với cá
nhân ở đây là gì về độ tuổi, về năng nhận thức, về sức khoẻ... Như vậy, chúng ta thấy Bộ
luật quy định cũng rất chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thế khi
còn sống hoặc sau khi chết mà không quy định cụ thể về độ tuổi, sức khoẻ đối với người
hiến.

về nội dung và về kỹ thuật liên quan đến vấn đề này, cần phải sửa đổi và bổ sung
những điểm sau đây:

a) Điều kiện về năng lực chủ thế.
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thế sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng,
mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó
phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện khơng thế khơng nói đến
đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiến hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan trọng đế
xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ phận cơ thế hay không.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nuớc hên thế giới có sự quy định khác nhau về
1
5


độ tuổi đối với nguời hiến bộ phận cơ thể khi còn sống, đặc biệt là hiến xác, bộ phận cơ thể
sau khi chết.
Vi dụ: ở nuớc ta, Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể nguời và hiến,
lấy xác năm 2006 quy định: “Nguời từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ có quyền hiến mơ, bộ phận cơ thể của mình khi cịn sống, sau khi chết và hiến xác”.
b) Điều kiện về trình tự.
Những nguời có đủ điều kiện có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến mơ, bộ phận cơ thế
của mình với cơ sở y tế, khi nhận đuợc thông tin của nguời hiến mô, bộ phận cơ thể, cơ sở
y tế có hách nhiệm thơng báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể
nguời. Sau khi nhận đuợc thông báo về truờng họp hiến xác, bộ phận cơ thế nguời, Trung
tâm điều phối quốc gia về bộ phận cơ thế có trách nhiệm thơng báo cho cơ sở y tế có đủ
điều kiện về trang thiết bị, về đội ngũ cán bộ y tế để tiến hành các thủ tục đăng ký cho
nguời hiến. Khi nhận đuợc thông báo của Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ
thể nguời, cơ sở y tế này có trách nhiệm trực tiếp gặp nguời hiến để tu vấn thông tin có liên
quan đến hiến, lấy mơ, bộ phận cơ thể và huớng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; thực
hiện việc kiếm ha sức khoẻ cho nguời hiến (đến đây, nguời hiến mô, bộ phận cơ thể nguời
để đuợc hiến phải đảm bảo đuợc điều kiện về sức khoẻ).
Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thế nguời sau khi chết vào

mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì với điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi
chết vì mục đích chữa bệnh khơng? ở đây, chúng ta có thể dễ dàng trả lời đuợc là giữa
chúng có sự khác nhau bởi mục đích của chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể thấy có nhiều
truờng hợp khơng đủ điều kiện để hiến mơ, bộ phận cơ thể vì mục đích chữa bệnh, nhung
vẫn có thể hiến và đuợc sử dụng và mục đích nghiên cứu khoa học.
c) Điều kiện về sức khỏe.
Việc hiến mơ, bộ phận cơ thế nói chung cũng nhu việc hiến xác, bộ phận cơ thế sau
khi chết nói riêng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc mang lại hay kéo dài sự sống
cho nguời bệnh. Thực tế hên thế giới và ở Việt Nam cũng đã xảy ra những truờng họp việc
lấy, ghép nhầm mô, bộ phận cơ thể của nguời hiến bị bệnh (nan y) cho nguời bệnh đã gây
ra những cái chết rất thuơng tâm hoặc truờng họp bác sĩ lấy nhầm bộ phận cơ thế của nguời
1
6


hiến dẫn tới tính mạng của nguời hiến bị đe dọa nghiêm họng. Do đó, đế bảo đảm tính
mạng, sức khoẻ cũng nhu tinh thần cho nguời hiến, Luật đã đua ra những quy định về hiến
xác, bộ phận cơ thể sau khi chết phải đuợc kiểm ha sức khoẻ, tuy nhiên lại chua quy định
cụ thể nguời hiến cần phải đáp ứng đuợc điều kiện gì về sức khoẻ. Vì vậy cần quy định cụ
thể về điều kiên về sức khỏe của nguời hiến.
Ví dụ: trong việc thực hiện kỹ thuật cấy ghép thận, gan... cho nguời bệnh thì trong
Quyết định này có chỉ rõ là nguời hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan y nhu: viêm
gan B, nhiễm HIV,...
d) Một số kiến nghị.
* về trình tự, thủ tục đổi với người hiển xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:
Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ tục đối với việc hiến mơ, bộ
phận cơ thể nguời cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng nhu quy định về điều kiện đối
với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể nguời để nghiên cứu khoa học. Quy định này rất
quan họng bởi, hiến xác, bộ phận cơ thể nguời vì mục đích chữa bệnh là biện pháp ngăn
chặn hậu quả, thì nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và phòng ngừa bệnh tật.

