Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Ren ki nang giai toan co loi van cho hoc sinh lop 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.34 KB, 19 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức theo xu thế toàn cầu hoá trong những năm của thế kỷ XXI, chương trình giáo dục nói chung, chương trình toán tiểu học nói riêng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đó. Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán là công cụ để học tốt các môn học khác. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho con người như cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nền nếp và tác phong khoa học. Vì vậy môn toán là một môn học không thể thiếu trong tất cả các cấp học. Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, có nhiều ứng dụng trong đời sống về các số tự nhiên, các số thập phân, phân số, các đại lượng cơ bản, và một số yếu tố hình học. Học sinh biết cách đọc, viết, so sánh các số tự nhiên, phân số, số thập phân. Biết thực hành tính nhẩm, tính viết về bốn phép tính với các số tự nhiên,số thập phân, số đo các đại lượng , các yếu tố hình học. Biết cách giải và trình bày bài giải với những bài toán có lời văn. Trong đó giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như: các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học...đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưa điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Giải toán có lời văn là hoạt động bao gồm những thao tác: xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái phải tìm, chọn được phép tính thích hợp, trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Vì vậy đây là một hoạt động tương đối phức tạp và khó đối với học sinh Tiểu học. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 2, tư duy của các em cũn nặng về tư duy cụ thể, tư duy ngôn ngữ trừu tượng còn nghèo nàn và non nớt mà các em đã phải tiếp xúc với nhiều loại toán khác nhau. Vì vậy, nếu các em được rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn một cách tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo ngay từ lớp 2 sẽ là bước tạo đà vững chắc để các em giải toán có lời văn ở các lớp tiếp theo được tốt hơn. Có nhiều biện pháp giúp học sinh giải đúng các bài toán có lời văn phù hợp với đặc điểm tư duy của học sinh bậc Tiểu học, đem lại niềm vui và hứng thú trong học tập cho học sinh. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2” làm đề tài nghiên cứu của mình Đây là một đề tài thiết thực mà người giáo viên nào cũng cần lưu tâm tới. Vì khi tư duy các em sẽ tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện ra những cái mới giúp các em say mê và hứng thú với môn học được coi là khô khan này. Đây cũng là điều kiện thúc đẩy giúp các em học tốt môn Toỏn. Đó là lý do khiến tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài này. II. Mục đích của đề tài: - Rèn kĩ năng giải toán thành thạo. - Nắm chắc các dạng toán điển hình và phương pháp giải toán của từng dạng bài. Biết trình bày bài giải đẩy đủ gồm các câu lời giải (mỗi phép tính đều có lời văn) và đáp số theo đúng yêu cầu của bài toán..