Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRUNG cấp CHÍNH TRỊ cấu TRÚC của hệ THỐNG PHÁP LUẬT xã hội CHỦ NGHĨA LIÊN hệ THỰC tế về cấu TRÚC của hệ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.89 KB, 15 trang )

1

TỈNH ỦY
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*

BÀI THU HOẠCH HẾT HỌC PHẦN
Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính

CHỦ ĐỀ:
CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA. LIÊN HỆ
THỰC TẾ VỀ CẤU TRÚC CỦA HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY

Họ tên học viên:
Lớp:
Phần: III.1

, năm 2021


2

PHẦN I. MỞ ĐẦU
Pháp luật xuất hiện trong mọi mặt của đời sống và là công cụ quan trọng để
Nhà nước thực hiện việc tổ chức và quản lí xã hội. Thông qua pháp luật, con người
được sống và làm việc trong một mơi trường an tồn và có kỷ luật. Vai trị của
pháp luật có thể được xem xét ở nhiều góc độ, mức độ, nhiều khía cạnh và nhiều
chiều khác nhau. Bất cứ một quốc gia nào cũng cần ngày càng hoàn thiện hệ thống


pháp luật để nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người cũng như sự
phát triển của đất nước mình.
Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng
những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích
của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các
chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật.
Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó khơng chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà
vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể
hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công
dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản
xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” .
Vấn đề thực hiện pháp luật có vị trí, vai trị quan trọng trong tồn bộ các hoạt
động pháp luật. Trong xu thế đổi mới quản trị nhà nước như hiện nay, người dân
ngày càng đóng vai trị quan trọng vào q trình xây dựng và thực thi pháp luật thì
việc sử dụng pháp luật một cách hiệu quả của cơng dân càng có ý nghĩa thiết thực
hơn bao giờ hết.
PHẦN II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VÀ CÁC NGÀNH HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.1. Cấu trúc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể bao gồm tổng thể các
quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định
thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản
do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức
nhất định.


3


Hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt trong một
chỉnh thể thống nhất là hệ thống cấu trúc của pháp luật (bên trong) và hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật (hệ thống nguồn của pháp luật).
- Hệ thống cấu trúc của pháp luật:Là tổng thể các quy phạm pháp luật có
mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp
luật và các ngành luật. Hệ thống cấu trúc có ba thành tố cơ bản ở ba cấp độ khác
nhau là quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật.
+ Quy phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất (tế bào) trong hệ thống cấu trúc của
pháp luật, nó vừa có tính khái qt vừa có tính cụ thể. Có tính khái qt vì nó là quy
tắc xử sự chung, dùng để áp dụng trên một diện rộng và trong một thời gian dài. Có
tính cụ thể, vì đó là hình mẫu, là chuẩn mực để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
trường hợp cụ thể đã được dự liệu bằng phương pháp trừu tượng hố. Do tính chất,
đặc điểm đó, quy phạm pháp luật ln là sự biểu hiện đầy đủ, chính xác và cụ thể
nhất của pháp luật trong phạm vi hẹp nhất.
+ Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống
nhau nhằm điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội tương ứng. Chế định pháp luật mang
tính chất nhóm, mỗi chế định có đặc điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại
thống nhất với nhau, chúng không tồn tại biệt lập.
+ Ngành luật bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật có đặc điểm chung để điều
chỉnh các quan hệ cùng loại trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa được phân chia thành các ngành luật.
Tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thuộc một lĩnh vực nhất
định của đời sống xã hội, hợp thành một ngành luật nhất định. Mỗi ngành luật điều
chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội có nội dung, đặc điểm, tính chất gần nhau.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật rất phong phú, đa dạng, được ban hành vào
các giai đoạn khác nhau nhưng hợp thành một hệ thống nhằm mục đích điều chỉnh
các quan hệ xã hội, thiết lập trật tự pháp luật. Văn bản pháp luật có giá trị pháp lý
cao nhất là hiến pháp, dưới hiến pháp là các bộ luật, đạo luật, tiếp đến là các văn
bản có giá trị pháp lý thấp hơn.

