Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận trung cấp chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện
nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, hội nhập cùng thế
giới, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường tự do và phát triển bền vững. Để đáp
ứng một xã hội mới với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, tham gia vào các
hoạt động kinh tế, văn hoá - xã hội, cần phải xây dựng môi trường pháp lý
thông thoáng, lành mạnh và tiến bộ, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội góp phần vào sự phát triển chung của đất nước phải kể đến hoạt
động của các cơ quan tư pháp gồm Công an, Viện kiểm sát và Tòa án.
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Nghị
quyết về" cải cách Tư pháp ". Mục tiêu của các Nghị quyết này là xây dựng
nền Tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong đó trung tâm là công tác Tòa án và trọng tâm là "hoạt động xét xử" của
Toà án phải được tiến hành một cách có hiệu quả và hiệu lực cao. Trong
những năm qua, thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước, nhất là
Nghị quyết số 08- NQ/ TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị "Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tácTư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/ 6/ 2005 của Bộ chính trị "về cải cách tư pháp đến năm
2020" công cuộc cải cách Tư pháp đã được các cấp uỷ, Đảng lãnh đạo và tổ
chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự
quan tâm đối với công tác Tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, chất
lượng hoạt động Tư pháp đã được nâng lên từng bước, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung giải
quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế.


Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp
còn nhiều bất cập chưa được sửa đổi bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng
nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý đội ngũ
cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính
trị của một bộ phận cán bộ vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ,
thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề
nghiệp, vẫn còn tình trạng oan sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét
xử. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan tư
pháp còn nhiều thiếu thốn, kinh phí cấp chưa tương xứng với nhiệm vụ.
1
Trong bối cảnh chung đó, hệ thống toà án của tỉnh Điện Biên nói chung,
toà án huyện Tủa Chùa nói riêng cũng phải đối mặt với không ít những khó
khăn, bất cập. Toà án huyện Tủa Chùa là một toà án thuộc huyện vùng cao của
tỉnh Điện Biên được thành lập từ năm 1962. Hiện nay biên chế của cơ quan
mới chỉ có 05 đồng chí trong đó có 02 Thẩm phán, 02 thư ký và 01 kế toán.
Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của đơn vị còn thiếu thốn, chật hẹp chưa
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó điều kiện kinh tế - xã hội huyện Tủa
Chùa chậm phát triển, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế tự cung,
tự cấp là chủ yếu. Địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân chí
thấp, hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế. Một số loại tội phạm có chiều
hướng gia tăng như: tội phạm Ma tuý, chiếm đoạt tài sản, các mâu thuẫn trong
nhân dân vẫn còn nhiều và ngày càng phức tạp nhất là tranh chấp đất đai,
tranh chấp về quyền sở hữu tài sản….
Trong những năm qua, mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định
được cấp trên ghi nhận song xét cả về chủ quan và khách quan, có thể khẳng
định rằng Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa chưa thể theo kịp những yêu cầu
đặt ra trong cải cách tư pháp hiện nay. Chính vì vậy nghiên cứu những vấn về
lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra những giải pháp tích cực giúp Toà án Tủa
Chùa bắt kịp và đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay
trở thành vấn đề vô cùng bức xúc.

Là một cán bộ công tác tại Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa. Tôi chọn
đề tài:"Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại án
của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa" làm tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa
của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giải quyết xét xử các vụ
án trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân. Mục đích của đề tài nghiên
cứu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền của Toà án nhân dân nói chung, Toà án cấp huyện nói
riêng. Làm rõ thực trạng chất lượng xét xử của Toà án nhân dân huyện Tủa
Chùa. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp có cơ sở khoa học và có
tính khả thi để có thể vận dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng xét
xử của Toà án nhân dân cấp huyện nói chung và của Toà án nhân dân huyện
Tủa Chùa nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những cơ sở về quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và
nhà nước ta về nhà nước và pháp luật nói chung và nhà nước xã hội chủ nghĩa
nói riêng.
2
Nội dung đề tài nghiên cứu về kết quả giải quyết cũng như chất lượng
giải quyết, xét xử của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa trong 3 năm (2010-
2012) qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử của
Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài: được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương
pháp điều tra, phân tích tổng hợp, xử lý tài liệu thông tin bám sát các quan