* về năng lực chủ thế của người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:

về độ tuổi của nguời hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết truờng hợp nguời chết
mà khơng có thẻ đăng ký hiến xác, hiến bộ phận cơ thế nguời sau khi chết, theo em Luật
không nên giới hạn độ tuổi là đủ 18 tuổi trở lên mà nguời duới 18 tuổi cũng có thể đuợc
chấp nhận nếu đuợc gia đình hoặc nguời giám hộ họp pháp của nguời đó đồng ý.

về năng lực chủ thế của nguời hiến là cần thiết trong truờng họp nguời đó hiến mơ,
bộ phận cơ thế của mình khi cịn sống hoặc đăng ký hiến sau khi chết. Tuy nhiên, truờng
họp mà nguời chết khơng đế lại di chúc mà gia đình họ làm đơn hiến mơ, bộ phận cơ thế
của con mình nhằm mục đích cứu chữa nguời bệnh thì vấn đề năng lực nhận thức của
nguời đó lại khơng nên đặt ra, bởi cho dù nguời đó có thể bị rơi vào truờng họp bị tâm thần
hoặc mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng khơng có nghĩa là bộ phận cơ thể nào của
họ cũng bị ảnh huởng hoặc không sử dụng đuợc để cứu chữa nguời bệnh.
* về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết:

1
7


Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với nguời hiến trong q hình hiến
mơ, bộ phận cơ thể nguời nhằm cứu chữa nguời bệnh. Do vậy có thể dễ dàng nhận thấy sức
khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối với mục đích cứu chữa bệnh, bởi nó khơng
chỉ ảnh huởng đến sức khỏe của nguời hiến mà nó cịn ảnh huởng đến sức khỏe của nguời
nhận ghép. Tuy vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục đích nghiên cứu khoa học
thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của nguời hiến, bởi vì đích cuối
cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân và cách thức phịng ngừa bệnh tật
để cứu chữa nguời bệnh. Vì vậy, dù là nguời có bệnh hay khơng có bệnh mà hiến xác, bộ
phận cơ thế sau khi chết nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể
nhận đuợc.

* Một số kiến nghị liên quan khác:
Bên cạnh những kiến nghị trên đế hoàn thiện pháp luật về điều kiện hiến xác, bộ
phận cơ thể nguời sau khi chết, chúng ta cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:
Nên nghiên cứu quy định về điều kiện và hình tự, thủ tục cho phép nguời bị tun tử
hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân
văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận
cơ thế đối với tử tù trong truờng họp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ
tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe... thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn
đề này.
Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử dụng mô, bộ phận cơ thể sau khi
chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất, hiến xác, bộ phận cơ thể là
một trong hai mục đích quan trọng đuợc ghi nhận trong BLDS 2005 (đó là mục đích chữa
bệnh và nghiên cứu khoa học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề này nhằm tránh việc các
tố chức, cá nhân lợi dụng đế bí mật bán mơ, tạng vì mục đích thuơng mại. Đồng thời cũng
nên quy định những truờng họp mà nguời hiến xác, bộ phận cơ thể nguời vì mục đích chữa
bệnh, nghiên cứu khoa học nhung mục đích đó khơng đuợc thực hiện, thì gia đình nguời
hiến có thế đuợc lấy lại xác đế mai táng theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu. Các văn
bản duới Luật cũng cần phải quy định rõ vấn đề này.