1.2. Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam


4

Tuy mức độ phát triển của các ngành luật khác nhau, cơng tác hệ thống hố
đối với một số ngành luật chưa được hồn chỉnh nhưng nhìn chung hệ thống pháp
luật của Việt nam hiện nay gồm các ngành luật cơ bản sau.
- Luật nhà nước (còn gọi là luật hiến pháp): gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, về chế
độ chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, về quốc tịch v.v..
- Luật hành chính gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành-điều hành
của nhà nước trên các lĩnh vực hành chính-chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội.
- Luật tài chính bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động tài chính của nhà nước, trong quá
trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể hoạt động
phân phối của cải dưới hình thức giá trị.
- Luật ngân hàng là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
- Luật đất đai là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất.
- Luật dân sự gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ tài sản dưới hình thức hàng hố-tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản.
- Luật lao động là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động (cá nhân, tổ chức).
- Luật hơn nhân và gia đình bao gồm tổng thể những quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh do việc kết hơn giữa
nam và nữ.

- Luật hình sự là tổng thể những quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là
tội phạm, mục đích của hình phạt và những điều kiện áp dụng hình phạt, hình thức
và mức độ hình phạt đối với người có hành vi phạm tội.
- Luật tố tụng hình sự gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội phát sinh trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, và thi hành án
về hình sự.
- Luật tố tụng dân sự là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ giữa cơ quan xét xử, viện kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những người
tham gia khác trong quá trình điều tra và xét xử những vụ án dân sự.


5

- Luật kinh tế là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan
hệ phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa các
doanh nghiệp với nhau và với cơ quan nhà nước.
Bên cạnh hệ thống pháp luật quốc gia còn tồn tại hệ thống pháp luật quốc tế, gồm
hai bộ phận: Công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế.
- Công pháp quốc tế là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những
quy phạm được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng trên cơ
sở thoả thuận tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ nhiều mặt giữa
chúng.
- Tư pháp quốc tế bao gồm những nguyên tắc và những quy phạm pháp luật
điều chỉnh những quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự
nảy sinh giữa các công dân, các tổ chức của các nước khác nhau.
Toàn bộ các văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật trong quân đội là
một bộ phận pháp luật của Nhà nước, do đó mọi cơ quan, tổ chức, mọi cán bộ,
chiến sỹ trong quân đội đều phải nghiêm chỉnh chấp hành.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng, Bác Hồ và toàn
dân tộc ta lựa chọn, trên con đường ấy, trong thời kỳ quá độ, việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống phát luật XHCN là vất để căn bản đề thực hiện mọi quyền lực
thuộc về nhân dân. Để tiếp tục có những định hướng đúng cho việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong vài ba thập kỷ tới, chúng tôi thiết
nghĩ có 3 điều trước hết cần phải làm: thứ nhất, cần có một tư tưởng, đường lối
đúng; thứ hai, cần có một tư duy chiến lược đúng; thứ ba, cần có một quy trình làm
luật phù hợp.
2.1. Về tư tưởng, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng về hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay
Việc Ban chấp hành Trung Ương Đảng ban hành Nghị quyết này thể hiện vai
trò và tầm quan trọng đặc biệt của xây dựng và hồn thiện hệ thống thể chế, pháp luật
trong cơng cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền giai đoạn mới. Muốn xây dựng
thành cơng Nhà nước pháp quyền, trong đó đặc trưng cơ bản là Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật và kiến tạo phát triển bằng pháp luật, bảo đảm quyền con người,
quyền cơng dân thì phải lấy pháp luật làm trung tâm; nhiệm vụ xây dựng và hoàn


