Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN nội dung học thuyết “chính danh” trong triết học nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.69 KB, 19 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
NỘI DUNG HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH” TRONG TRIẾT HỌC
NHO GIÁO

Giảng viên hướng dẫn:
Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NHO GIÁO VÀ HỌC
I.
THUYẾT “CHÍNH DANH”
Khái quát những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự phát
1.1.
triển của nó trong q trình tồn tại
Nho giáo trong tiến trình lịch sử Việt Nam và đặc điểm của
1.2.
Nho giáo Việt Nam
NỘI DUNG HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH” TRONG
II.
TRIẾT HỌC NHO GIÁO


2.1.
Bối cảnh ra đời
2.2.
Nội dung học thuyết “Chính danh” trong triết học Nho giáo
GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH”
III.
TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
5
8
8
8
14
16
17


MỞ ĐẦU
Nho giáo khởi nguồn từ Trung Quốc, được du nhập vào Việt Nam từ thời
Bắc thuộc, được “Việt Nam hóa” trong suốt một chặng đường lịch sử, góp phần
đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt Nam. Bao đời từng là hệ tư tưởng
thống trị trong kiến trúc thượng tầng Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc
đến con người và xã hội, chính trị và văn hóa, cuộc sống và lẽ sống, hệ tư tưởng
và phong tục tập quán Việt Nam. Nho giáo trở thành một bộ phận của truyền

thống dân tộc. Dù muốn hay không, Nho giáo vẫn đang chi phối xã hội Việt
Nam ngày nay. Con người Việt Nam dù tự giác hay khơng tự giác, vẫn cịn dấu
ấn của Nho giáo. Truyền thống văn hóa quá khứ của dân tộc bao gồm sách vở,
đền đài, miếu mạo, phong tục tập quán mang sắc thái Nho giáo vẫn cịn đó. Một
Văn Miếu Quốc Tử Giám với 82 tấm bia tiến sĩ sừng sững uy nghiêm không chỉ
được xem là một trong những biểu tượng của văn hóa Thăng Long - Hà Nội, mà
cịn được xem là kỷ vật thiêng liêng, ngưng tụ lại một nền văn hóa truyền thống
được nhiều thế hệ Việt Nam trân trọng tự hào. Nhưng truyền thống là do q
khứ để lại, có nhiều điều khơng phù hợp với xã hội hiện đại. Mặc dù cơ sở kinh
tế - xã hội của Nho giáo đã bị thủ tiêu, nhưng những tàn dư dai dẳng của nó đã
và đang trở thành lực cản của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Nho giáo là vấn đề quá khứ nhưng cũng là vấn đề hiện tại. Nghiên cứu
học thuyết “Chính danh” của Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá rõ hơn những yếu
tố khơng cịn phù hợp, những phản giá trị cần gạt bỏ, đồng thời kế thừa những
tinh hoa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn của
triết học có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn. Do đó, em chọn
vấn đề “Nội dung học thuyết “Chính danh” trong triết học Nho giáo” làm đề
tài tiểu luận.

1


NỘI DUNG
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NHO GIÁO VÀ HỌC THUYẾT
“CHÍNH DANH”
1.1. Khái quát những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự phát triển
của nó trong q trình tồn tại
“Nho giáo” là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “Nho” theo gốc Hán tự,
“Nho” là chữ “Nhân” đứng cạnh chữ “Nhu” (mềm mỏng). Tư tưởng chính của
Nho là phép đối nhân xử thế ở đời sao cho phù hợp với tôn ti trật tự trong xã hội,

được xuất phát từ thời Tây Chu [1, tr.129].
Đến thời Xuân Thu, Khổng tử đã hệ thống những tư tưởng và tri thức
trước đó thành học thuyết, gồm các tác phẩm: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và viết
sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Các thế hệ học trị tiếp theo đã
dựa vào tư tưởng của Khổng Tử, viết thành sách Luận Ngữ, Đại Học, Trung
Dung, Mạnh Tử (Tứ thư). Tứ thư và Ngũ kinh đã trở thành kinh điển của Đạo
Nho, là con đường mà đi theo đó, nhân loại sẽ đạt tới một xã hội hoà mục, một
thế giới đại đồng như Khổng Tử hằng mơ ước. Người đời sau đã gắn học thuyết
này với tên người sáng lập ra nó là Khổng Tử, cho nên Đạo Nho còn được gọi là
Đạo Khổng.
Khổng Tử (551 - 479 tr. CN), tên Khâu, tự Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ,
trong một gia đình quý tộc bị sa sút. Sinh ra và lớn lên trong thời đại “Vương
đạo suy vi, bá đạo trị vì”, xã hội loạn lạc triền miên, vua quan chém giết lẫn
nhau để tranh hùng, xưng bá; luân thường, đạo lý của xã hội bị đảo lộn, thiện ác
khó phân minh… Vì thế, Khổng Tử muốn đem tài sức của mình để giúp ổn định
xã hội theo kiểu thời Tây Chu. Ông đã đi nhiều nơi và ra sức truyền bá tư tưởng
của mình nhưng vẫn không được trọng dụng. Cuối đời, ông quay trở về quê để
dạy học, viết sách và trở thành người khai sáng học thuyết Nho giáo.
Học thuyết của Khổng Tử được khái quát thành hệ thống quan niệm về
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội, về lẽ sống và tính cách của
con người. Mục đích của học thuyết này chủ yếu là đề cao “lễ nhạc” và “nhân
nghĩa”, chủ xướng đạo “trung thứ” (hết lịng vì người, điều gì mình muốn đạt
2


được thì cũng giúp cho người khác đạt được, điều gì mình khơng muốn thì cũng
khơng đem áp đặt cho người khác) và đạo “trung dung” (khơng thiên lệch). Về
chính trị thì chủ trương thi hành “đức trị” và “nhân chính” (chính sách nhân từ).
Về đạo đức thì coi trọng việc giáo dục luân lý cũng như sự tu tâm, dưỡng tính
cho mỗi con người.