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Mở rộng vốn kiến thức về giải toán: biết lập đề toán khác, tìm nhiều cách giải một bài toán (nếu có)... - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học theo phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh, không những chỉ giúp các em lĩnh hội được tri thức mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các tri thức đó. III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng: Học sinh lớp 2B - Tài liệu: Sách giáo khoa Toán, Sách giáo viên, sách Toán nâng cao, Toán tuổi thơ, 400 bài toán dành cho học sinh khá giỏi,... - Thời gian nghiên cứu: Tháng 9 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015. IV. Phương pháp nghiên cứu: 1. Nghiên cứu tài liệu: - Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có nội dung liên quan đến đề tài. - Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo như: Toán nâng cao lớp 2, Toán tuổi thơ, Toán bồi dưỡng học sinh lớp 2, Giúp em vui học toán, Phát triển trí thông minh, 400 bài toán dành cho học sinh khá giỏi lớp 2, ... 2. Nghiên cứu thực tế: - Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp. - Mạnh dạn dạy chuyên đề của tổ để đồng nghiệp góp ý. - Tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học. - Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> B. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ. 1. Cơ sở khoa học: Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt...góp phần giáo dục ý trí nhẫn nại, ý trí vượt khó khăn. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững thích học nhưng chóng chán. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Xuất phát từ cuộc sống hiện tại. Đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá, thông tin...đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ, dám làm năng động chủ động sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy học Toán nói riêng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả dạy - học. Chính vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng học toán cho học sinh. 2. Cơ sở thực tiễn: a. Thuận lợi: - Được sự quan tâm của nhà trường các đồ dùng cho dạy học toán tương đối đầy đủ. - Cơ sở vật chất đảm bảo. - Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, đồ dùng học toán. - Phần lớn học sinh thích học môn Toán..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 2. Khó khăn: - Môn toán là môn học khô khan, học sinh dễ chán. - Trình độ nhận thức học sinh không đồng đều. - Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. - Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán. - Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp, hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ xảo tính, vì các bài toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu rồi áp dụng, mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy luận của học sinh, đòi hỏi biết làm tính thông thạo. - Từ lớp 1 các em đã được làm quen với việc giải toán có lời văn nhưng chỉ là những bài toán hết sức đơn giản chỉ có 1 bước tính. Lên lớp 2, các em bắt đầu gặp thêm nhiều dạng toán phức tạp hơn, quá trình giải phải thực hiện nhiều bước tính. Do đó các em gặp phải không ít những khó khăn trong việc giải những bài toán này. II. KHẢO SÁT THỰC TẾ:. 1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài: Học sinh Tiểu học có trí thông minh, khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy Toán học nhưng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức truyền tải, truyền đạt làm thế nào cho phù hợp với tâm lí lứa tuổi là điều kiện không thể xem nhẹ. Đặc biệt với học sinh lớp 2, lớp mà các em vừa mới vượt qua những mới mẻ ban đầu chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động học tập. Muốn giờ học đạt hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học “Phát huy tính tích cực của học sinh” hướng tập trung vào học sinh trên cơ sở hoạt động của các em. Ngay từ khi được bồi dưỡng để phục vụ yêu cầu giảng dạy theo chương trình mới, tôi đá quan tâm đến khả năng giải toán có lời văn của học sinh. Qua.