6

thiện thể chế phải luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật theo Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị trong 15 năm qua đã thu được nhiều
thành quả to lớn, rất đáng ghi nhận, nhưng thành tựu của cải cách tư pháp thì cịn rất
khiêm tốn. Theo đó, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 khẳng định nguyên tắc trong tổ
chức thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam đó là: quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lực
nhà nước, trong đó, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Quy định của
Hiến pháp năm 2013 cùng với những định hướng dù đã cũ nhưng tư tưởng cải cách
thì vẫn cịn tươi ngun trong Nghị quyết 49, cần tiếp tục cải cách tư pháp với một

quyết tâm chính trị mạnh mẽ và thực chất hơn, đặc biệt là việc tổ chức lại cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân, hình thành một cơ quan thực hành quyền cơng tố (có thể là
Viện cơng tố thuộc Chính phủ) theo đúng vị trí, vai trị và tính chất của cơ quan này;
đồng thời tăng thêm “nồng độ” cho các quy định về kiểm soát quyền lực giữa hành
pháp với tư pháp, điều đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 nhưng chưa
được cụ thể hóa đầy đủ trong các đạo luật.
Về vấn đề tổ chức thi hành pháp luật, tiếp tục kế thừa cấu trúc của Nghị
quyết 48, vì Nghị quyết 48 đã bao hàm nội dung này. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức
thực hiện Nghị quyết 48 cho thấy, mảng tổ chức thi hành pháp luật còn bị coi nhẹ,
chưa có những giải pháp thực sự đột phá trong tổ chức thực thi, hiệu quả còn rất
thấp. Chiến lược về vấn đề này cho giai đoạn tới cần đưa ra những giải pháp và
công cụ thực tế hơn, đem lại hiệu quả rõ ràng hơn trong tổ chức thi hành pháp luật.
Thực tế cho thấy, dù chúng ta có một hệ thống pháp luật tốt nhưng nguồn lực, công
cụ và biện pháp thực thi kém, ý thức pháp luật của người dân thấp thì hệ thống
pháp luật đó cũng chỉ nằm trên giấy mà không đi vào cuộc sống để phát huy tác
dụng được.
2.2. Về tư duy chiến lược, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo
hướng: xây dựng một hệ thống pháp luật hội nhập và kiến tạo phát triển
Hệ thống pháp luật Việt Nam kể từ thời điểm đổi mới đất nước năm 1986
đến nay đã phát triển khơng ngừng và đang trong giai đoạn hồn thiện và sẽ cịn
phải tiếp tục hồn thiện. Với mục tiêu xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt


7

Nam hiện đại, một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh, hệ thống pháp luật cho tương lai cần phải được xây
dựng thành một hệ thống pháp luật có đặc trưng chủ đạo là hội nhập và kiến tạo
phát triển.
Thứ nhất, cần có một chủ thuyết trong nghiên cứu khoa học pháp lý cũng