Khổng Tử xây dựng hệ thống quan niệm ấy không trên cơ sở từ kinh tế-xã
hội, mà chỉ dựa vào những quan niệm về bản chất tâm lý - xã hội và quan niệm
về đạo đức của con người. Cái bản chất tâm lý - xã hội và đạo đức đó, theo
Khổng Tử là “nhân”. Do vậy, phạm trù “nhân” vừa là xuất phát điểm, vừa là hạt
nhân tạo nên hệ thống các phạm trù khác, có liên quan chặt chẽ với nhau. Trong
hệ thống các phạm trù ấy thì ba phạm trù “nhân”, “lễ” và “chính danh” có nội
dung và ý nghĩa quan trọng nhất, tạo nên một triết lý nhân sinh có bản sắc hết
sức độc đáo.
Khổng Tử quan niệm “nhân” là đạo đức hồn thiện nhất với cốt lõi là lịng
thương u con người; vì thế, ơng ln đề cao “đức nhân”, bản thể hố “đạo
nhân”, coi đó là đạo của trời đất, là bản chất của con người, là gốc rễ nảy sinh
các đức tính tốt khác của con người; trong “Luận ngữ” Khổng Tử đã hơn 100
lần đề cập đến chữ “nhân” … Do vậy, Khổng Tử luôn khuyên con người phấn
đấu để đạt tới đạo nhân, với những nội dung chủ yếu là: coi lợi ích của người
khác như của chính mình; mình muốn lập thân thì phải giúp cho người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp cho người khác thành đạt; tôn trọng và
tuân theo các chuẩn mực của xã hội; thực hiện trọn đạo làm người. Muốn trở
thành người có lịng nhân thì phải thực hiện 5 điều cơ bản: “cung, khoan, tín,
mẫn, huệ”. Như vậy, “Nhân” là kết tinh cao nhất trong triết lý của Khổng Tử, là
cơ sở lý luận cho đường lối “đức trị” của Nho giáo [2, tr.210].
Để thi hành tốt đường lối “đức trị”, Khổng Tử chủ trương thi hành “lễ”; bởi
vì, “nhân” được biểu hiện trước hết thơng qua “lễ”, “lễ” là phương tiện để đạt tới
điều “nhân” và là căn nguyên quan trọng nhất tạo nên sự ổn định của xã hội.
Khổng Tử cho rằng, trong xã hội, mỗi người đều có một chức năng, địa vị
trong mối quan hệ nhất định, tương ứng với nó là một danh nhất định; vì thế,
3


theo ơng, muốn thực hiện đúng lễ thì phải xác định đúng vị trí và danh phận của
mình (chính danh); muốn chính danh thì phải lấy lễ làm chuẩn mực và phải hành

động sao cho tương xứng giữa thực với danh. Danh - thực tương xứng với nhau
vừa là điều kiện, vừa là kết quả của việc thực hiện đúng lễ. Dó đó, chính danh
cũng là con đường để đạt tới điều nhân.
Khổng Tử chia quan hệ của con người trong xã hội thành năm mối quan
hệ (ngũ luân): Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ, Huynh - Đệ, Bằng - Hữu và
quy định những tiêu chuẩn riêng cho từng mối quan hệ: Quân nhân - thần trung,
phụ từ - tử hiếu, phu nghĩa - phụ thính, huynh lương - đệ đễ và bằng hữu phải
thành tín. Trong các quan hệ trên, Khổng Tử rất coi trọng ba mối quan hệ rường
cột là: Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ gọi là tam cương.
Khổng Tử rất quan tâm đào tạo nên mẫu người Quân tử (Quân: cai trị,
Quân tử: người cai trị) để tham gia quản lý điều hành xã hội. Muốn thành quân
tử thì trước hết phải tu thân, vì khơng tu thân thì khơng thể giúp ích cho đời.
Q trình tu thân phải đạt cho được ba mục đích chính: “Đạt đạo” thơng qua
cách ứng xử “trung dung”, “Đạt đức” thông qua các hành động chuẩn mực và
phải biết “thi”, “thư, “lễ”, “nhạc”. Tu thân xong thì phải hành động để “tề gia”,
“trị quốc”, “bình thiên hạ” theo phương châm: đức trị - người cầm quyền phải
ln nêu gương, cảm hố người dưới bằng đạo đức trong sáng của mình; lễ trị người cầm quyền thực hiện cai trị bằng cách duy trì các chuẩn mực mà con
người phải tuân theo và văn trị - người cầm quyền phải coi trọng văn hiến để thu
phục nhân tâm.
Tuy khơng thành cơng về hoạt động chính trị, nhưng về mặt văn hoá giáo
dục, Khổng Tử đã có nhiều cống hiến nên được coi là “Đại sư” đầu tiên của
Trung Quốc. Trong dạy học, Khổng Tử chú trọng cả ba mặt: đạo đức, kiến thức
và thực tiễn; theo ơng, đạo đức có tầm quan trọng hàng đầu. Ông thường khuyên
học trò phải gắn học với hành, phải khiêm tốn và có thái độ thực sự cầu thị trong
học tập.
Tóm lại, học thuyết của Khổng Tử tuy cịn mâu thuẫn về thế giới quan và
thừa nhận đường lối chính trị đẳng cấp theo thuyết chính danh, nhưng chứa
4