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> các giờ lên lớp, khi hướng dẫn các em giải toán có lời văn, tôi thấy các em còn lúng túng, nhiều em chưa biết cách giải một bài toán có lời văn hoàn chỉnh. Có em làm sai lời giải mặc dù phân tích đúng hoặc có em lời giải đúng nhưng phân tích lại làm sai... Qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm, kiểm tra vở toán và vở Cùng em học toán của học sinh cũng như gọi học sinh làm bài tập thì tôi thấy đa số học sinh chưa có kĩ năng giải toán có lời văn hoặc có thì bài giải chưa hoàn chỉnh, chưa chặt chẽ, chưa biết cách tự kiểm tra kết quả bài làm của mình xem minh giải đúng hay sai. Nhiều học sinh chưa hiểu được bản chất của bài toán nên chưa sáng tạo trong việc tìm cách giải. Đa số học sinh chưa biết cách tóm tắt bài toán hoặc khi giải các em ghi lời giải chưa chính xác, nhiều khi còn xác định sai đơn vị của đại lượng... Thống kê kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm của 40 học sinh lớp 2B về giải toán có lời văn tôi đó tổng hợp và đánh giá xếp loại như sau: Sĩ số 40. Bài đúng, đầy đủ. Bài đúng, chưa đầy đủ. Bài giải sai. SL. %. SL. %. SL. %. 10. 25. 20. 50. 10. 25. Kết quả như trên cho thấy việc giải toán có lời văn của học sinh lớp 2B chưa cao. Số học sinh giải đúng còn chiếm tỉ lệ thấp. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là: - Việc tiếp thu bài trên lớp và tự học ở nhà còn yếu. - Giáo viên chưa có những biện pháp hướng dẫn cụ thể phù hợp để các em phát triển năng lực tư duy của mình - Phụ huynh và giáo viên còn chưa động viên, khuyến khích kịp thời khi các em học tốt. Trước những thực trạng đó, tôi nhận thấy mình cần phải có những giải pháp giúp các em rèn kỹ năng giải toán có lời văn đạt hiệu quả cao nhất. III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, qua điều tra thực trạng ban đầu, tôi đã nghiên cứu và tìm ra các giải pháp giúp học sinh thực hiện đúng các bài toán có lời văn. - Khi giải một bài toán phải tuân thủ theo các bước:.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Bước 1: Đọc kĩ đề, phân tích các yếu tố của bài toán. Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng cách dễ hiểu nhất. Bước 3: Phân tích bài toán để nhận dạng toán và tìm cách giải Bước 4: Giải bài toán và thử lại các kết quả. Bước 5: Khai thác - mở rộng bài toán. - Nắm chắc phương pháp giải của từng dạng toán điển hình. - Ngoài ra tôi còn thực hiện một số giải pháp khác: + Phân công học sinh khá giỏi kèm cặp , giúp đỡ những học sinh học yếu kém với hình thức “Đôi bạn cùng tiến” + Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh + Phối hợp với nhà trường và Đoàn, Đội Sau đây là một số biện pháp tôi thực hiện rèn kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 2: IV. CÁC GIẢI PHÁP KHOA HỌC TIẾN HÀNH:. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, qua điều tra thực trạng ban đầu, tôi đã nghiên cứu và tìm ra các giải pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh. Trước hết muốn giải được bài toán có lời văn, giáo viên cần cho học sinh nắm được đường lối chung để giải bài toán có lời văn được thực hiện 5 bước sau: Bước 1: Tìm hiểu đề: Học sinh phải đọc kỹ đề toán để phân biệt dữ kiện của bài - xác định được cái đã cho và cái phải tìm. Bước 2: Phân tich bài toán Sau khi học sinh đọc bài toán, giáo viên cần đặt câu hỏi gợi mở để học sinh hiểu được đề bài. + Bài toán cho ta biết gì ? + Bài toán hỏi điều gì ? + Muốn giải được bài toán ta phải sử dụng phép tính nào ? Để tránh nhàm chán các câu hỏi lặp lại nhiều lần, giáo viên cần thay đổi câu hỏi để phát huy tư duy của học sinh. Ta có thể hỏi ngược lại:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> + Bài toán hỏi điều gì ? + Ta biết điều gì ở bài toán ? + Muốn giải được bài toán trước hết ta phải tìm gì ? Khi học sinh đó hiểu được bài toán, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán. Bước 3: Tóm tắt bài toán Việc này giúp các em bỏ bớt được những câu, những chữ không thật quan trọng trong đề toán, biểu thị được bằng lời hoặc hình vẽ các mối quan hệ trong bài toán, làm cho bài toán được rút gọn lại, mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Các em nhìn tóm tắt có thể đọc lại bài toán một cách chính xác (học sinh sẽ giải bài toán dễ dàng hơn). Ở phần này, giáo viên cần cho học sinh biết nhiều cách tóm tắt khác nhau. Ví dụ: Bài 4 (SGK - trang 14) - Một lớp học có 14 học sinh nữ và 16 học sinh nam. Hỏi lớp đó có tất cả bao nhiêu học sinh ? Cách 1: Nữ: 14 học sinh Nam: 16 học sinh Tất cả: .... học sinh ? ? học sinh Cách 2: 14 nữ Cách 3:. 14. 16 nam. Nữ. Nam. 16. ? HS Bước 4: Giải bài toán Các em dựa vào tóm tắt để viết bài giải Lớp học đó có số học sinh là: 14 + 16 = 30 (HS) Đáp số: 30 học sinh Bước 5: Thử lại kết quả.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Tức là học sinh kiểm tra xem kết quả tính đó đúng chưa ? Lời giải đó chuẩn chưa ? và đáp số đầy đủ chưa ? Ở ví dụ trên ta lấy tổng số học sinh cả lớp trừ đi số học sinh nữ mà ra số học sinh nam là đúng hoặc ngược lại. Trong 5 bước trên thì các em làm vào vở bước 3 và bước 4.Còn các bước khác các em chỉ suy nghĩ làm miệng hoặc làm nháp. Khi học sinh đã nắm vững 5 bước của một bài toán có lời văn với từng loại bài khác nhau. Khi giải xong giáo viên cần chốt cho học sinh những điều cơ bản cần ghi nhớ. 1- Loại “Bài toán về nhiều hơn” Khi dạy “Bài toán về nhiều hơn”, giáo viên giúp học sinh biết cách xác định: số lớn, số bé, phần “nhiều hơn”. Vậy khi dạy dạng toán này học sinh chỉ cần vận dụng công thức Số lớn = số bé + phần “nhiều hơn” Bài toán 1: Hòa có 4 bông hoa, Bình nhiều hơn Hòa 2 bông hoa. Hỏi Bình có bao nhiêu bông hoa ? Tóm tắt: Hòa:. 4 bông hoa 2 bông hoa. Bình. ? bông hoa Ở đây số lớn là số hoa của ai ? Số bé là số hoa của bạn nào ? Vậy tìm số hoa của Bình bằng cách nào ? Học sinh giải: Bình có số bông hoa là: 4 + 2 = 6 (bông hoa) Đáp số: 6 bông hoa Để tránh cho học sinh dập khuôn máy móc cứ thấy bài toán có “nhiều hơn” là sử dụng phép cộng. Buổi chiều có tiết hướng dẫn học tôi luyện thêm cho các em bài toán khác..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Bài toán 2: Tùng có 15 viên bi, Tùng nhiều hơn Toàn 3 viên bi. Hỏi Toàn có bao nhiêu viên bi ? Với bài toán này, sau khi đọc kĩ đề, phân tích thì học sinh sẽ tóm tắt như sau:.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Tóm tắt:. 