như trong xây dựng pháp luật
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện nay, xét về mặt học thuật,
hình như chúng ta khơng có một chủ thuyết, hay theo đuổi một trường phái pháp luật
nào thật sự rõ nét. Chúng ta gần như đang đứng trước ngã ba đường của các trường
phái khoa học luật học, cả Đông, cả Tây, cả cũ cả mới. Thời kỳ trước đổi mới, khoa học
pháp lý cũng như tư duy pháp luật của Việt Nam gần như hoàn tồn chịu sự ảnh hưởng
của trường phái pháp luật Xơ Viết. Đó là một mơ hình nặng về nghiên cứu lý thuyết,
coi trọng tính hàn lâm mà thiếu tính thực tiễn và ứng dụng. Khi mơ hình thể chế kiểu
Xơ Viết xụp đổ, và sau đó là sự du nhập của các trường phái pháp luật mới đến từ các
khu vực kinh tế thịnh vượng hơn, có bề dầy xây dựng nhà nước pháp quyền thì nghiên
cứu lý luận pháp luật, khoa học pháp lý của Việt Nam trong hơn ba mươi năm qua có
thể nói là gần như thiếu một chủ thuyết! Người ta có thể tìm thấy một vài nét chấm phá
hay độc đáo trong nghiên cứu nhưng khơng tìm thấy một mơ hình lý thuyết pháp luật
nào thật sự rõ nét. Có nhiều người vẫn hồi niệm và đi theo trường phái Xô Viết, vẫn là
ngành luật, vẫn là đối tượng, phạm vi và phương pháp điều chỉnh và tư duy lý thuyết.
Tuy nhiên, cũng có những người thực tế hơn, họ tiếp cận hệ thống pháp luật, ngành
luật, hay nói đúng hơn là lĩnh vực pháp luật theo trường phái của các nước phát triển
mà ở đó, người ta ít quan tâm đến khía cạnh hàn lâm của pháp luật (nói đúng hơn là
nghiên cứu hàn lâm dành cho những nhà nghiên cứu, những viện nghiên cứu chun
sâu); trong đào tạo thì coi trọng tính ứng dụng, đào tạo luật trong những tình huống của
thực tiễn và hướng về thực tiễn; trong xây dựng pháp luật thì coi trọng yếu tố thực tiễn
và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trên cơ sở của lý thuyết thực chứng.
Trong xây dựng pháp luật, cũng có thể nói là trong hơn ba thập kỷ qua
chúng ta cũng không đi theo một trường phái pháp luật nào thực sự rõ ràng. Đây
cũng là hệ quả tất yếu của tư duy khoa học pháp lý nêu trên. Mới nhìn thì có thể
thấy tư duy pháp lý, cấu trúc hệ thống pháp luật cũng như tư tưởng chính sách về


8


cơ bản là theo trường phái pháp luật châu Âu lục địa (Civil law), nhưng nghiên cứu
kỹ thì thấy có sự pha tạp của nhiều tư duy pháp lý, tư tưởng chính sách đến cấu
trúc của nhiều hệ thống, trường phái pháp luật khác nhau. Đối với lĩnh vực hình sự
và tổ chức bộ máy nhà nước vẫn cịn có sự ảnh hưởng rất lớn của mơ hình pháp
luật thời Xô Viết; lĩnh vực pháp luật về dân sự và thương mại thì chịu ảnh hưởng
nhiều của trường phái pháp luật châu Âu lục địa (Civil law) của Pháp, Đức, Nhật,
nhưng cũng có những dấu ấn của trường phái pháp luật Anh – Mỹ (common law).
Thậm chí trong một lĩnh vực pháp luật, trong một đạo luật được ban hành cũng có
sự pha tạp của các trường phái, các quan điểm pháp luật khác nhau
Thứ hai, cần chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển
trong xây dựng pháp luật
Vấn đề trước nhất trong đổi mới tư duy làm luật hiện nay theo chúng tôi đó
là, cần chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển. Nội hàm của
khái niệm “kiến tạo phát triển” là gì đã được nhiều chuyên gia phân tích, trao đổi.
Ở đây chúng tơi chỉ đề cập đến một nhân tố, một cấu thành mà chúng tôi cho là cơ
bản nhất, cốt yếu nhất của khái niệm kiến tạo phát triển đó là nhân tố pháp luật.
Một Nhà nước kiến tạo phát triển, theo chúng tôi, nói một cách tổng quát nhất là
Nhà nước đó cần phải tạo lập cho được hai hệ thống hạ tầng thiết yếu sau:
Thứ nhất, “hạ tầng mềm”, đó là hệ thống thể chế, pháp luật;
Thứ hai, “hạ tầng cứng” đó là hệ thống cơ sở vật chất nền tảng cho phát triển
kinh tế - xã hội, như hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin truyền
thông, quy hoạch khơng gian phát triển, sử dụng nguồn lực…
Ở góc độ tạo lập hạ tầng mềm, Nhà nước kiến tạo phát triển là Nhà nước
pháp quyền, quản trị đất nước bằng pháp luật và theo pháp luật, bảo đảm các quyền
con người và quyền cơng dân, ít can thiệp hành chính vào đời sống xã hội. Nói
cách khác, muốn xây dựng một nhà nước kiến tạo phát triển thì việc trước nhất và
cơ bản nhất mà Nhà nước cần làm là phải xây dựng được một hệ thống pháp luật
đầy đủ, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của hiện tại cũng như phải phù hợp
với xu thế phát triển của tương lai. Hệ thống pháp luật đó cần phải được xây dựng
và hoàn thiện bằng một tư duy mới đó là làm luật vì mục tiêu tạo dựng cho phát