1
8


6. Qui định về quyền xác định lại giới tính Điều 36 BLDS.
a) Xác định lại giới tỉnh của một nguời bị khuyết khiếm (sinh học) về giới, muốn
có sự can thiệp bằng y học đế xác định đúng giới tính của mình. Đây là một việc rất cần
thiết, là một quyền nhân thân chính đáng của cá nhân. Cịn thay đổi giới tỉnh là truờng hợp
một nguời có giới tính bình thuờng, nhung khơng chấp nhận giới tính tự nhiên của mình mà
muốn thay đối hiện trạng đó đế chuyến sang giới tính khác. Theo em, khơng nên thừa nhận
quyền tự do thay đối giới tính đối với những nguời bình thuờng mà chỉ nên dừng lại ở việc

cho phép cá nhân đuợc phép xác định lại giới, tính nếu họ bị dị tật bẩm sinh, vì các lẽ sau:
- Một là, việc thay đối giới tính của một nguời sẽ ảnh huởng rất lớn đến nhiều vấn
đề pháp lý phức tạp. Dĩ nhiên, nếu việc đó là cần thiết và mang lại một hiệu quả xã hội thiết
thực cho cá nhân và cho xã hội thì cho dù có phức tạp cũng nên làm. Tuy vậy, trong nhiều
truờng hợp, việc thay đổi giới tính cũng chẳng để làm gì cả. Pháp luật trong truờng họp này
cần phải thế hiện tốt chức năng bảo vệ, ốn định trật tự xã hội mà ngăn cấm các truờng họp
thay đối giới tính chỉ vì ham muốn cá nhân.
- Hai là, việc một nguời bình thuờng muốn thay đối giới tính là một tình trạng bệnh
tâm lý, nên dùng các biện pháp chữa bệnh lý hoặc các liệu pháp thích ứng khác, chứ khơng
nên cứ cho thay đối giới tính là xong. Ai cũng biết việc thay đối giới tính sẽ tạo ra các hệ
quả rất lớn về những biến đối cơ thế, nhu nguời có giới tính bị thay đối sẽ khơng thế thực
hiện đuợc các chức năng của giới tính mới (ví dụ: nguời đàn ơng bị thay đối thành đàn bà
thì khơng thế mang thai và sinh con). Nguời thay đối giới tính phải thuờng xuyên tiêm vào
nguời các chất nội tiết tố cần thiết đế “nuôi’ diện mạo mới của mình cũng nhu đế duy trì thế
trạng của một con bệnh đuợc ghép một bộ phận cơ thế nguời khác trên cơ thế của mình
(hầu nhu phải uống thuốc và tiêm thuốc suốt đời). Cơ thế tự nhiên bình thuờng của tạo hóa
dành cho con nguời là một cơ thế hồn hảo nhất, khơng cần thiết phải có sự can thiệp của
con nguời, hừ những trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh. Do đó, khơng nên qui định mở
đường cho sự can thiệp sâu bằng các biện pháp y khoa vào giới tính của cá nhân, với tư
cách là một giá trị nhân phẩm chung của con người trong xã hội.
- Ba là, điều kiện kinh tế và tâm lý của xã hội Việt Nam chưa cho phép tự do thay
đối giới tính. Trong quan hệ ứng xử xã hội, như trong tình yêu, trong quan hệ giữa họ hàng
1
9


thân thích với nhau mà có người thay đổi giới tính, thì họ sẽ nên gọi như thế nào? Con cái
hoặc anh chị em, bạn bè của người thay đổi giới tính sẽ kêu họ là cha, anh, chú, cậu đối với
một cơ gái đã được thay đổi giới tính để thành đàn ơng? Những người thân sẽ có tâm hạng
và tình cảm như thế nào, nếu người thân của họ thay đối giới tính? Chắc chắn việc thay đối