điểm mới của Đảng, kết hợp giữa phân tích lý luận và nghiên cứu thực tiễn xét
xử.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận. Nội dung của tiểu luận được chia thành
3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận và pháp luật của vấn đề nâng cao chất lượng
xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện.
- Chương II: Thực trạng hoạt động xét xử của Toà án nhân dân Huyện
Tủa Chùa - Tỉnh Điện Biên từ năm 2010 đến năm 2012.
- Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng xét
xử của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa.
3
Chương I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1. Vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Toà án nhân dân
1.1. Vị trí, vai trò của Toà án nhân dân
Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam quy định bộ máy Nhà nước
gồm 04 loại cơ quan: Cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan hành chính Nhà
nước, cơ quan Viện kiểm sát và cơ quan xét xử (Toà án nhân dân). Mỗi cơ
quan đều có chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và thẩm quyền khác
nhau. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, các cơ quan của bộ máy
Nhà nước có tính độc lập tương đối, nhưng hoạt động trong một chỉnh thể
thống nhất, phối hợp chặt chẽ với nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức
năng nhiệm vụ chung của bộ máy Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội IX cuả Đảng Cộng sản Việt nam và Hiến pháp năm
1992 đã khẳng định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành chính và Tư pháp”. Cơ quan Toà án và Viện kiểm sát là các cơ
quan được Quốc hội phân công trực tiếp thực hiện quyền Tư pháp và được gọi

là cơ quan thuộc hệ thống Tư pháp. Toà án là một cơ quan nhà nước, Toà án
nhân dân có một vị trí đặc biệt quan trọng, Nhà nước thông qua Toà án để
thực hiện quyền Tư pháp của mình. Ở nước ta trong hệ thống các cơ quan Tư
pháp, Toà án nhân dân là khâu trọng yếu, cơ bản, là bộ phận không thể thiếu
được của Bộ máy nhà nước.
Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 đã mở rộng
thẩm quyền của Toà án và thành lập thêm các Tòa chuyên trách khác nằm
trong hệ thống Toà án nhân dân như: Toà Kinh tế, Toà Lao động, Toà Hành
chính (ở Toà án nhân dân tối cao,Toà án nhân dân cấp Tỉnh) và Toà án nhân
dân Tối cao quan lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức có sự phối hợp chặt
chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương. Điều 40 Luật tổ chức Tòa án quy
định:"Thẩm phán các Toà án nhân dân địa phương, Toà án Quân sự khu vực
do Chánh án Toà án nhân dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo
đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán".
Điều này đã làm cho công tác quản lý và công tác xét xử của Toà án
được đảm bảo hiệu quả hơn và thống nhất hơn.
Đồng thời tại Điều 170-Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Việc tăng thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án Quân sự
khu vực được xét xử các vụ án hình sự mà khung hình phạt tù từ 15 năm tù trở
xuống. Đây là chủ trương về cải cách, tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ
quan Tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị
4
quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 khoáVIII; Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IX và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính
trị"về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới".
Đặc biệt là Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày02/6/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã ghi rõ:"Trọng tâm là xây
dựng, hoàn thiện tổ chức hoạt dộng của Toà án nhân dân".
Với tư cách là một cơ quan bảo vệ pháp luật, hoạt động xét xử của Toà
án được thực hiện thông qua việc áp dụng pháp lụât để giải quyết các tranh

chấp xảy ra trong đời sống xã hội buộc mọi người phải tuân theo. Điều 12 luật
Tổ chứcToà án nhân dân năm 2002 quy định:" Bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi người tôn trọng.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định
của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Chính vì vậy, Toà án có vị trí trung tâm là "Cầu nối" giữa pháp luật của
Nhà nước với đời sống xã hội, làm cho pháp luật được thực thi. Bằng kết quả
hoạt động xét xử, Toà án đã góp phần quan trọng phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ củng cố chính quyền nhân dân. Thực hiện
dân chủ và công bằng xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Toà án
Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định: "Toà án nhân dân tối cao, Toà án
nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là
những cơ quan xét xử của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như
vậy chỉ có Toà án mới có quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh tế, hành chính và lao động. Ngoài Toà án ra không có một cơ
quan nhà nước nào có chức năng xét xử. Toà án nhân dân thực hiện chức năng
xét xử nhân danh Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Chính bằng hoạt động xét xử Toà án đã
góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu
tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân của xã hội.
Khi thực hiện chức năng xét xử, Toà án phải căn cứ vào các quy định
của pháp luật, cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng. Toà án thực hiện
chức năng xét xử của mình bằng việc ra bản án, quyết định. Các bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các

tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành.
5
Điều 72 Hiến pháp 1992 và điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: "Không ai bị coi là có tội và chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.
Hoạt động xét xử của Toà án có một vai trò và ý nghĩa to lớn trong hệ
thống các cơ quan nhà nước. Toà án nhân danh nhà nước giải quyết đến cận
cùng mọi tranh chấp trong xã hội. Bản án, quyết định của Toà án là quyết định
cuối cùng, thay thế tất cả các quyết định giải quyết của các cơ quan nhà nước
và các tổ chức xã hội khác. Chính vì vậy thông qua hoạt động xét xử của Toà
án mà kỷ cương phép nước được giữ vững, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân được đảm bảo.
Điều 126 Hiến pháp 1992 qui định:"Toà án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; trong phạm vi chức
năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính
năng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của nhân dân”. Đây cũng là các
nhiệm vụ chính của Toà án nhân dân trong thực hiện chức năng của mình. Là
một trong những cơ quan tiến hành tố tụng, Toà án phải đảm bảo cho mọi hoạt
động tố tụng của mình được tiến hành theo đúng qui định của pháp luật tố
tụng, luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 cũng như các qui định của Hiến
pháp về chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân. Ngoài ra Toà án còn phối
hợp với các cơ quan nhà nước như: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị-xã hội Tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân thông qua
các phiên toà xét xử, nhất là các phiên toà xét xử lưu động tại cơ sở địa
phương nơi xảy ra tội phạm cũng như các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình… đồng thời kết hợp với các cơ quan trong khối nội chính thực hiện tốt
các chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, có nhiều biện
pháp hữu hiệu phòng ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Ngoài chức năng xét xử ra, theo qui định của Pháp luật, trong quá trình
giải quyết các vụ án về dân sự, kinh tế, hành chính và lao động thì Toà án còn
có một chức năng nữa đó là "Người trung gian" tham gia vào việc hoà giải
giữa các bên đương sự với nhau trước khi mở phiên toà, vì hoà giải là nguyên
tắc bắt buộc đối với Toà án (Trừ một số trường hợp luật qui định không được
hòa giải). Trong quá trình hoà giải giữa các bên đương sự với nhau ngoài vai
trò là người trung gian phân tích, hướng dẫn, giải thích pháp luật cho các bên
đương sự hiểu được việc đúng sai của mình mà còn có ý nghĩa hết sức quan
trọng được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương
thân, tương ái trong cộng đồng dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những
tranh chấp trong nhân dân. Đồng thời làm tốt hoà giải sẽ hạn chế những tốn
kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước, công sức của cán bộ Nhà nước cũng
như của công dân, hạn chế được khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp.
2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
6
Toà án là một trong những cơ quan trong bộ máy Nhà nước thuộc hệ
thống các cơ quan Tư pháp, cho nên hoạt động của Toà án cũng phải tuân thủ
những nguyên tắc hoạt động chung của bộ máy Nhà nước như: Nguyên tắc
Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc pháp chế XHCN…
Tuy nhiên với chức năng của mình là cơ quan xét xử, nên nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Toà án mang tính chất đặc thù riêng và được quy định
ngay trong Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật tổ chức TAND năm 2002 đều
quy định những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của Toà án nhân
dân như sau:
Một là : "Việc xét xử của Toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của
Toà án Quân sự có cơ hội thẩm quân nhân tham gia theo qui định của pháp
luật. Khi xét xử, Hội Thẩm ngang quyền với Thẩm phán" (Điều 129 Hiến
pháp 1992; Điều 4 Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002),
Thực tiễn công tác xét xử của Toà án đã chứng minh rằng: Sự tham gia

của Hội thẩm vào công việc xét xử của Toà án là rất cần thiết, giúp cho Toà
án xét xử công minh, chính xác, khách quan và phát huy tác dụng giáo dục của
phiên toà. Nguyên tắc này còn khẳng định vị trí, vai trò của Hội thẩm trong
việc xét xử sơ thẩm bất kỳ một vụ án nào thuộc thẩm quyền của Toà án đều
phải có hội thẩm nhân dân tham gia. Tại điều 185 - Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 quy định: "Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai Hội
thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội
đồng xét xử có thể gồm haiThẩm phán và ba Hội thẩm.
Hai là: " Khi xét xử,Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật" (Điều 130 Hiến pháp 1992; Điều 5 Luật tổ chức Toà án nhân dân
2002).
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong tổ chức hoạt động của Toà
án bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế XHCN, bảo đảm sự tuân thủ của pháp
luật củaThẩm phán và Hội thẩm cũng như bảo đảm cho việc xét xử được
khách quan, toàn diện đúng pháp luật, không một cơ quan tổ chức hoặc cá
nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán
và Hội thẩm. Giữa Thẩm phán và Hội thẩm cũng không có sự rằng buộc lẫn
nhau trong quá trình giải quyết các vấn đề của vụ án. Khi xét xử Hội thẩm và
Thẩm phán có quyền ngang nhau trong việc giải quyết cả các vấn đề của vụ
án.
Ba là : " Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số".
Việc Toà án xét xử công khai, một mặt đảm bảo cho nhân dân thực hiện
quyền kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của Toà án; Mặt khác phát
huy được tác dụng giáo dục nâng cao hiểu biết pháp luật của công chúng
thông qua phiên toà. Đồng thời việc xét xử công khai của Toà án còn nhằm
7
mục đích tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với nhân dân nhằm
phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là sự thể hiện nguyên tắc