đựng triết lý hành động đầy tính nhân văn, nặng đức nhẹ hình, khuyến khích tu
thân để đạt tới một xã hội thái bình thịnh trị. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết
của ơng được các thế hệ học trị tiếp tục phát triển. Tiêu biểu trong số họ là
Mạnh Tử.
Tư tưởng của Mạnh Tử tập trung vào những vấn đề triết lý nhân sinh,
trọng tâm là bản thể nhân tính của con người. Mạnh Tử cho rằng, bản tính con
người là thiện, do trời phú cho và chịu tác động của mơi trường xã hội; vì thế,
ơng ln khuyến khích mọi người tư dưỡng đạo lý để bảo tồn tính thiện.
Trên cơ sở học thuyết về tính thiện, theo Mạnh Tử, để thuận với đạo trời và
hợp với lòng người thì nhà cầm quyền phải thi hành thuyết “nhân chính” để trị
nước theo tinh thần cốt lõi là “trọng nhân” và “trọng dân”. Ông là người đầu tiên
nêu tư tưởng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Mạnh Tử cho rằng, để
nâng cao hiệu quả giáo dục thì phải tn theo chuẩn mực, chuẩn mực đó chính là
đức độ của thánh hiền. Ơng khơng chỉ địi hỏi người học phải chuyên tâm, từ chí,
khiêm tốn, cầu tiến, khơng được tự thoả mãn…, mà cịn địi hỏi người dạy phải
ln ln tự sửa lấy mình, ln giữ lấy cái tâm của mình cho chính, vì “mình
cong queo thì khơng thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được”.
Mạnh Tử đã khép lại một giai đoạn quan trọng- giai đoạn hình thành Nho
giáo; cịn gọi là Nho giáo nguyên thuỷ, hay Nho giáo tiên Tần, và còn được gọi
là học thuyết Khổng-Mạnh. Những công lao của Mạnh Tử thật xứng đáng để
hậu thế phong ông là Á thánh.
Thời cổ đại các vua chúa Trung Quốc không tán thưởng Học thuyết Nho
giáo nguyên thuỷ theo tư tưởng Khổng - Mạnh. Thế nhưng, từ thời Hán trở đi,
Nho giáo được tôn là quốc giáo và trở thành tư tưởng thống trị kéo dài hơn
2.000 năm.
1.2. Nho giáo trong tiến trình lịch sử Việt Nam và đặc điểm của Nho
giáo Việt Nam
Nho giáo xâm nhập vào nước ta khi nó đã được tơn là quốc giáo ở Trung
Quốc. Là văn hố của kẻ xâm lược để thực hiện âm mưu đồng hoá dân tộc ta,
nên dù các quan lại Trung Quốc ra sức truyền bá, nhưng Nho giáo vẫn chưa có

5


chỗ đứng thích đáng trong xã hội Việt Nam suốt cả ngàn năm Bắc thuộc. Tuy
nhiên, có những quan điểm gần gũi, phù hợp với người Việt đã được tiếp thu, cải
biến và được bản địa hoá; cùng với tinh hoa Phật giáo, Đạo giáo được tiếp nhận
gần như đồng thời, đã góp phần tạo nên những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc Việt Nam. Đề cập về vấn đề này, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết:
“Nói về thời Bắc thuộc, chúng ta cũng phải nêu đậm nét những điều mà nền văn
hoá phương Bắc đã đem lại cho dân tộc ta lúc bấy giờ… Nói rộng ra, đây là
thời gian dân tộc Việt Nam ta tiếp thu một cách có chọn lọc nền văn hố của
người Hán… nhất là học thuyết của Khổng Tử” [5, tr.80].
Từ khi giành được độc lập, các vương triều phong kiến Việt Nam, lúc thì
đề cao Phật giáo, khi thì đề cao Nho giáo; thế nhưng, dù Phật giáo hay Đạo giáo
có số gắng “nhập thế” đến đâu đi nữa, thì về cơ bản nó cũng khơng phải là đạo
trị nước. Vì thế, giống như các triều đại phong kiến Trung Hoa, các triều đại
phong kiến Việt Nam không thể không ngày càng sử dụng Nho giáo để củng cố
địa vị của mình.
Nho giáo sau khi du nhập vào Việt Nam đã ngày càng hoà đồng với các
học thuyết tư tưởng khác, đặc biệt là tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chịu sự chi
phối mạnh mẽ của tư tưởng văn hoá bản địa. Đây là hiện tượng lan toả và giao
thoa văn hố khơng phải chỉ có ở Việt Nam. Ngay cả ở Trung Quốc, Nho - Đạo Phật cũng đã tạo nên tam giáo hợp nhất, nhưng ở Việt Nam, tam giáo không chỉ
hợp nhất mà đã đạt tới mức đồng nguyên, được thể hiện trong tư tưởng của phái
“Trúc Lâm tam tổ” ra đời từ thời nhà Trần, gắn với công lao to lớn của vua Trần
Thái Tơng.
Như vậy, người Việt đã tích cực sàng lọc các nội dung và cách biểu hiện tư
tưởng của các học thuyết ngoại lai ấy để tìm ra cái chung, cái tương đồng, bản địa
hố nó để trở thành cơng cụ hữu ích cho cuộc sống. Cũng với mục đích ấy, cộng
với lòng khoan dung, cao thượng, nhân ái của người Việt, nên tuy có nhiều tơn
giáo, nhiều dân tộc cùng tồn tại và phát triển, nhưng lịch sử Việt Nam nói chung