về giới tính sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, tâm lý và quan hệ thân thích giữa người
thay đối giới tính với cha, mẹ hay con cái của họ. Chưa kế việc thay đối giới tính là cách
thức lẩn tránh pháp luật trong việc kết hôn giữa những người đồng giới. Trong khi đó, đế
có thế thay đối giới tính người ta phải là người có khả năng kinh tế lớn, giàu có vì chi phí
rất lớn và những tốn phí đế duy trì tình trạng này đến suốt cuộc đời. Pháp luật quá mở rộng
quyền tự do thay đổi giới tính thì có thể sẽ xảy ra hậu quả xã hội và các hậu quả pháp lý
khó lường.
Từ ba luận điếm trcn, em cho rằng không nên thừa nhận quyền tự do thay đối giới
tính tại Việt Nam mà chỉ nên cho phép xác định lại giới tỉnh như qui định của là phù họp,
nhưng phải kèm theo những điều kiện và thủ tục chặt chẽ hơn để phòng ngừa những trường
họp lợi dụng qui định này đế thay đối giới tính.
Theo tinh thần của Điều 36 BLDS, cá nhân có quyền xác định lại giới tính, nhưng
xét về mặt pháp lý thực chất là thay đổi giới tỉnh có điều kiện. Bởi lẽ, theo qui định của
điều luật, nhà làm luật thừa nhận “cá nhân có quyền xác định lại giới tính... khi giới tính
của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp
của y học... thì được xác định lại giới tính theo qui định của pháp luật cũng có nghĩa là cho
phép cá nhân được thay đổi giới tính xét về mặt pháp lý, trừ trường họp có kèm những thủ
tục pháp lý cần thiết để kiểm soát việc cho phép xác định lại giới tính. Theo tinh thần của
điều luật như vừa nêu, thì người ta sẽ dễ dàng lợi dụng qui định này để thay đổi giới tính vì
2 lý do sau:
- Giới tính là một yếu tố thuộc về đời tư. Do đó, rất khó phát hiện và khó chứng
minh về việc họ có thực tế thay đối giới tính hay khơng đế làm chứng, khi được yêu cầu
làm chứng về việc chứng minh có sự thay đối giới tính mà khơng tuân thủ các qui định của
pháp luật.

2
0


- Sau khi phẫu thuật thay đổi giới tính, thì những “bằng chứng” hay “dấu vết” đó

khơng cịn ngun tình trạng ban đầu, trong khi người ta cũng không biết chính xác là liệu
trước đó, đương sự có bị “dị tật bẩm sinh ” hoặc bị khiếm khuyết về giới tỉnh “mà chưa thế
xác định chỉnh xác giới tinh ” thật sự hay không. Neu hồ sơ sức khỏe hoặc bệnh án bị làm
sai lệch hay ghi không trung thực, thì cơ quan có thẩm quyền cũng khó có thế kiếm tra, xác
minh được.
Hai yếu điểm nói trên tạo sơ hở để cho nhiều người lợi dụng để dễ dàng thay đối
giới tính cũng như tạo ra một cơ hội thuận lợi mở đường cho các chuyên gia giải phẫu thẩm
mỹ, các cơ sở chữa bệnh thiếu nghiêm túc và thiếu trách nhiệm mở ra các dịch vụ về lĩnh
vực này. Đe tránh khả năng lợi dụng điều luật nhằm thay đối giới tính trái pháp luật đối với
hẻ sơ sinh, thì nội dung Điều 36 BLDS phải được sửa đổi, bổ sung thêm các điều kiện đế
có thế xin xác định lại giới tính, chẳng hạn như phải có kết luận pháp y hoặc kết luận của
một Hội đồng y khoa gồm các bác sỹ chuyên khoa có liên quan. Việc xác định lại giới tính
cũng chỉ nên cho phép thực hiện tại các cơ sở chữa bệnh của Nhà nước hoặc các cơ sở y tế
được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có liên quan đến việc điều
chỉnh lại giới tính.
b) Việc cho phép một người có quyền xác định lại giới tỉnh cũng phải tỉnh đến ỷ chỉ
tự nguyện của người đó hoặc của người đại diện hợp pháp của cá nhân trong trường hợp
họ là người chưa thành niên, cũng như bằng chứng thế hiện sự đồng ỷ đó.
Điều 36 BLDS không qui định nếu người muốn xác định lại giới tính là người chưa
thành niên thì ai sẽ là người quyết định việc xác định lại giới tính cho họ và nếu họ đạt đến
độ tuổi nhất định thì họ có quyền thế hiện ý chí của mình hay khơng? Theo em, chỉ cho
phép cha, mẹ (trong trường hợp không cịn cha, mẹ hoặc cha mẹ khơng có khả năng biếu lộ
ý chí thì do ơng bà nội và ơng bà ngoại có năng lực hành vi dân sự đầy đủ) được quyết định
việc xác định lại giới tính cho con (cháu) chưa thành niên và nếu người có giới tính cần xác
định lại từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có ý kiến của người đó. Theo Điều 36 BLDS thì nhà
làm luật chỉ thừa nhận quyền được xác định lại giới tính là quyền của cá nhân đương sự mà
khơng tính đến trường họp thay đối giới tính của người chưa thành niên. Như vậy, trong
nhiều trường họp, cá nhân khơng có khả năng biểu hiện ý chí, thì quyền này khơng thể
2
1