tập trung dân chủ trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân.
Bốn là: "Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự
bào chữa, hoặc nhờ ngườ ibào chữa cho mình ". (Điều 132 - Hiến pháp
1992).
Nguyên tắc này là thể hiện tính dân chủ và nhân đạo Xã hội chủ nghĩa
của pháp luật nước ta. Điều 11- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng qui
định:"Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa”
Năm là : "quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Toà
án". Nguyên tắc này bảo đảm quyền bình đẳng cho mọi công dân trước pháp
luật, không phân biệt thành phần dân tộc, khi tham gia tố tụng có quyền dùng
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này phải có phiên
dịch.
Trên đây là những nguyên tắc Hiến định quan trọng nhất đối với hoạt
động xét xử của Toà án. Ngoài ra còn có nguyên tắc giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Điều 135
Hiến pháp 1992 quy định: "Chánh án TANDTC chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội; Trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch
nước.
Chánh án Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Qui định này cũng là cơ sở nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Toà án
một cách chính xác và đúng theo quy định của Pháp luật.
3. Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án cấp huyện)
3.1. Về giải quyết án hình sự
Toà án nhân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án theo
quy định của pháp luật tố tụng:
Điều 170 - Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 qui định: Toà án nhân dân

cấp huyện và Toà án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về
những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
a. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
b. Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh:
8
c. Các tội qui định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219,
221,222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật
hình sự.
Như vậy,Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực được xét
xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng là tội
phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, tội
phạm nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù.
3.2. Về giải quyết vụ, việc dân sự, Hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao
động
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định thẩm quyền của Toà án các
cấp trên cơ sở của các qui định của pháp luật về tố tụng trước đó theo hướng
mở rộng Thẩm quyền cho Toà án cấp huyện.
Điều 33 - Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định:
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh (sau đây
gọi chung là Toà án nhân dân cấp Huyện) cóThẩm quyền giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a. Tranh cấp về dân sự, hôn nhân và gia đình qui định tại Điều 25 và
Điều 27 của Bộ luật này:
b.Tranh chấp về kinh doanh, thương mại qui định các điểm a,b,c,d,đ, e,
g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;
c. Tranh cấp về lao động qui định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này;
2. Toà án nhân dân cấp Huyện cóThẩm quyền giải quyết những yêu cầu

sau đây:
a. Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1,2,3 và 4 Điều 26 của Bộ
luật này;
b. Yêu cầu về hôn nhân và gia đình qui định tại khoản 1,2,3,4 và 5 Điều
28 của Bộ luật này;
3. Những tranh chấp, yêu cầu qui định tại khoản1 và khoản 2 Điều này
mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác cho cơ quan
lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.
Việc mở rộng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện trong việc giải
quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình xuất phát từ yêu cầu cải cách
tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, bảo đảm thực hiện tốt
nguyên tắc hai cấp xét xử,Toà án cấp huyện chủ yếu giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm, Toà án nhân dân cấp tỉnh chủ yếu giải quyết theo thủ tục phúc thẩm và
9
Toà án nhân dân Tối cao tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết
thực tiễn xét xử, hướng dẫn các Toà án áp dụng thống nhất pháp luật.
3.3. Về vụ án hành chính
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu
kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước từ cấp
huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cán bộ, viên chức của cơ quan Nhà nước đó ở các lĩnh vực: khiếu
kiện quyết định xử phạt hành chính, quyết định áp dụng biện pháp buộc tháo
rỡ công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình vật kiến trúc kiên
cố. . khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy
phép, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất,
kinh doanh, quản lý đất đai.
4. Chất lượng xét xử và các tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt
động xét xử
4.1. Khái niệm chất lượng xét xử

Qua nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn công tác xét xử có
thể hiểu: Chất lượng xét xử là mức độ đạt được về yêu cầu giải quyết các vụ
án phải đảm bảo được nguyên tắc đúng thời gian qui định của pháp luật xét
xử đúng người, đúng tội, đúng qui định của pháp luật, không để lọt tội phạm,
không làm oan sai cho người vô tội. Đảm bảo tính nghiêm minh khách quan,
vô tư. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tập thể và của mọi
công dân. Đảm bảo tính giáo dục, thuyết phục cao, luôn giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì xét xử đúng là đúng luật,
đúng người và đúng tội là cơ bản nhất. Điều đó có nghĩa là đối với xã hội việc
xét xử đúng có sức thuyết phục, ai cũng cảm thấy "thấu tình đạt lý". Đối với
bị cáo, các đương sự, luật sư bào chữa phải "tâm phục, khẩu phục" trước
mọi phán quyết của Toà án.
Xét xử là hoạt động có tính chất đặc thù của Toà án, là chức năng riêng
của Toà án. Ngoài Toà án ra không một cơ quan đơn vị nào được thực hiện
chức năng xét xử. Kết quả hoạt động xét xử của Toà án có trách nhiệm pháp lý
rất cao đối với bị cáo, các đương sự. Hậu quả pháp lý là rất nghiêm trọng đối
với những người bị kết án như tước một số quyền nhất định về vật chất cũng
như tinh thần của họ, thậm trí cả tính mạng. Vì vậy việc giải quyết bất kỳ một
vụ án nào được coi là chất lượng thì phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy
định của pháp luật cả về luật nội dung lẫn luật hình thức.
4.2. Tiêu chí để đánh giá chất lượng xét xử của Toà án nhân dân
Với nội dung khái niệm đã nêu ở trên, có thể hiểu rằng các tiêu chí đánh
giá chất lượng xét xử bao gồm yếu tố việc xét xử phải đúng người, đúng tội,
đúng quy định của pháp luật. Cụ thể:
10
Thứ nhất: xét xử đúng người (đối với án hình sự): Tại Điều 2 Bộ luật
hình sự năm 1999 quy định:"Chỉ người nào phạm một tội đã đượcBộ luật hình
sự qui định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Nghĩa là chỉ người nào do cố
ý hay vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và đủ các yếu tố cấu thành