15viên bi. Tùng 3 viên. Toàn ? viên bi. Khi đã tóm tắt được bài toán, nhìn sơ đồ, học sinh sẽ dễ dàng giải hơn. Bài giải Toàn có số viên bi là : 15 - 3 = 12 (viên bi) ĐS : 12 viên bi Mặt khác rèn thêm kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh dạng này, tôi đưa thêm bài toán trắc nghiệm sau : Bài toán 3 : Khoanh vào chữ đặt trước kết quả đúng. Lan có 19 bông hoa, Huệ nhiều hơn Lan 3 bông hoa. Hỏi Huệ có bao nhiêu bông hoa ? A. 2 bông hoa. B. 16 bông hoa. C. 22 bông hoa. Học sinh phải khoanh vào đáp án C vì số hoa của Huệ bằng 19 + 3 = 22 2. Loại "Bài toán về ít hơn" Dạng này, học sinh cũng xác định số lơn, số bé, phần ít hơn” và ghi nhớ : Số bé = Số lớn - phần “ít hơn”. Trong công thức toán này, để vận dụng tốt vào những bài học sau, mỗi học sinh cần có tư duy chặt chẽ để xác định được đâu thực sự là “Bài toán về nhiều hơn” và đâu là “Bài toàn về ít hơn” để có cách giải đúng, tránh nhầm lẫn. Vậy người giáo viên cần hướng dẫn để các em phân tích được bài toán, tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, nhìn vào tóm tắt để xác định yêu cầu của bài toán cho đúng. Bài toán 1: Vườn nhà Nga có 17 cây cam, vườn nhà Mai ít hơn vườn nhà Nga 6 cây cam. Hỏi vườn nhà Mai có bao nhiêu cây cam ? Tóm tắt:. 17 cây. Vườn nhà Nga: 6 cây. Vườn nhà Mai ? cây.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Nhìn vào sơ đồ đoạn thẳng học sinh xác định được số lớn là số cây vườn nhà Nga, số bé là số cây vườn nhà Mai, số phần ít hơn là 6 cây. Từ đó học sinh giải bài rất dễ dàng. Bài giải: Vườn nhà Mai có số cây là : 17 - 6 = 11 (cây) ĐS : 11 cây Cũng giống như dạng “Bài toán về nhiều hơn” sau khi làm xong tôi yêu cầu học sinh thử lại bằng cách lấy số cây vườn nhà Mai vừa tìm được cộng với 6 cây mà ra số cây vườn nhà Nga thì bài toán giải đúng. Ngoài dạng cơ bản này, để rèn thêm kĩ năng giải bài toán, chiều đến tôi cho học sinh làm thêm dạng khác như sau: Bài toán 2: Tấm vải xanh dài 34 dm, như vậy dài hơn tấm vải đỏ 13dm. Hỏi tấm vải đỏ dài bao nhêu đề xi mét ? - Yêu cầu: Học sinh đọc kĩ bài toán, phân tích tìm số lớn, số bé và hỏi thêm: “Em hiểu tấm vải xanh dài 34dm như vậy dài hơn tấm vải đỏ 13dm nghĩa là thế nào ?”. Học sinh hiểu được là vải đỏ ngắn hơn vải xanh 13 dm. Từ đó các em sẽ tóm tắt được. 34 dm Vải xanh:. 13dm. Vải đỏ: ? dm Bài giải:. Tấm vải đỏ dài số đề xi mét là: 34 - 13 = 21 (dm) ĐS: 21 dm 3. Loại “Tìm số hạng chưa biết” Với dạng này học sinh đọc bài toán xong phải xác định được tổng và một số hạng đã biết để tìm số hạng kia. Công thức: Số hạng = Tổng - Số hạng đã biết Bài toán 1: Một đàn gà có tất cả 45 con, trong đó 25 gà mái. Hỏi có bao nhiêu con gà trống ?.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Tóm tắt:. 45 con gà. 25 gà mái .... gà trống ?. Bài giải:. Gà trống có số con là 45 - 25 = 20 (con) ĐS : 20 con gà trống. Ở đây ta thấy 25 con gà mái + số con gà trống = tất cả đàn Do đó :. 45 con gà là tổng 25 con gà mái là số hạng đã biết. Số con gà trống là số hạng chưa biết.. Khi hiểu được như vậy, học sinh dễ dàng tìm ra cách giải bài toán này dựa vào cách tìm số hạng chưa biết trong một tổng và tương tư như vậy đối với những bài toán khác, học sinh cũng phân tích và đưa về dạng bài đã học để giải toán đúng. Khi cả lớp đã thành thạo giải bài toán có lời văn dạng đơn giản, tôi đưa những bài nâng cao giúp học sinh tư duy tốt, rèn kỹ năng giải toán tốt hơn. Bài toán 2 : Hồng và Lan có tổng cộng 18 quyển vở. Hồng sử dụng hết 6 quyển, Hồng còn lại 4 quyển. Hỏi Lan có bao nhiêu quyển vở ? Với bài toán khó, giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh phân tích rồi mới tóm tắt. + Muốn tìm số vở của Lan, trước hết phải tìm số vở của ai ? + Tìm số vở của Hồng bằng cách nào ? + Vậy bài toán phải giải bằng mấy phép tính ? Tóm tắt :. Bài giải :. Hồng + Lan :. 18 quyển. Hồng dùng :. 6 quyển. Hồng còn :. 