được thực hiện. Vì thế, cần sửa đổi, bố sung điều luật theo hướng xác định rõ khi cho phép
người chưa thành niên cần được xác định lại giới tính thì ai có quyền cho phép, quyết định
và hình thức thế hiện sự quyết định đó là hình thức gì. Theo em, nên chỉ dành cho cha, mẹ
hoặc trong trường họp khơng có cha mẹ, thì chỉ có ơng bà nội và ơng bà ngoại mới có
quyền quyết định; nếu đó là người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên, thì việc xác định lại
giới tính của người đó phải có ý kiến của họ. Việc xác định lại giới tính khơng nên và
khơng cần thiết đặt ra đối với người thành niên khơng có khả năngnhận thức và điều khiến
hành vi của mình. Neu họ có hí tuệ minh mẫn thì mới đế cho họ tự mình quyết định.
Từ hai luận điểm nêu trên, nên sửa đổi, bổ sung Điều 36 BLDS như sau:
“Cá nhân có quyền xác định lại giới tính.
Người thành niên có quyền tự mình quyết định việc xác định lại giới tinh cho mình.
Người chưa thành niên muốn được thay đối giới tinh phải được sự đồng ỷ bằng văn bản
của cha, mẹ. Nếu người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ hoặc cha mẹ mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc cha mẹ bị tịa án hạn chế quyền
của cha, mẹ thì việc xác định lại giới tinh của người đó phải được sự đồng ỷ của ông bà
nội, ông bà ngoại. Trong trường hợp người chưa thành niên từ đủ chỉn tuối trở lên thì phải
có ỷ kiến của họ về việc đồng ỷ cho xác định lại giới tinh của mình.
Việc xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường họp giới tính
của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp
của y học nhằm xác định rõ về giới tính, khi có sự kết luận của pháp y có thấm quyền. Chỉ
có những cơ sở y tế được cơ quan nhà nước có tham quyền cấp phép hoạt động trong lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe có liên quan mới được phép thực hiện phâu thuật xác định lại giới
tính.
Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo qui định của pháp luật”.
Qui định này vừa bảo đảm quyền đuợc xác định lại giới tính của nguời chua thành
niên, tơn trọng ý chí cá nhân của họ nếu họ đã đạt đuợc một độ tuổi nhất định có thể nhận
thức đuợc phần nào hậu quả của việc xác định lại giới tính (tuơng tự nhu việc hỏi ý kiến
của nguời làm con nuôi theo qui định Điều 71 Luật Hơn nhân và Gia đình,...); đồng thời,

qui định này cũng thể hiện quan điểm hạn chế tối đa các truờng hợp thay đối giới tính
2
2