tội phạm đã được quy định trong trong Bộ luật hình sự thì mới phải chịu trách
nhiệm hình sự và chịu hình phạt. Còn những người tuy có thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhưng không có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự và
không phải chịu hình phạt.
Thứ hai: Yếu tố xét xử đúng tội (Đối với án hình sự).
Phải căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự về mặt khách quan
của từng loại tội và ý thức chủ quan của người phạm tội, để xem xét, đánh giá
bị cáo phạm tội gì. Nghĩa là phải định tội danh đúng với hành vi phạm tội của
bị cáo. Việc định tội đúng với hành vi phạm tội là cơ sở pháp lý vững chắc và
là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng pháp luật. Việc định tội danh
đúng có ý nghĩa quyết định đối với việc đánh giá đúng về mặt pháp lý và
quyết định hình phạt vì luật hình sự qui định hình phạt đối với từng loại tội
đều dựa trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội tương ứng. Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến quyết định hình
phạt không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội đã được thực hiện và đương nhiên hình phạt đó hoặc là quá
nặng, hoặc là quá nhẹ đối với bị cáo. Như vậy không có tác dụng răn đe người
phạm tội cũng như phòng chống tội phạm.
Thứ ba: Yếu tố xét xử đúng pháp luật.
Đối với các loại vụ án yêu cầu xét xử đúng pháp luật là yếu tố quan
trọng trước hết để đánh giá chất lượng xét xử của Toà án. Vì đối với từng loại
án cụ thể đều có luật điều chỉnh riêng. Căn cứ vào đó mà xác định cho đúng
quan hệ pháp luật cần điều chỉnh mức độ và trách nhiệm pháp lý của từng loại
quan hệ pháp luật. Tránh tình trạng hình sự hoá quan hệ dân sự, hành chính
hoá quan hệ hình sự dẫn đến làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Trong mỗi loại vụ án có quy định mức độ và trách nhiệm pháp lý cụ thể để
buộc các đối tượng liên quan phải chấp hành.
Khi giải quyết các vụ án phải nghiên cứu kỹ toàn bộ hồ sơ vụ án trong
một thể thống nhất, toàn diện, đầy đủ và các tình tiết khác của vụ án để xác

định sự thật khách quan của vụ án để từ đó ra bản án, quyết định đảm bảo chất
lượng xét xử như đã nêu ở trên. Các yếu tố xét xử đúng người, đúng tội, đúng
quy định của pháp luật có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời
nhau, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Toà án có chất lượng.
5. Những quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của
cơ quan Tư pháp trong giai đoạn hiện nay
11
Để nâng cao chất lượng công tác tư pháp trên cơ sở quy định của pháp
luật như việc, bắt giam, giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt
động bổ trợ Tư pháp. Đồng thời để tránh việc lạm dụng bắt khẩn cấp, hình sự
hoá các quan hệ kinh tế, dân sự cũng như việc truy tố xét xử oan sai, ngày
17/3/2003 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết 388/ UBTVQH11 về
bồi thường thiệt hại cho người bị kết án oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Và ngày 18/6/2009 Quốc hội đã thông qua
luật bồi thường nhà nước
Ngày 02/6/2005 Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 49- NQ/TW"Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Nghị quyết đã đưa ra các quan điểm chỉ
đạo đối với công tác cải cách tư pháp như sau:
* Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo
đảm sự ổn định chính trị, bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
* Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội, bảo vệ vững chắc tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập
pháp, cải cách hành chính.
* Phát huy sức mạnh tổng hợp của Toàn xã hội trong quá trình cải cách
tư pháp, các cơ quan tư pháp, các cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự
giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân.

* Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những
thành tựu đã đặt được của nền tư pháp XHCN Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu
chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong
tương lai.
* Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.
Nghị quyết cũng nêu lên phương hướng trong chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 như sau:
- Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư
pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người.
- Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý,
khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện phương tiện làm việc;
trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trung tâm;
xã hội hoá mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
12
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có
chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm về chính trị,
phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội
đối với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số
chức danh.
- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám
sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động
tư pháp.
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TỦA CHÙA (2010-2012)