khơng có sự xung đột gay gắt, sự kỳ thị và bài xích về tư tưởng và tơn giáo.
6


Người Việt khi tiếp nhận Nho giáo đã Việt Nam hoá và tái cấu trúc từng
yếu tố riêng lẻ rồi cấu tạo lại theo cách của mình cho phù hợp với truyền thống
văn hoá của dân tộc. Trước khi tiếp thu tư tưởng Nho giáo, người Việt đã sớm
khẳng định được bản sắc văn hố nơng nghiệp lúa nước của mình là ưa chuộng
hồ bình, trọng tình nghĩa, cộng với triết lý âm dương đã quan niệm từ lâu… Cái
bản sắc ấy đã tạo nên tâm thức và cũng chính cái tâm thức đó là mơi trường, là
nền tảng tạo nên sự khúc xạ của Nho giáo Trung Hoa khi vào Việt Nam qua lăng
kính bản địa. Biểu hiện:
Khi tiếp nhận Nho giáo, do vốn coi trọng tình người nên người Việt tâm
đắc với chữ “nhân” hơn cả. “Nhân” theo quan niệm của người Việt là: “lá lành
đùm lá rách”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng”…. Như vậy, “Nhân” của người
Việt có nội hàm rộng hơn, và được gắn liền với “nghĩa”, như là “Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân…”. Đối với người bình dân thì “nhân” đồng nghĩa với
“tình”. Các khái niệm “nhân tình”, “nhân nghĩa”, … là kết quả và cũng là biểu
hiện khả năng đồng hố, hấp thu có chế biến tư tưởng “nhân” của Nho giáo
Trung Hoa.
Trong giải quyết các mối quan hệ cơ bản theo luân thường đạo lý, do
được kết hợp với truyền thống dân chủ vốn có, nên Nho giáo Việt Nam có tính
khoan dung hơn; khơng cực đoan, hà khắc như Nho giáo Trung Hoa. Hơn nữa,
khi tiếp thu chữ “hiếu” của Nho giáo, người Việt còn đặt nó trong mối quan hệ
bình đẳng với cả cha lẫn mẹ và biết phân biệt rạch ròi giữa “đại hiếu” với “tiểu
hiếu” trong quan hệ ứng xử thường ngày.
Nói tóm lại, người Việt với những nét đặc sắc của văn hoá bản địa đã chủ
động tiếp thu những tư tưởng cơ bản của Nho giáo, cải biến nó cho phù hợp với
truyền thống và điều kiện, hoàn cảnh của mình. Điều này khơng chỉ là biểu hiện

của tính độc lập tự chủ, lịng tự hào, tự tơn dân tộc, mà cịn để tránh một sự xâm
lăng văn hố với danh nghĩa “giáo hoá man di” nhằm thực hiện âm mưu đồng
hố, thơn tính nước ta của kẻ thù phương Bắc. Đây cũng chính là một trong
7


những lý do để dân tộc Việt Nam giành được độc lập, giữ được bản sắc văn hố
của mình, khơng bị đồng hố sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc.
II. NỘI DUNG HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH” TRONG TRIẾT
HỌC NHO GIÁO
2.1. Bối cảnh ra đời
Cuối thời Xuân Thu - Chiến quốc, tình hình xã hội hết sức rối loạn. Trước
mắt các nhà Nho là những vấn đề:
- Sự hỗn loạn về quan niệm đẳng cấp và danh phận.
- Các chư hầu xâm lấn và thơn tính lẫn nhau.
- Sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp: giữa nông dân với lãnh
chúa phong kiến; địa vị của bọn chúa phong kiến bị lung lay.
- Quan hệ tơng pháp rối loạn.
Trước tình hình đó, các nhà Nho chủ trương lấy thuyết “chính danh” làm
vũ khí để củng cố trật tự nội bộ phong kiến, ổn định xã hội.
Theo Khổng Tử, sự hỗn loạn của quan niệm danh phận, đẳng cấp, sự sa
sút của thiên tử nhà Chu, sự suy yếu của các chư hầu địa phương, sự “tiếm ngôi
việt vị”... tất cả những tình trạng đó khơng chỉ phá hoại trật tự xã hội phong kiến
mà cịn là mối nguy cơ chính trị rất lớn thời bấy giờ. Vì thế Khổng Tử cho rằng
muốn cứu vãn nguy cơ chính trị thời đó, trước hết phải khôi phục uy quyền của
lãnh chúa tối cao (tức là thiên tử), phải ngăn chặn những việc vượt quyền; mỗi
người phải biết giữ danh phận của mình mới có thể gây lại nền chính trị có đạo;
phải “chính danh” để xác định lại danh phận, đẳng cấp... Đó là vấn đề căn bản
của chính trị thời bấy giờ.
2.2. Nội dung học thuyết “Chính danh” trong triết học Nho giáo