triển chứ không phải là để quản lý, giám sát theo nghĩa cai trị. Nói đúng hơn, làm
luật khơng phải chỉ để quản lý, để bảo đảm an toàn xã hội một cách thuần túy và


9

cứng nhắc theo kiểu tư duy cũ mà phải hướng đến việc tạo dựng một môi trường,
một hành lang pháp lý an toàn, thuận lợi cho sự phát triển của xã hội. Với chủ
trương xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển như nêu trên thì mục tiêu kiến tạo
phát triển của pháp luật cũng phải được nhận thức là mục tiêu chủ yếu.
Trong hơn 35 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã không ngừng đổi mới tư
duy làm luật, với mục tiêu xây dựng một hệ thống pháp luật định hướng cho phát
triển, nhưng do ảnh hưởng của tư duy cũ, trong xây dựng pháp luật vẫn còn tồn tại
đâu đó tư duy làm luật là để quản lý, là để bảo đảm sự an tồn, thậm chí là sự kiểm
soát chặt chẽ của Nhà nước hơn là tạo dựng một môi trường, một hành lang pháp
lý thuận lợi cho phát triển. Đây là vấn đề không dễ xóa bỏ trong một sớm một
chiều, nhất là trong cơ chế và quy trình làm luật hiện nay khi việc đề xuất chính
sách cũng như soạn thảo các dự án luật vẫn chủ yếu được thực hiện bởi các cơ
quan quản lý lĩnh vực chuyên ngành và không loại trừ khả năng bị chi phối bởi lợi
ích cục bộ, bởi tâm lý muốn có quyền để có cơ hội lợi dụng, trục lợi. Và nếu khơng
được kiểm sốt chặt chẽ thì rất có thể các đạo luật được ban hành không đáp ứng
được yêu cầu kiến tạo hành lang an tồn, mơi trường thuận lợi cho phát triển mà
chỉ nhằm mục đích kiểm sốt, quản lý thuần túy, trở nên kìm hãm sự phát triển.
Từ đó, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy pháp luật theo quan điểm: pháp luật
khơng chỉ thiết lập sự an tồn cho quản lý mà điều quan trọng hơn là kiến tạo một
môi trường, một hành lang thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển. Mục tiêu cuối
cùng của quản lý nhà nước phải là phục vụ Nhân dân và kiến tạo phát triển, khơng
phải chỉ đơn thuần là sự an tồn cứng nhắc của xã hội. Để chuyển đổi được từ tư
duy quản lý sang tư duy phục vụ và kiến tạo phát triển thì cũng cần phải thay đổi
nhiều nhận thức và cách làm trong quy trình xây dựng pháp luật hiện hành.

2.3.Cần đổi mới quy trình làm luật
Có thể nói, quy trình làm luật hiện nay cịn có nhiều bất cập. Bắt đầu từ Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, việc đổi mới quy trình xây dựng
pháp luật có những thay đổi rất khơng hợp lý, không dựa trên cơ sở khoa học mà
mang nặng dấu ấn chủ quan và sau đó được Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 kế thừa.
Có nhiều điều bất hợp lý trong quy trình xây dựng pháp luật hiện hành, với 2
nội dung được các cơ quan báo chí, và các nhà nghiên cứu đưa ra đó là:


10

Thứ nhất, quy trình cắt khúc trong quá trình soạn thảo và trình luật. Đó là
quy trình mà cơ quan soạn thảo và trình luật chỉ có trách nhiệm soạn thảo và trình
dự án luật ra Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất, sau đó Ủy ban tư vấn Quốc hội sẽ là
cơ quan chủ trì tiếp thu, chỉnh lý và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ hai để xem
xét, thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế, một Ủy ban của Quốc hội sẽ lĩnh trách
nhiệm tiếp quản dự án luật đó để chủ trì nghiên cứu, tiếp thu và chỉnh lý. Vấn đề là
ở chỗ, ủy ban đó lại chính là ủy ban vừa được phân cơng và có báo cáo thẩm tra dự
án luật trước Quốc hội. Câu hỏi đặt ra là, tại sao chúng ta lại biến cơ quan thẩm tra
thành cơ quan tiếp thu, trình luật? tại sao cơ quan thẩm tra lại làm thay vai của cơ
quan chủ trì soạn thảo và trình luật? Về nguyên tắc, nếu một ủy ban của Quốc hội
soạn thảo và đệ trình luật thì sẽ có các ủy ban khác của Quốc hội thẩm tra. Tuy
nhiên, trong quy trình này, ủy ban của Quốc hội lại lấy dự án luật do chính mình
thẩm tra để tiếp thu và trình thơng qua mà khơng có ủy ban nào của Quốc hội thẩm
tra lại. Trong khi đó, cơ quan chủ trì soạn thảo và trình luật bị mất vai trị và khơng
cịn tiếng nói bảo vệ quan điểm cũng như các định hướng chính sách đã được cân
nhắc và lựa chọn, không thể bảo vệ và chịu trách nhiệm đến cùng về “đứa con tinh
thần” của mình.
Đã đến lúc cần phải thay đổi quy trình này. Theo đó, cơ quan trình dự án luật

phải được quyền chủ trì và bảo vệ quan điểm của mình trong tồn bộ q trình
soạn thảo và trình thơng qua dự án luật. Cịn cơ quan thẩm tra, dù đó là các ủy ban
của Quốc hội hay Ủy ban tư vấn Quốc hội thì hãy làm đúng chức năng của cơ quan
thẩm tra, giúp Quốc hội xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông
qua một dự án luật là điều hồn tồn có thể xẩy ra nhưng khơng nên làm thay và
tước đi quyền của cơ quan soạn thảo dự án luật. Quyền lập pháp vẫn luôn là quyền
của Quốc hội, Quốc hội có thể thơng qua hoặc khơng thông qua bất kỳ một đạo
luật nào. Thực tiễn lập pháp của những năm qua cho thấy, chúng ta đã phải trả giá
cho sự bất hợp lý của quy trình nêu trên. Bài học về những sai sót của Bộ luật Hình
sự năm 2015 dù có hi hữu cũng chính là bắt nguồn từ quy trình cắt khúc này. Dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật vừa được trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 vừa qua, Chính phủ đã đề


11

xuất thay đổi quy trình nói trên, theo đó, cơ quan chủ trì soạn thảo và trình luật tiếp
tục thực hiện vai trò tiếp thu và chỉnh lý dự án luật dưới sự chủ trì của Ủy ban tư
vấn Quốc hội, sau khi Quốc hội cho ý kiến lần đầu. Cơ quan thẩm tra thực hiện
đúng vai trò thẩm tra và tham mưu cho Quốc hội về dự án luật. Rất tiếc là quan
điểm đối mới nêu trên vẫn chưa nhận được sự đồng thuận cao trong Quốc hội. Việc
thay đổi quy trình như nêu trên khơng phải là sự đổi vai mà là trả lại đúng vai của
các cơ quan tham gia trong quy trình làm luật.1
Thứ hai, quy trình một dự án luật phải được trình tại hai kỳ họp Quốc hội.
Mặc dù Điều 73 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ Quốc hội
xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại một hoặc hai kỳ họp Quốc
hội; trường hợp dự án luật lớn, nhiều điều, khoản có tính chất phức tạp thì Quốc
hội có thể xem xét, thơng qua tại ba kỳ họp. Tuy nhiên, trên thực tế thì Ủy ban tư
vấn Quốc hội ngay từ khi ban hành Nghị quyết về triển khai Nghị quyết của Quốc
hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm đều xác định trước là hầu