1. Khái quát những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng xét xử của toà
án nhân dân huyện tủa chùa
1.1. Vài nét về đặc điểm kinh tế xã hội huyện Tủa Chùa
Tủa Chùa là một huyện vùng cao của tỉnh Điện Biên với 12 đơn vị hành
chính (11 xã và một thị trấn); với số dân hơn 50 nghìn người; có 6 dân tộc anh
em cùng sinh sống. Trong đó : Dân tộc Mông chiếm hơn 70%, Đất đai, rừng
núi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, khí hậu ôn hoà, có nhiều tiềm năng
thuận lợi cho việc canh tác nông -lâm -ngư nghiệp. Nhân dân các dân tộc cần
cù, chịu khó, đoàn kết, có tinh thần giúp đỡ lẫn nhau trong khó khăn hoạn nạn,
luôn nêu cao tinh thần cách mạng và giàu lòng yêu nước.
Tuy nhiên, là một huyện vùng cao của Tỉnh Điện Biên, với xuất phát
điểm thấp, kinh tế xã hội chậm phát triển, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu,
kinh tế tự cung tự cấp là chủ yếu, địa bàn rộng giao thông đi lại khó khăn.
Trình độ dân trí thấp, trình độ hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế, một số
phong tục tập quán lạc hậu vẫn chưa được xóa bỏ. Hệ thống chính trị, cũng
như chính quyền ở cơ sở còn nhiều yếu kém, các loại tội phạm và tệ nạn xã
hội vẫn còn diễn biến phức tạp nhất là di dịch cư tự do, tranh chấp đất đai
thường xuyên xảy ra, vẫn còn tình trạng chăn nuôi thả rông gia súc dẫn đến
tranh chấp trâu, bò, ngựa các loại tội phạm như trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản,
tội phạm về ma túy ngày càng tinh vi, phức tạp làm gây mất ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, những âm mưu"diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch và nguy cơ tái tuyên truyền đạo trái phép vẫn còn tiềm ẩn
trong nhân dân nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số
1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động xét xử của Toà án nhân dân huyện
Tủa Chùa
Theo điều 32 luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 quy định về cơ cấu
tổ chức Toà án nhân dân cấp huyện như sau: Toà án nhân dân cấp huyện,
13
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có chánh án, một hoặc hai phó chánh án,

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Toà án. Tại điểm c khoản 2 điều 33 -
Bộ luật tố tụng hình sự quy định những người tiến hành tố tụng gồm:"chánh
án, phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Toà án"
Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa được thành lập từ năm 1962. Về cơ
cấu tổ chức khi mới thành lập chỉ có 3 biên chế trong đó có một Thẩm phán và
2 cán bộ; Đến nay tổng số cán bộ công chức Toà án nhân dân huyện có 05
biên chế. Trong đó có 01 chánh án, 01 phó chánh án, 01 kế toán và 02 thư ký.
Theo biên chế được Toà án nhân dân tối cao phân bổ hàng năm là 7 biên chế,
song do là một huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa cho nên việc tuyển chọn
cán bộ đồng ý vào công tác tại cơ quan Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa gặp
nhiều khó khăn.
- Về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức tòa án
Trong 05 cán bộ công chức có 04 đ/c đã qua đại học, 01 đ/c hiện đang
theo học đại học. nhìn chung đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ khá vững vàng, có kiến thức thực tiễn và tâm huyết với nghề. Về cơ
bản, đội ngũ Thẩm phán, thư ký đều có lập trường tư tưởng vững vàng, có
phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Không có Thẩm phán hay thư
ký nào mắc sai phạm về phẩm chất đạo đức, vi phạm về nguyên tắc đạo đức
nghề nghiệp cũng như vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên trong hoạt động xét xử vẫn còn những tồn tại hạn chế như:
một số cán bộ chưa chú ý nhiều đến việc tự học tập nghiên cứu tài liệu để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị nên có phần hạn
chế so với yêu cầu hiện tại. Mặt khác trình độ năng lực Thẩm phán chưa đồng
đều, ý thức trách nhiệm đôi lúc còn chưa cao, tác phong làm việc chưa khoa
học dẫn tới còn để một số vụ án kéo dài, chấp hành kỷ luật chưa nghiêm, còn
có hiện tượng đi muộn về sớm
-Về Hội thẩm nhân dân: Số lượng của Hội thẩm nhân dân của Toà án
nhân dân huyện Tủa Chùa là 17 đồng chí trong đó có 10 đồng chí có trình độ
đại học, 03 đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính trị, còn lại đều có trình