“Danh” là tên gọi, là danh vị, nghĩa là cương vị, quyền hạn. “Chính danh”
là sự quy định rõ cương vị và quyền hạn.
Khi bàn về chính danh, Khổng Tử giải thích: Chính danh là làm cho mọi
việc ngay thẳng. Chính danh thì người nào có địa vị, bổn phận của người đó,
trên dưới vua tơi, cha con trật tự phân minh, vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi thờ vua
theo đạo trung, vua ra vua, tôi ra tôi... Đó chính là một nước thịnh trị, lễ nghĩa,
8


nhân đức, danh phận vẹn toàn. Thực ra quan niệm “trên ra trên, dưới ra dưới” đã
có trong lịch sử Trung Hoa. Các sử gia Trung Hoa từng ghi lại những hành vi tốt
xấu của các vị vua quan một cách cơng tâm cũng hàm ẩn cái ý chính danh.
Nhưng lý luận, giảng giải, đặt nó thành một quy tắc và cao hơn nữa là thuật trị
nước thì mãi tới thời Khổng Tử mới có.
Theo Khổng Tử, danh và thực phải hợp với nhau, nếu khơng hợp nhau thì
gọi tên ra người ta sẽ không hiểu, lý luận không xuôi, mọi việc khơng thành, lễ
nhạc, hình pháp khơng định được mà xã hội sẽ hỗn loạn.
Vậy làm thế nào để thực hiện chính danh?
Trước hết mọi người phải tự giác giữ lấy danh phận của mình, từ Thiên
tử, chư hầu, đại phu đến kẻ sĩ phải tu dưỡng đạo nhân để có sự tự giác đó.
- Đối với người cai trị, Khổng Tử quan niệm: ông vua là người được trời
giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, làm gương cho dân, dạy dỗ
dân để dân được sống n ổn. Làm trịn nhiệm vụ đó là danh xứng với thực. Đó
cũng là biểu hiện tài đức của ơng vua chính danh. Muốn danh được chính thì
thân phải chính: “Thân mình mà chính thì khơng phải hạ lệnh, mọi việc vẫn tiến
hành; thân mình mà khơng chính được thì dù hạ lệnh cũng chẳng ai theo” [3, tr.
201]. Ơng cịn nói “Nếu thân mình đã chính được rồi, thì đối với việc chính sự
cịn có gì khó? Khơng thể chính được thân mình thì chính người khác thế nào?”
[3, tr. 205].
Như vậy, đối với người cai trị, bản thân phải ngay thẳng. Có như vậy mới

chỉ đạo, giúp đỡ và ảnh hưởng một cách có hiệu quả đối với người khác. Bên
cạnh đó, “ngơn” cũng phải chính: Lời nói với việc làm phải hợp nhau, khơng
được nói nhiều làm ít, khơng được nói lời kính cẩn mà trong lịng thì rỗng
khơng, lời nói phải thận trọng. Làm được như thế mới đúng cái danh là vua, nếu
không, không đáng gọi là vua (mất danh và mất cả ngơi).
Nói về ngun nhân hỗn loạn của thời Xn Thu, Khổng Tử cho là tại
thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm, để quyền lọt vào tay chư hầu; chư
hầu cũng khơng làm trịn trách nhiệm để quyền lọt vào tay bồi thần, khắp thiên
hạ đều vô đạo, muốn cho thiên hạ hữu đạo thì phải chính danh, áp dụng đúng
9


tiêu chuẩn của xã hội thời Văn Vương, Chu Công. Thiên hạ mà loạn, lỗi trước
hết là ở vua chúa, bởi “vua không ra vua, bề tôi không ra bề tơi”.
u cầu chính danh đối với người cai trị là hết sức tích cực, nhưng trong
điều kiện chính trị xã hội thời đó, khó có thể thực hiện. Do đó đối với bọn vua
chúa phong kiến thích vượt quyền, khơng chịu giữ danh phận của mình, khơng
tự giác, Khổng Tử chủ trương đánh dẹp, do thiên tử chủ trì, thậm chí mọi người
đều có thể đánh dẹp.
Ngun tắc chính danh của Khổng Tử là: ai ở địa vị nào cũng phải làm
tròn trách nhiệm ở địa vị ấy, danh phận ấy, không được việt vị nghĩa là không
được hưởng quyền lợi cao hơn địa vị của mình; khơng được việt vị cịn có một
nghĩa nữa là: “Khơng ở chức vị nào thì đừng mưu tính việc của chức vị đó” (Bất
tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính). Đây là điều mà Khổng Tử chú trọng: Ai giữ phận
nấy, cứ theo đúng tổ chức xã hội có tơn ti, chặt chẽ của Chu Cơng thì nước sẽ trị,
thiên hạ sẽ có đạo. Ở đây còn thể hiện tư tưởng điều hòa giai cấp của Khổng Tử,
cho nên ông chủ trương “bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính”, mặt khác, buộc người
cầm quyền phải có tài đức xứng đáng với danh vị của họ.
Chính danh là mối quan hệ hai chiều: Quân trung thì thần trung, phụ từ thì
tử hiếu... Để có được cái đạo đức xã hội ấy thì phải giáo dục. Giáo dục chính là

cái gốc lâu bền tạo ra cái đức, để con người có được đức nhân, sống theo lễ và
trở về với chính danh.
Thuyết chính danh của Khổng Tử là ảo tưởng vì đương thời danh và thực
mâu thuẫn nhau sâu sắc. Cái thực là đời sống xã hội, trật tự xã hội đã có nhiều
biến đổi làm cho cái danh phận cũ được quy định theo lễ chế nhà Chu khơng cịn
phù hợp nữa, do đó mà khơng thể thực hiện được. Tuy vậy thuyết chính danh
vẫn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Đó là:
- Muốn cho xã hội ổn định, người cầm quyền phải có đức, có tài, xứng với
cái danh vị đã có.
- Mọi người trong xã hội phải tự giác giữ lấy danh phận của mình theo tơn
ti, trên ra trên, dưới ra dưới.
10