4 quyển. Lan :. .... quyển ? Số quyển vở của Hồng là : 6 + 4 = 10 (quyển) Lan có số quyển vở là : 18 - 10 = 8 (quyển) ĐS : 8 quyển. Điều cần ghi nhớ : Lấy tổng trừ đi số hạng đã biết..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> 5. Loại “Tìm số bị trừ chưa biết” Bài toán 1: Hùng có 25 viên bi, Hùng cho Dũng một số viên bi, Hùng còn lại 18 viên bi. Hỏi Hùng cho Dũng bao nhiêu viên bi ? Tóm tắt: Có. :. 25 viên bi. Cho :. .... viên bi ?. Còn :. 18 viên bi.. Bài giải: Hùng cho Dũng số viên bi là 25 - 18 = 7 (viên bi) ĐS: 7 viên bi Với bài này ta thấy: 25 viên bi - số bi đã cho = 18 viên bi Do đó:. 25 viên bi là số bị trừ Số viên bi Hùng đã cho là số trừ chưa biết. 18 viên bi còn lại là hiệu.. Điều cần ghi nhớ: Lấy số bị trừ trừ đi hiệu. Sau khi các em đã thành thạo quy trình giải một bài toán có lời văn, tôi tiếp tục củng cố, mở rộng cho học sinh giải bài toán bằng nhiều cách khác nhau. Bài toán 2: Một xe ô tô chở khách, trên xe có 38 người (kể cả tài xế). Đến một bến có 4 người xuống và 7 người lên. Hỏi lúc này trên xe có bao nhiêu người ? Bài giải: Cách 1:. Có 4 người xuống thì trên xe còn số người là 38 - 4 = 34 (người) 7 người lên xe thì trên xe có số người là 34 + 7 = 41 (người) Đáp số: 41 người. Cách 2:. Có 4 người xuống và 7 người lên thì số người tăng lên là: 7 - 4 = 3 (người) Lúc này trên xe có số người là: 38 + 3 = 41 (người).

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Đáp số: 41 người 6. Loại “Tìm thừa số chưa biết” Bài toán 1: Có 12 kg gạo chia đều vào 3 túi. Hỏi mỗi túi có mấy ki lô gam gạo? Tóm tắt:. 12 kg. :. 3 túi. .... kg ?. :. 1 túi. Bài giải: Mỗi túi có số ki lô gam gạo là 12 : 3 = 4 (kg) ĐS: 4 kg Bài này ta thấy:. 12 kg là tích 3 túi là thừa số đã biết Số kg gạo trong 1 túi là thừa số chưa biết.. Điều cần ghi nhớ: Lấy tích chia cho thừa số đã biết. Bài toán 2: Tìm đáp số bài toán Có một sợi dây dài 18 dm được cắt thành các đoạn bằng nhau, mỗi đoạn dài 3 dm. Hỏi sợi dây đó cắt được mấy đoạn ? A. 5 đoạn. B. 6 đoạn. C. 7 đoạn. - Học sinh giải ra nháp và khoanh vào đáp án B. 7. Loại “Tìm số bị chia” Bài toán 1: Có một số ki lô gam đường đựng đều trong 4 bao mỗi bao 5 kg đường. Hỏi tất cả bao nhiêu ki lô gam đường ? Tóm tắt:. 1 bao :. 5 kg. 4 bao :. .... kg ?. Bài giải: Tất cả có số ki lô gam đường là 5 x 4 = 20 (kg) ĐS: 20 kg Điều cần ghi nhớ: Lấy thương nhân với số chia..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bài toán 2: Mẹ có một chùm nho, mẹ chia đều cho 3 con, mỗi con được 5 quả, còn thừa 2 quả. Hỏi chùm nho có bao nhiêu quả ? Với bài toán này học sinh phải đọc thật kĩ, phát hiện khác dạng thông thường ở điểm nào để phân tích rồi giải. Bài giải: 3 người con được số quả là 5 x 3 = 15 (quả) Chùm nho có số quả là 15 + 2 = 17 (quả) ĐS: 17 quả Khi các em đã thành thạo quy trình và kỹ năng giải toán có lời văn, tôi cho học sinh lập và biến đổi bài toán bằng những hình thức khác nhau như: + Đặt điều kiện cho bài toán. + Đặt câu hỏi cho bài toán mới chỉ biết số liệu hoặc điều kiện. + Chọn số hoặc số đo đại lượng cho bài toán còn thiếu số liệu. + Lập bài toán tương tự với bài toán đã giải. + Lập bài toán bằng tóm tắt hoặc sơ đồ minh họa. + Lập bài toán theo cách giải cho sẵn. Tất cả những giải pháp trên tôi tiến hành ở các giờ học Toán trên lớp, tiết hướng dẫn học Toán, ra bài về nhà cho học sinh. Ngoài các biện pháp trên, tôi còn đưa ra: 8. Phân công học sinh khá giỏi kèm cặp , giúp đỡ những học sinh học yếu kém với hình thức “Đôi bạn cùng tiến” Hình thức này tuy cũ nhưng có hiệu quả. Bởi những em học sinh khá giỏi nắm bài