độ trung cấp lý luận và trung cấp chuyên môn, chỉ có 01 Hội thẩm nhân dân
có trình độ Đại học luật, trong tổng số 17 đồng chí thì có 14 đồng chí là cán bộ
công chức nhà nước, và 03 đồng chí là cán bộ đoàn thể xã, thị trấn.
Nhìn chung Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa có
tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình tham gia với hoạt động xét xử của tòa án, đã
góp phần không nhỏ vào biệc hoàn thành nhiệm vụ của Toà án nhân dân. Tuy
nhiên, việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân có lúc còn mang tính hình
thức, cơ cấu, ngồi xét xử cho đủ thành phần, có Hội thẩm nhân dân tham gia
phiên toà không phát huy được vai trò trách nhiệm của người Hội thẩm, chưa
nắm chắc được thủ tục tố tụng, phương pháp nghiên cứu hồ sơ, nghệ thuật
Thẩm vấn, có trường hợp Hội thẩm đặt câu hỏi không đúng trọng tâm, cách
đặt câu hỏi có tính khẳng định hoặc quá mang tính đời thường.
14
2. Đánh giá hoạt động xét xử của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa
giai đoạn (2010 - 2012)
2.1. Những kết quả đã đạt được
Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa trong 3 năm qua
(2010-2012) đã đảm bảo được tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, các vụ án xét
xử đều đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tập thể, của công dân. Việc xét xử
đều công minh đúng luật, không làm oan sai người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm
Trong hoạt động xét xử của Toà án đã thực hiện đúng nguyên tắc:
Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật. Quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật được đảm
bảo thực hiện không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần, địa vị
xã hội.
Toà án đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật khách
quan của vụ án một cách khách quan, Toàn diện và đày đủ đưa ra những phán
quyết đúng với quy định của pháp luật, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Từ năm 2010- 2012 Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa đã giải quyết xét
xử các loại án như sau:
- Về án hình sự: Tổng số thụ lý: 115 vụ = 140 bị cáo, kết quả giải quyết,
xét xử 115/115 vụ đạt 100%
Trong đó: + Đã xét xử: 112 vụ = 137 bị cáo
+ Trả hồ sơ Viện kiểm sát điều tra bổ sung: 3 vụ = 3 bị cáo
- Về án dân sự: Tổng số thụ lý 19 vụ
Trong đó: + Đã giải quyết: 19 vụ, đạt 100%
+ Hoà giải thành: 10 vụ
- Về án hôn nhân - gia đình: Tổng số thụ lý 47 vụ
Đã giải quyết 47 vụ, đạt 100%
Trong đó: Thuận tình ly hôn: 16 vụ, Hoà giải đoàn tụ thành: 01 vụ
- Về thi hành án phạt tù: đã ra quyết định hành án 116 bản án có hiệu
lực pháp luật với 142 bị án, đạt 100%.
Như vậy: Trong 3 năm qua Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa đã thụ lý
giải quyết được tất cả 178 vụ án các loại. Bình quân mỗi năm giải quyết 59 vụ.
15
Về chất lượng xét xử cụ thể được xác định theo bảng sau:

STT
Các loại án
Số án
thụ lý
xét xử
Số án kháng
cáo, kháng
nghị
Kết quả xét xử phúc
thẩm
Y án

Cải sửa
án
Huỷ án
1 Hình sự sơ thẩm 112 03 01 02 0
2 Dân sự sơ thẩm 19 01 0 0 01
3 Hôn nhân & Gia đình 47 01 0 01 0
4 Hành chính 0 0 0 0 0
Tổng số 178 05 01 03 01
* Đối với án hình sự: Tính từ năm 2010 đến năm 2012 Toà án nhân dân
huyện Tủa Chùa đã xét xử 112 vụ = 137 bị cáo. Trong đó 3 vụ kháng cáo
kháng nghị (2 vụ kháng cáo, 1 vụ kháng nghị). Kết quả xét xử phúc Thẩm: cải
sửa án sơ Thẩm: 01 vụ. nguyên nhân cải sửa án sơ thẩm là do người bị hại
kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường dân sự áp dụng đối với bị cáo (án tai
nạn giao thông). Kết quả phúc Thẩm chấp nhận yêu cầu của người bị hại tăng
mức bồi thường cho bị hại do bị cáo đồng ý, 01 vụ cấp phúc thẩm xử giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo nguyên nhân là do xuất hiện thêm tình tiết mới tại phiên
tòa phúc thẩm (bị cáo thành khẩn khai báo tại phiên tòa phúc thẩm)
Các loại án hình sự thường xảy ra trên địa bàn huyện Tủa Chùa là án về
ma tuý là chủ yếu chiếm khoảng 80% so với tổng số án thụ lý như các tội mua
bán, vận chuyển, tàng trữ, chứa chấp sử dụng trái phép các chất ma tuý. Ngoài
ra còn có các loại án như trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm tỷ lệ nhỏ.
Hoạt động xét xử án hình sự của Toà án tương đối đảm bảo về số lượng
và chất lượng. Trước khi xét xử Toà án đã nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án một
cách khách quan, thận trọng và tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Do đó
trong 3 năm qua đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát điều tra bổ xung: 3 vụ = 6 bị
cáo. Đặc biệt trong 03 năm qua Toà án đã đưa ra xét xử lưu động tại các xã
nơi điểm nóng về tình hình tội phạm tình hình xét xử: 31 vụ = 38 bị cáo. Từ
đó đã giáo dục quần chúng nhân dân cảnh giác và phòng ngừa tội phạm. Việc
xét xử đều đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Điều
đó chứng tỏ rằng đội ngũ Thẩm phán ngày càng trưởng thành và vững vàng về