Thuyết Chính danh được Mạnh Tử, Tuân Tử và sau này các nhà Nho đời
Hán, đời Tống tiếp tục bổ sung.
Tuân Tử chính danh để phân biệt người sang với kẻ hèn, để phân biệt
những vật giống nhau và khác nhau. Thiên Chính danh trong bộ sách Tn Tử
của ơng đã lý giải vì sao lại có danh, từ đó theo ơng Chính danh là phải dùng
pháp lệnh bắt người ta phải theo những danh của xã hội đã thừa nhận. Ông nêu
ra ba loại nhầm lẫn làm loạn danh và thực, bao gồm:
- Lầm về sự dùng danh mà làm loạn danh.
- Lầm về sự dùng cái thực mà làm loạn danh.
- Lầm về sự dùng danh mà làm loạn cái thực.
Đối với người cai trị, cũng giống Khổng Tử, ông cho rằng người cai trị
phải biết giữ danh phận, đồng thời cũng không dùng sự biện thuyết làm loạn
danh. Ơng cho rằng, những “thuyết sai, ngơn luận lệch lạc” làm trở ngại cho
“chính danh”, phá hoại “lễ nghĩa, pháp độ”. Cho nên ông chủ trương không
tranh luận, bọn thống trị cứ dùng cái “thế” tức là quyền lực cưỡng bức mà định
đoạt. Ơng khơng biết rằng những rối loạn của xã hội đương thời, tức là mâu

thuẫn giai cấp là nguồn gốc sinh ra mâu thuẫn nội tại của bản thân xã hội, trái lại
ông đã quy tội cho các học thuyết phụ theo.
Đời Hán, Đổng Trọng Thư triệt để hóa chính danh, tước bỏ những yếu tố
tích cực, tiến bộ, làm thụt lùi nghiêm trọng thuyết chính danh của Khổng Mạnh.
Chính danh của Đổng Trọng Thư trở thành cơng cụ chính trị tinh thần đắc lực
của các nhà nước Trung ương tập quyền chuyên chế của các triều đại phong kiến
kế tiếp.
Nhìn chung, Nhân, lễ, chính danh không chỉ là các chuẩn mực, các khái
niệm đạo đức đơn thuần mà cịn mang tính chính trị cao. Nó trở thành Nhân trị,
lễ trị - chính danh với tính cách là đường lối trị nước của Nho giáo. Nhân, lễ,
chính danh quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhân là nội dung, lễ là hình thức biểu
hiện của nhân; nhân là gốc, lễ là ngọn; nhân để khôi phục lễ, để trở về với chính
danh, xã hội trở về với đạo. Đó cũng là hồi bão của các Nho gia về một chế độ
phong kiến có kỷ cương, thái bình, thịnh trị.
11


Trong học thuyết chính trị xã hội của mình, Khổng Tử khơng chỉ bàn đến
nhân và lễ, mặc dù đó là những biểu hiện không thể thiếu của mỗi một con
người, mà ơng cịn nêu lên tư tưởng chính danh. Theo ơng, chính danh là phải
làm mọi việc cho ngay thẳng, trong xã hội mỗi người đều có địa vị, bổn phận
(danh) nhất định, nên người có chính danh phải là người ln làm trịn bổn phận,
nghĩa vụ, cơng việc của mình; từ trên xuống dưới, từ vua đến tơi, từ cha đến con,
từ chồng đến vợ… phải phân minh rõ ràng, mỗi người sống làm sao phải cho
xứng với từng cương vị ấy, “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” nghĩa là vua
phải xứng cho đạo làm vua, cha phải xứng là người làm cha, con phải xứng
đúng đạo làm con, nếu khơng làm được như vậy thì cũng không thể đạt được
đức nhân. Chúng ta đều thấy điều quan trọng trong cuộc sống không phải là hữu
danh vô thực, mà phải là từ cái thực ấy làm nổi lên cái danh, đó mới là cái đáng
quý, đó mới là người sống đúng chính danh. Trong xã hội ta hiện nay đang

khơng ít kẻ hữu danh vơ thực, có người dựa vào chỗ này, chỗ kia để cố tạo ra cái
danh cho mình, cịn thực chất trình độ, năng lực và phẩm chất rất yếu kém.
Những con người đó chúng ta cần phải lên án, đấu tranh để cho những người có
tài, có đức thực sự được đứng vào vị trí ấy, hàng ngũ ấy để họ cống hiến nhiều
hơn cho xã hội và cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh ở nước ta được tốt hơn. Khổng Tử cũng nhấn mạnh muốn trị
nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì nếu “danh khơng chính thì
ngơn khơng thuận, ngơn khơng thuận thì việc khơng thành, việc khơng thành thì
lễ nhạc khơng hưng thịnh, lễ nhạc khơng hưng thịnh thì hình phạt khơng đúng,
hình phạt khơng đúng thì dân khơng biết đặt tay làm, đặt chân đứng vào đâu”.
Để đạt được chính danh, ơng đã đề cao tư tưởng nhân trị, ơng mong muốn vừa
bằng giáo hố, vừa bằng sự nỗ lực của bản thân mỗi cá nhân mà con người có
thể đạt được điều nhân, có thể tự sửa mình cho hợp với lễ, và như vậy cũng tự
bản thân họ ắt sẽ đạt được chính danh. Đây là một mong ước chính đáng, tốt
đẹp, một tư tưởng nhân từ, “trọng hiền” của ông, nhưng chỉ tiếc rằng trong xã
hội loạn lạc ấy không thể dùng lễ trị, đức trị, nhân trị mà phải dùng biện pháp
mạnh- đó là pháp trị mới có thể làm ổn định xã hội. Bên cạnh tư tưởng nhân trị,
12