nhanh hơn; mà không phải lúc nào giáo viên cũng có điều kiện để hướng dẫn các em chi tiết từng bài một; nên với những học sinh trung bình hoặc yếu các em có thể chưa nắm được bài ngay. Vậy nên tôi giao nhiệm vụ cho những em có học lực khá, giỏi về môn Toán giúp đỡ những em học sinh yếu, cụ thể như sau: Vào những phút truy bài đầu giờ, từng nhóm (theo sự phân công của giáo viên) sẽ nêu lại cách làm những bài toán có lời văn từ tiết trước, nếu em nào không nêu được thì học sinh khá giỏi trong nhóm đó sẽ hướng dẫn và chỉ cho bạn. Sau đó có thể xem trước bài chuẩn bị học để hiểu.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> bài nhanh hơn. Nhóm nào có nhiều bạn tiến bộ sẽ được tuyên dương, khen thưởng trước lớp vào những buổi sinh hoạt cuối tuần. Như vậy các em sẽ hứng thú hơn với môn học và có ý thức học bài tốt hơn. 9. Thường xuyên trao đổi với phụ huynh học sinh: Đối với học sinh tiểu học các em mau nhớ, song cũng chóng quên. Có thể ở trên lớp các em đã hiểu bài nhưng sau đó lại có thể quên ngay. Nên giáo viên phải phối hợp với phụ huynh để có biện pháp giúp con em mình học bài tốt hơn. Bởi có rất nhiều em, tuy ngồi vào bàn học nhưng không biết phải làm gì hoặc nghịch ngợm không tập trung vào bài, nên phụ huynh phải trực tiếp kiểm tra và hướng dẫn các em cách học. Ví dụ cho các em bài toán có dạng tương tự như bài các em đã học để kiểm tra xem em đó có nắm được bài hay không,... Và đề nghị phụ huynh trao đổi với giáo viên về việc học tập của con em mình ở nhà để đưa ra những biện pháp tốt nhất cho việc học tập của các em. Trong các giờ lên lớp, khi học kiến thức mới có liên quan đến kiến thức cũ, giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại từ đó giúp học sinh nhớ lại kiến thức đã học và khắc sâu kiến thức mới cho các em hơn 10. Phối hợp với nhà trường và Đoàn, Đội tổ chức những cuộc thi như: "Thi giải toán nhanh" hoặc tổ chức các "Câu lạc bộ toán học" để tạo điều kiện mở rộng, nâng cao hơn kiến thức về môn Toán cho học sinh lớp 2 nói riêng và cho học sinh cả trường nói chung. Có những hình thức khen thưởng hợp lý nhằm động viên khuyến khích để các em say mê hơn với môn học vẫn cho là khô khan này. V. KẾT QUẢ THỰC HIỆN. Qua quá trình vừa nghiên cứu, vừa áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy Toán 2, tôi đã thu được kết quả khả quan. Hầu như học sinh trong lớp đã nắm chắc quy trình giải một bài toán có lời văn, đã biết đọc kĩ đề toán, tóm tắt bài toán bằng nhiều cách, biết nhận dạng bài toán thuộc loại toán nào trước khi giải, lời giải đúng và đầy đủ, kết quả chính xác. Nhiều em khá, giỏi đã giải bài toán khó bằng nhiều cách, phát hiện cách giải nhanh và hay. Chính vì vậy đã tạo được niềm vui, niềm tin và say mê trong học toán nói chung và giải toán có lời văn nói riêng. Qua các bài kiểm tra trên lớp, qua việc chấm vở của học sinhcũng như gọi học sinh lên bảng làm bài... tôi thấy đa số các em làm đúng và đầy đủ, chỉ còn rất ít em giải chưa đầy đủ hoặc giải sai..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Bằng phương pháp thống kê toán học trên 40 bài kiểm tra cuối học kì 1 và những bài kiểm tra thường xuyên, tôi thu được kết quả ở bảng sau: Sĩ số 40. Bài đúng, đầy đủ. Bài đúng, chưa đầy đủ. Bài giải sai. SL. %. SL. %. SL. %. 30. 75. 8. 20. 2. 