hết các dự án luật đều được trình Quốc hội cho ý kiến và thơng qua tại hai kỳ họp.
Cũng từ đó sinh ra quy trình cắt khúc thành hai giai đoạn như nêu trên. Tại sao hầu
hết các dự án luật đều phải trình Quốc hội tại hai kỳ họp và đều được xác định
trước khi trình luật như vậy? Nếu một dự án luật được chuẩn bị tốt, bảo đảm chất
lượng để thông qua lại khơng thể thơng qua? Vì nếu dự án luật được thơng qua thì
sẽ đỡ tốn kém tiền bạc hơn và cũng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống được
sớm hơn. Có lẽ, chúng ta nên tiếp cận vấn đề này một cách thực tế và mềm dẻo
hơn cho phù hợp với tinh thần của Điều 73. Hơn nữa, Điều 74 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật cũng quy định: Trong trường hợp dự thảo chưa được
thơng qua hoặc mới được thơng qua một phần thì Quốc hội xem xét, quyết định
việc trình lại hoặc xem xét, thông qua tại kỳ họp tiếp theo theo đề nghị của Ủy ban
tư vấn Quốc hội. Như vậy, một dự án luật có thể được xem xét, thơng qua ngay
trong một kỳ họp của Quốc hội hay hai kỳ, thậm chí ba kỳ là quyền của Quốc hội,
khơng nên được xắp đặt ngay từ khi lập chương trình như hiện nay. Tất cả là ở chất

1

/>

12

lượng dự án luật và yêu cầu của thực tiễn, và hãy để điều đó cho Quốc hội xem xét,
quyết định.
CHƯƠNG III: BÀI HỌC GẮN VỚI CÔNG VIỆC BẢN THÂN
Pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung, pháp luật của Nhà nước ta nói riêng là
cơng cụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản, công cụ quản lý, điều hành mọi lĩnh vực,
mọi quan hệ xã hội; là thước đo hành vi hợp pháp hay không hợp pháp của mọi tổ
chức, cá nhân. Việc nghiên cứu kiến thức về pháp luật có ý nghĩa quan trọng nhằm
trang bị hành trang tri thức cho người cơng dân xã hội mới, đó là việc hình thành
thói quen ứng xử, lối sống tơn trọng pháp luật. Từ đó cùng góp phần xây dựng xã

hội ổn định, phát triển.
Việc thực thi pháp luật và việc sử dụng pháp luật của công dân cũng đồng
nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn
trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí
và nguyện vọng của số đơng, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói, sử dụng
pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự phát triển của xã hội, chỉ khi
công dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình thì việc sử dụng pháp luật mới có
hiệu quả đích thực. Việc sử dụng pháp luật của cơng dân khơng chỉ tạo nên chất
keo dính kết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân mà trong q trình đó, gạn đục
khơi trong, tìm ra những vẫn đề cịn tồn tại để tháo gỡ, những vướng mắc nảy sinh
để giải quyết, từ đó tạo nên sự ổn định của xã hội. Mặt khác, "pháp luật bao giờ
cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến
nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trị của pháp
luật càng quan trọng bấy nhiêu.
Trên cương vị là người cán bộ, đảng viên, bản thân luôn xác định cần phải
gương mẫu trong lời nói và việc làm. Trong quản lý, giáo dục, cán bộ công chức,
bản thân luôn là tấm gương để mọi người học tập, noi theo. Để nâng cao ý thức tự
giác chấp hành kỷ luật, pháp luật cho đội ngũ cán bộ các cấp phải mẫu mực trong
lời nói và hành động; thực sự gần gũi, sâu sát, hòa đồng với cấp dưới; chống mọi
biểu hiện tự do, tùy tiện trong rèn luyện, chấp hành kỷ luật, lời nói khơng đi đơi