ông cũng như phái nho gia còn chủ trương “tu thân” theo ngũ luân, ngũ thường
để thực hiện chính danh. Trong ngũ luân ông rất coi trọng ba mối quan hệ cơ bản
được coi là mối quan hệ rường cột - gọi là tam cương (quan hệ vua tôi, cha con ,
chồng vợ). Trong quá trình tu thân phải tuân thủ nguyên tắc: Quân nhân - thần
trung, phụ từ - tử hiếu, phu nghĩa - phụ thính, huynh lương - đệ đễ và bằng hữu
phải thành tín; phải rèn luyện theo năm phẩm chất của con người: Nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín. Vì vậy, để đạt được đức nhân con người nhất thiết phải chính
danh, phải có trí và dũng. Theo ơng khi con người mà có đức nhân thì chẳng
việc gì lo buồn, cóc đức trí thì chẳng bao giờ sai lầm, có đức dũng thì chẳng bao
giờ kinh sợ, con người có thể có trí hoặc có dũng mà khơng nhân, nhưng khơng

thể có nhân mà thiếu trí và dũng. Trí là sự hiểu biết điều hay lẽ phải, là cơ sở để
nhận thức đúng đắn và có hành vi phải đạo trong các mối quan hệ xã hội. Muốn
có trí thì phải học, đặc biệt là tự học, học suốt đời, “học không biết chán, dạy
không biết mỏi”. Từ đó trí sẽ giúp con người có đủ khả năng xét đoán mọi việc
để hành động đúng với lễ, biết mình phải làm gì để cho chính danh. Dũng là đức
bên trong nói lên tinh thần hăng hái, gan dạ, giám hy sinh, quyết tâm khắc phục
khó khăn, dũng biểu hiện sức mạnh và ý chí thực hiện mục đích của mỗi con
người. Dũng sẽ trở thành động cơ bên trong thúc đẩy con người giám nghĩ, giám
làm, giám vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm, mọi thử thách chơng gai khơng sợ
ảnh hưởng đến tính mạng cũng là để đạt được chính danh, đạt được đức nhân.
Do đó, nhân - lễ - chính danh ln hồ quyện vào nhau, chúng là một thể thống
nhất không tách rời trong mỗi một con người, nếu ta tách chúng ra khỏi nhau thì
sẽ khơng cịn là nhân, lễ hay chính danh một cách trọn vẹn, và như vậy cũng sẽ
không thể có con người tồn thiện được.
Nhân - lễ - chính danh là các phạm trù cơ bản trong học thuyết triết học về
chính trị xã hội của Khổng Tử, mỗi phạm trù chứa đựng những nội dung nhất
định, chúng vừa nằm trong nhau, vừa là của riêng nhau nhưng không tách rời
nhau, sự linh hoạt, mềm dẻo của ba phạm trù ấy đã nói lên một mẫu người lý
tưởng theo quan điểm của Nho gia nói chung, quan niệm của Khổng Tử nói
riêng. Sự biến hố đến khơn lường của các phạm trù này sẽ giúp chúng ta nghiên
13


cứu, vận dụng rộng rãi, phù hợp vào quá trình cải tạo và xây dựng xã hội. Bởi
suy cho cùng, mục đích của học thuyết này là nhằm xây dựng một xã hội theo
hướng thiện, ln đề cao tình hữu ái, một xã hội bình yên, mọi người tự giác làm
theo bổn phận của mình. Đây cũng chính là những gì mà Khổng Tử và phái Nho
gia đã cố gắng làm trong những năm trước của thời kỳ cổ đại Trung Quốc.
III. GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA HỌC THUYẾT “CHÍNH DANH” TRONG
TRIẾT HỌC NHO GIÁO