5. Dựa vào kết quả trên và dựa vào tình hình học trên lớp của học sinh tôi nhận thấy kĩ năng giải toán có lời văn của các em tăng lên rõ rệt. Cụ thể + Số học sinh giải đúng, đầy đủ tăng 50% + Số học sinh giải bài sai giảm: 20 % Như vậy việc áp dụng giải pháp giúp học sinh lớp 2 rèn kỹ năng giải toán có lời văn đã mang lại hiệu quả tốt. C. KẾT LUẬN Giải toán có lời văn là một hoạt động năng động, sáng tạo nhất trong hoạt động trí tuệ của học sinh Tiểu học nói chung và của học sinh lớp 2 nói riêng. Nó có một vị trí rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận lô gíc, tập dượt các khả năng quan sát, phỏng đoán và tìm tòi... Thông qua quá trình giải toán giúp giáo viên phát hiện được vùng kiến thức nào học sinh nắm vững, vùng nào kiến thức học sinh chưa nắm vững. Từ đó giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng, phát huy hoặc khắc phục những mặt còn yếu kém. Trong giảng dạy giáo viên cần sự sáng tạo, tránh rập khuôn, máy móc, giúp các em đi tới đích bằng con đường ngắn nhất, nhanh nhất. Muốn làm điều như trên, trước hết giáo viên phải cho học sinh hiểu và nắm chắc qui trình giải một bài toán có lời văn gồm 5 bước như đã trình bày trên. Đồng thời giáo viên phải đặc biệt coi trọng phương pháp luyện tập, thực hành. Có như vậy học sinh mới được hoạt động nhiều và hoạt động thường xuyên, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động học tập của học sinh. Đối với học sinh khá giỏi, các em đều có ý thức học tập, có trí nhớ tốt, ham hiểu biết, vì thế việc mở rộng, bồi dưỡng kiến thức cho các em là rất cần thiết. Có như vậy mới đáp ứng được sự tiến triển của xã hội, các em mới tham gia vào các kì thi giao lưu, giải toán trên mạng các cấp..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Trong quá trình áp dụng giải pháp giúp học sinh thực hiện tốt các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2B tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau: + Mỗi người giáo viên chúng ta cần phải kiểm tra, phân loại khả năng học của học sinh thành từng nhóm; sau đó tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó để tìm ra các biện pháp tác động hợp lí, có khả năng mang lại hiệu quả cao trong học tập cho các em. + Trong giờ học, giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho học sinh, tạo không khí nhẹ nhàng, thoải mái trong giờ học; kích thích sự hoạt động của học sinh. + Có chế độ khen chê hợp lý nhằm kích thích sự phấn đấu rèn luyện của học sinh. + Gia đình cần tạo điều kiện học tập cho các em, nhắc nhở, động viên các em trong việc học ở nhà. + Thường xuyên liên lạc với phụ huynh để giúp phụ huynh nắm vững tình hình học tập của con em mình và thống nhất với giáo viên về phương pháp giáo dục để tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập của các em. Giáo dục ngày nay nhằm phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Học sinh biết áp dụng những kiến thức đó vào trong cuộc sống hàng ngày. Chính vì vậy mà mỗi học sinh phải nhận thức tự giác việc học tập của mình, ý thức được việc học tập là cần thiết đối với bản thân. Phải kiên trì và quyết tâm trong học tập để đạt được kết quả cao nhất. Trên đây là một chút kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy, góp phần “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”. Vì khả năng có hạn nên bài viết không sao tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong có sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, giúp cho bài giảng của tôi ngày càng hoàn thiện hơn, kiến thức dày hơn, trình độ chuyên môn vững vàng hơn để đào tạo thế hệ mới trở thành những con người hữu ích cho đất nước. Tôi xin chân thành cảm ơn !.

<span class='text_page_counter'>(20)</span>

×