khơng cần thiết, kiếm sốt chặt chẽ việc thay đối giới tính của các cá nhân trong xã hội
cũng những hoạt động bất họp pháp của những cơ sở y tế thiếu nghiêm túc.
Đồng thời với việc qui định hạn chế thay đối giới tính và các thủ tục bắt buộc phải
tuân thủ khi muốn xác định lại giới tính, thiết nghĩ pháp luật cũng cần chuẩn bị biện pháp
đồng bộ và các chế tài thích ứng khi cá nhân và cơ sở y tế vi phạm các thủ tục về thay đối
giới tính. Chẳng hạn, nếu cá nhân vi phạm thủ tục thay đối giới tính thì có đuợc xin đăng
ký lại giới tính hay khơng? Neu cho đăng ký lại giới tính thì có bị xử lý hành chính hay
khơng? Trong truờng hợp các cơ sở y tế (trong nuớc) thay đối giới tính của nguời có u
cầu xác định lại giới tính mà việc đó là khơng đúng thủ tục hoặc thuộc truờng họp khơng
có quyền đuợc thay đổi giới tính, thì biện pháp chế tài nào sẽ đuợc áp dụng?...
7. Quyền bí mật đời tư.
Có ý kiến cho rằng bí mật đời tu của cá nhân đuợc hiếu là những gì gắn với nhân
thân con nguời (thơng tin, tài liệu, hình ảnh về cá nhân, việc làm, tình yêu, gia đình, các
mối quan hệ... gắn liền với một cá nhân) mà nguời này giữ kín, khơng muốn đế lộ cho
nguời khác biết. Nói nơm na, bí mật đời tu có thế hiếu là chuyện riêng của nguời này mà
không muốn cho nguời khác biết. Thế nên bất cứ ai thu thập, công bố thông tin, tu liệu về
đời tu cá nhân nguời khác (không cần phân biệt những thông tin, tu liệu ấy đang đuợc cá
nhân đó giữ bí mật hay đã đuợc cá nhân đó để lộ ra) mà không đuợc sự đồng ý của cá nhân
đó đều là xâm phạm bí mật đời tu.
Thế nhung có khơng ít ý kiến lại cho rằng hiếu nhu thế thì hầu nhu cái gì cũng có
thế bị coi là bí mật đời tu của cá nhân bởi phần lớn sự việc, sự kiện xảy ra trong cuộc sống
đều xuất phát và gắn liền với cá nhân. Hiếu nhu thế sẽ khơng khóp với thực tế, pháp luật và
khơng cịn “đất sống, đất viết” cho nhiều nguời, nhất là nhà báo, nhà nghiên cứu...
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chua có quy định rõ ràng về bí mật đời tu là gì,
phạm vi của bí mật đời tu là nhu thế nào, mà chỉ có một số quy định nhu trong Bộ luật Dân

sự (Điều 38), Luật Giao dịch điện tử (khoản 2 Điều 46) quy định quyền bí mật đời tu của
cá nhân đuợc tơn trọng và đuợc pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tu liệu
về đời tu cá nhân phải đuợc nguời đó đồng ý, hừ truờng họp pháp luật có quy định khác;
thu từ, điện thoại, điện tín, các hình thức thơng tin điện tử khác của cá nhân đuợc bảo đảm
2
3


an tồn, bí mật và việc kiểm sốt các loại này đuợc thực hiện khi pháp luật có quy định và
phải có quyết định của cơ quan nhà nuớc có thẩm quyền.
Riêng Bộ luật Hình sự (Điều 125) có quy định: Nguời nào có hành vi trái pháp luật
xâm phạm bí mật hoặc an tồn thu tín, điện thoại, điện tín của nguời khác đã bị xử lý kỷ
luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà cịn vi phạm thì tùy trường hợp sẽ bị phạt
cảnh cáo, phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến
một năm, phạt tù đến hai năm.
Những khiếm khuyết nói trên đã dẫn đến nhiều quan điếm khác nhau trong việc xác
định bí mật đời tư của cá nhân và phạm vi của nó. Điều đáng nói là một khi pháp luật chưa
xác định được rõ ràng những khái niệm này thì việc bảo vệ quyền bí mật đời tư, xử lý các
trường họp được xem là xâm phạm bí mật đời tư không khỏi dẫn đến những hanh cãi, bất
nhất, không nghiêm minh.
Trong hồn cảnh pháp luật hiện chưa có quy định rõ ràng về khái niệm và phạm vi
“bí mật đời tư của cá nhân” thì xét ở góc độ nghĩa của từ ngữ theo từ điến tiếng Việt, bí mật
đời tư của cá nhân được hiểu là những gì thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân (thông tin,
tư liệu...) được giữ kín, khơng cơng khai, khơng tiết lộ ra. Cịn nếu các thơng tin, tư liệu
cá nhân đã được cơng khai, lộ ra thì khơng cịn là bí mật đời tư nữa. Do đó, cần hiếu bí mật
đời tư của cá nhân là những thông tin, tư liệu mà chỉ mỗi cá nhân đó biết và quyết giữ bí
mật. Cịn nếu đó là chuyện diễn ra nơi cơng cộng, là chuyện mà cá nhân đó đã đế lộ ra cho
người khác biết thì khơng cịn là bí mật đời tư nữa.
Lý giải thêm vấn đề này, có ý kiến viện dẫn Thông tư số 09/2005/TT-BCA ngày 5-92005 của Bộ Công an quy định về nơi công cộng là: “Các khu vực, địa điểm phục vụ chung
cho mọi người như vỉa hè, lòng đường, quảng hường, cơ sở kinh tế, văn hóa, nơi sinh hoạt