Học thuyết Chính danh do Khổng Tử sáng kiến cách đây hơn 2.500 năm
từ thời Trung Quốc còn đang ở chế độ phong kiến phân quyền với lịng mong
muốn của ơng phục hồi lại chế độ, lễ lạc tốt đẹp của thời nhà Chu ban đầu khi
ông nhận thấy tình trạng xã hội khá lộn xộn, mất tơn ti trật tự. Ơng vốn là người
khoan hịa, tuy có tư tưởng cách mạng nhưng khơng thích chiến tranh, do đó ơng
mới đề ra học thuyết Chính danh để cải tạo xã hội một cách dần dần.
Theo cách nói của học giả Nguyễn Hiến Lê thì “Nếu sau mười thế hệ,
người ta thấy nó vẫn cịn làm cho đức trí con người được nâng cao thì phải coi
nó là một cống hiến lớn cho nhân loại rồi.” Chính danh là làm việc không mờ
ám, không che dấu sự thật hoặc bóp méo sự thật. Thiết nghĩ rằng, chúng ta cịn
phải tiếp tục nêu cao chính nghĩa, nêu cao những tấm gương người tốt, việc tốt
tiêu biểu để thu phục được lòng tin của nhân dân. Triết học Trung Hoa cổ, trung
đại là một bộ phận quan trọng của triết học phương Đơng, trong đó có thể nói
Nho Gia là một trường phái quan trọng và có giá trị vào loại bậc nhất. Mặc dù ra
đời để phục vụ cho chế độ phong kiến nhưng đến nay nhiều tư tưởng, quan niệm
về xã hội, con người, đạo đức, giáo dục,… của Nho Gia vẫn cịn giá trị và mang
tính thời sự, như tư tưởng nhân nghĩa và học thuyết Chính danh. “Nhân nghĩa”
có ý nghĩa trong mọi mặt của đời sống, nhưng “Chính danh” lại tác động sâu sắc
tới việc đảm bảo trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là ở lĩnh vực chính trị.
“Chính danh” theo Khổng Tử đề xướng là một nguyên tắc cai trị xã hội,
được hiểu là : một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang,
có nghĩa là đảm bảo sự phù hợp giữa cái danh và cái thực. Đây là một học thuyết
có giá trị khơng chỉ trong thời phong kiến mà cả trong thời hiện đại. Chủ trương
14


làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết là thực hiện “Chính
danh”. Mỗi cái danh đều mang trong nó những điều kiện bản chất mà vật mang
danh ấy phải thực hiện cho đúng. Trong xã hội vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra
cha, con ra con, … Đó là ý nghĩa thuyết Chính danh của Khổng Tử. Sau này các

triết gia Trung Quốc đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển nó dựa trên nền tảng
mà ông đã đưa ra. Người nào cũng phải cơng nhận rằng học thuyết Chính danh
là một sáng kiến của ơng và đó là sự đóng góp quan trọng của ơng cho Trung
Quốc nói riêng và nhân loại nói chung.
Tuy nhiên bên cạnh đó học thuyết Chính danh cũng có một số hạn chế đó
là lối sống gia trưởng trong gia đình, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong gia
đình, người cha, người chồng, người anh cả là người có quyền lực cao nhất,
người phụ nữ trong gia đình bị phụ thuộc hồn tồn vào chồng, khơng có quyền
tham gia vào những việc đại sự trong gia đình. Đặc biệt đạo “tam tòng” (Tại gia
tòng phu, xuất gia tịng phụ, phu từ tịng tử), (ở nhà thì phải nghe theo cha, đi lấy
chồng theo chồng, chồng chết theo con) đã trói buộc người phụ nữ họ khơng có
quyền tự chủ quyết định cuộc đời và tương lai của mình.
Ở Việt Nam, học thuyết Chính danh cũng như Nho giáo nói chung đã góp
phần hình thành nên hệ thống tư tưởng triết học mang đậm bản sắc dân tộc.
Trong khi các nguyên tắc cai trị xã hội của Nho giáo Trung Hoa có phần cứng
nhắc và hà khắc thì ở Việt Nam thấm sâu tình nhân ái và lịng u nước được đặt
lên hàng đầu.
Nói tóm lại thuyết chính danh cũng như Nho giáo có vai trị quan trọng
trong nền triết học cổ, trung đại Trung Hoa nói riêng và phương Đơng nói
chung. Và thuyết Chính danh ngun thủy do Khổng Tử đề xướng là nền tảng
để các nhà Khổng giáo đời sau phát triển cho phù hợp với xã hội Trung Quốc
ln biến chuyển góp phần ổn định trật tự xã hội.

15


KẾT LUẬN
Suốt hơn 2000 năm thống trị, tư tưởng của Nho giáo về nhà nước, quyền
lực nhà nước, mối quan hệ giữa dân với nhà nước; tư tưởng về đường lối trị
nước của Nho giáo đã góp phần quan trọng xây dựng nên nhà nước Nho giáo

phát triển ở Trung Quốc và các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Nhờ đó các
nhà nước phong kiến Nho giáo thường có trình độ trưởng thành hơn so với các
nhà nước phong kiến cùng thời ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Đó
thường là các nhà nước dân sự, có tổ chức thiết chế cao, quản lý xã hội một cách
có hiệu quả. Đó cũng là giá trị tích cực mà ngày nay nhiều nước chủ động khai
thác Nho giáo có thể kế thừa.
Nho giáo là một hình thái ý thức xã hội, đã từng trải qua những bước
thăng trầm trong lịch sử, nó có ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống tinh thần của
nhân dân các nước trong “vành đai Nho giáo” [4, tr.145]. Những tư tưởng Nho
giáo, đặc biệt là thuyết “Chính danh” đã từng in đậm trong tâm thức của nhân
dân Việt Nam và góp phần tạo nên những giá trị văn hoá truyền thống, tạo nên
nếp sống, nếp nghĩ của dân tộc Việt Nam, lưu truyền đến ngày nay.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Minh Đức, Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương, Hồ Thích, NXB Văn
Hóa Thơng Tin, Hà Nội, 2014.
2. Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 2019.
3. Nguyễn Văn Dương, Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Phùng Hữu
Lan, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2016.
4. Nguyễn Đăng Thục, Lịch Sử Triết Học Phương Đông, NXB TP. Hồ Chí
Minh, 2011.
5. Đồn Trung, Thuyết Chính danh - Giá trị thực tiễn, NXB Văn Hóa, Hà
Nội, 2018.

17




×