13

với việc làm, thiếu gương mẫu trong chấp hành pháp luật Nhà nước, chế độ, quy
định của đơn vị. Ngoài việc đề cao quản lý, giáo dục, rèn luyện đoàn viên, hội
viên, các tổ chức cần chú trọng lựa chọn nội dung đột phá, xung kích khắc phục
dứt điểm khâu yếu, mặt yếu trong chấp hành pháp luật, kỷ luật. Nắm chắc đặc

điểm tâm lý, lứa tuổi để vận dụng sáng tạo, hiệu quả các hình thức, phương pháp
giáo dục nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, kỷ luật. Tăng cường bồi
dưỡng kỹ năng sống, khả năng đối mặt với áp lực, khó khăn và giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong cuộc sống. Thường xuyên chăm lo bảo đảm đời sống vật chất,
tinh thần cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên phấn đấu tốt hơn tiêu chuẩn, chế độ
quy định.
Quan tâm hơn nữa đến đến việc đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, các thiết
chế văn hóa; thực hiện đúng qui định về xây dựng và sử dụng tủ sách pháp luật,
ngăn sách pháp luật. Thường xun thơng báo tình hình vi phạm kỷ luật cho cán bộ
cơng chức kết hợp với phân tích ngun nhân, kịp thời định hướng tư tưởng, rút
kinh nghiệm, tìm biện pháp ngăn chặn phòng ngừa. Năm, quản lý, định hướng tư
tưởng phải gắn với duy trì, quan lts chặt chế độ, nền nếp chính quy, nhất chế độ
làm việc trong ngày của cơ quan, thực hiện giờ nào việc ấy, quản lý con người với
quan lý công việc phải ln song hành và có cách giải quyết linh hoạt, mềm dẻo.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có biểu
hiện tương đối tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách
của nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công tác tuyên truyền
pháp luật của các cơ quan chức năng; tất cả những nhân tố đó đã tạo cho người dân
một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật, từ đó, người dân chấp hành,
tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và nghiêm chỉnh. Ví dụ
như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà nước như tham nhũng
về đất, tiền đóng góp của người dân. . . đã bị người dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân
ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương của chính phủ trong việc giải quyết dứt khốt,
khơng tránh né dù đối tượng có cương vị, trọng trách cao đến đâu, cũng có nghĩa
rằng nhu cầu cơng bằng xã hội được dư luận xã hội quan tâm, tán thành, ủng hộ.


14


Không chỉ đem lại quyền lợi cho người dân mà thể hiện tính dân chủ của nhà nước.
Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp luật của người dân đã được củng cố và
nâng cao.
Sự phát triển về kinh tế với những chính sách kinh tế thuận lợi; đường lối
chính trị đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống và
những đổi mới theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ thống pháp
lý chặt chẽ đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật một cách hiệu quả
nhất. Nhìn chung, xã hội hiện nay tương đối ổn định, có điều kiện phát triển kinh tế
xã hội; để có được điều này là nhờ có hoạt động thực hiện pháp luật của con người
được đảm bảo, duy trì và giữ vững.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II.
2.Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. GS.TS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS. Đinh Văn Mậu: Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb.Giao thông vận tải, H.2008.
4. Điều 15 Hiến pháp 1992.
5. Xem Tổng tập văn bản QPPL của Quốc hội, UBTVQH từ Khóa I đến Khóa
VII, tập I, Nxb. Tư pháp – Hà Nội, năm 2006.
6. Xem Tổng tập văn bản QPPL của Quốc hội, UBTVQH, tập II và III, Quốc
hội khóa VIII và IX, Nxb. Tư pháp - Hà Nội, năm 2006; Luật của Quốc hội Khóa
X, Nxb. Chính trị Quốc gia – Hà Nội, năm 2003. Trong đó, QH Khóa VIII ban
hành 32 đạo luật, QH Khóa IX: 41, QH Khóa X: 35.



×