cộng đồng; tại khu vực trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội hoặc tại những nơi
cơng cộng khác”.
Trên cơ sở đó, ý kiến này đã cho rằng bất cứ cá nhân nào, nhất là người của công
chúng như văn nghệ sĩ mà xuất hiện ở nơi công cộng (như cách hiếu nói trên) và có lời nói,
hành động hoặc khơng hành động gắn liền với việc làm phát sinh, thay đối, chấm dứt một
sự việc, sự kiện nào đó thì những gì liên quan đến họ khơng cịn là bí mật đời tư nữa.
2
4


Ví dụ: Nghệ sĩ

c nói về một vấn đề riêng tư tại nhà riêng và lưu giữ tại nhà đó thì

người khác muốn sử dụng để đăng báo phải xin phép nghệ sĩ đó. Thế nhưng nếu những
thơng tin đó, nghệ sĩ ấy công khai tại quảng trường, nhà hát thì khơng cịn là bí mật đời tư
nữa và nếu người khác thu thập, cơng bố mà khơng có ý kiến của người đó thì khơng xem
là xâm phạm bí mật đời tư.
Trong lúc chờ đợi các nhà làm luật, hướng dẫn luật có thẩm quyền có giải pháp thỏa
đáng về vấn đề này, ca sĩ, diễn viên...nói riêng và những người bị xâm phạm quyền bí mật
đời tư (tùy theo nội dung bị xâm phạm là gì) có thể áp dụng các quy định của Bộ luật Dân
sự, Luật Báo chí, Luật Giao dịch điện tử... để bảo vệ mình. Neu như báo, đài... đưa tin, viết
bài về mình không đúng sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thì có
quyền căn cứ vào các luật này để yêu cầu cải chính, xin lỗi, đăng lời phát biểu của mình,
địi bồi thường thiệt hại. Neu u cầu đó khơng được chấp nhận thì có quyền khiếu nại đến
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí hoặc khởi kiện tại tịa án có thẩm quyền.
8. Quền nhân thân về hôn nhân và gia đinh theo quy định trong BLDS.
Từ thời cổ đại, hôn nhân và gia đình (sau đây gọi chung là gia đình) ln đóng một
vai trị quan trọng trong hình thành, ni dưỡng và phát triến nhân cách con người, là nơi
hội tụ các giá trị đạo đức, phong tục, tập quán truyền thống và hiện đại. Bất kỳ một cá nhân

nào với tư cách là chủ thế cơ bản của xã hội đều mang dấu ấn từ gia đình.
Ở Việt Nam, trong lịch sử và hiện tại, gia đình đã ln được xác định là thiết chế xã
hội rất quan trọng - Te bào của xã hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, chế độ
xã hội nào, gia đình ln được Nhà nước quan tâm tác động bằng chính sách, điều chỉnh
bằng pháp luật. Quyền con người về hơn nhân và gia đình ở Việt Nam cũng được đặt trong
tiến trình đó và mang những đặc điếm cơ bản sau:
Thứ nhất, mức độ công nhận và thực thi quyền con người về hơn nhân và gia đình ở
Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào bản chất của chế độ xã hội qua mỗi giai đoạn phát triển
của đất nước.
Thứ hai, quyền con người về hôn nhân và gia đình ở Việt Nam thường được đặt
trong lợi ích chung của gia đình và xã hội.

2
5


×