chuyên môn. đường lối chỉ đạo án là đúng đắn, sát với thực tế, biết vận dụng,
áp dụng pháp luật và tình hình chính trị ở địa phương vào từng vụ án cụ thể.
16
Do đó việc phán quyết của Toà án đều đảm bảo, công bằng công minh được
quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ.
* Đối với án dân sự, hôn nhân và gia đình:
Trong 3 năm qua Toà án nhân dân huyện đã thụ lý và giải quyết tổng số:
66/66 vụ, đạt 100%
Trong đó các vụ xét xử có 02 vụ kháng cáo, kết quả án Phúc thẩm đã xử
1 vụ cải sửa án, lý do cải sửa là việc phân chia tài sản có phần chưa hợp lý; 01
vụ dân sự hủy án do thẩm phán xác minh, đánh giá chứng cứ không đầy đủ.
Nhìn chung, việc giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình trên địa bàn
huyện Tủa Chùa gặp nhiều khó khăn phức tạp như đường xá đi lại khó khăn,
các xã cách trung tâm Huyện từ 15 - 50 Km, các đương sự (nhất là bị đơn)
thường lẩn tránh không đến Toà án giải quyết mặc dù đã được tống đạt giấy
triệu tập hợp lệ, buộc Toà án phải cử cán bộ xuống cơ sở điều tra, xác minh
thu thập chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án, rồi động viên
thuyết phục, hoà giải đoàn tụ gia đình (đối với án hôn nhân và gia đình) và hoà
giải cho các bên đương sự hiểu được sự đúng sai, quyền và nghĩa vụ của mỗi
công dân (đối với tranh chấp dân sự)
* Đối với hành chính, lao động và kinh tế: Toà án nhân dân huyện Tủa
Chùa cũng như Toà án các huyện khác trong tỉnh Điện Biên đều chưa giải
quyết xét xử các loại án này do các bên tranh chấp một phần chưa biết cách
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình tại Toà án, chưa hiểu biết được hoạt động
của ba loại vụ án nêu trên, một phần tâm lý của đương sự thường ngại khởi
kiện ra Toà án.
* Đối với công tác Hội thẩm nhân dân:
Đoàn Hội thẩm Tòa án nhân dân với 17 Hội thẩm được Hội đồng nhân
dân huyện bầu năm 2012, đã đủ về số lượng và cơ cấu (có 01 HTND là giáo
viên, 03 HTND là cán bộ đoàn) thời gian qua luôn được Toà án và chính

quyền địa phương quan tâm, tạo mọi điều kiện để hoạt động. Toà án đã mua
sắm những tài liệu cần thiết để Hội thẩm nhân dân nâng cao hiểu biết pháp
luật, vận dụng vào xét xử như: các Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ
luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật lao
động và may trang phục cho Hội thẩm nhân dân theo quy định để sử dụng
khi tham gia xét xử. Đồng thời Toà án nhân dân tỉnh hàng năm đều tổ chức tập
huấn nghiệp vụ, thường xuyên tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm chuyên môn
đối với những vụ án có kháng cáo, kháng nghị. Do đó các Hội thẩm nhân dân
tham gia xét xử đều nhiệt tình và có trách nhiệm cao.
2.2. Những tồn tại và nguyên nhân của sự tồn tại
Qua báo cáo tổng kết hàng năm của Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa và
thông báo kết luận Giám đốc kiểm tra án của Toà án tỉnh thì Toà án nhân dân
huyện Tủa Chùa có những hạn chế sau:
17
- Về chất lượng xét xử của Toà án chưa thực sự được nâng lên thể hiện ở
việc nhận thức và vận dụng pháp luật chưa thống nhất, chưa đúng dẫn tới còn
bị huỷ án (1 vụ) cải sửa 2 vụ.
- Cách điều hành phiên toà và viết án còn bộc lộ những sơ xuất nhất định
như cách Thẩm vấn, viết án văn còn dài dòng, chưa tập chung vào những tình
tiết cơ bản của vụ án.
- Việc phối kết hợp với các ngành trong khối nội chính, khối tố tụng có
lúc còn chưa chặt chẽ.
* Nguyên nhân những tồn tại:
+ Nguyên nhân chủ quan:
- Các thiếu sót về công tác xét xử của Toà án trước hết thuộc về Thẩm
phán những người có trách nhiệm chính trong công tác xét xử và giải quyết
các vụ án cũng như lãnh đạo Toà án trong việc lãnh chỉ đạo hoạt động xét xử.
- Trình độ năng lực của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm chưa đồng đều,
cũng như việc cập nhật các thông tin từ nhiều phía còn bị hạn chế. Việc bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho Hội thẩm nhân dân chưa được chú trọng.

- Chưa thường xuyên tổ chức các buổi học tập các văn bản pháp luật mới
cũng như rút kinh nghiệm xét xử để Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký
kịp thời bổ xung kiến thức mới, phục vụ cho công tác xét xử.
+ Nguyên nhân khách quan:
- Hệ thống pháp luật của nhà nước ta hiện đang trong quá trình hoàn
thiện, nên thường xuyên có sửa đổi, bổ sung. Số lượng các văn bản pháp luật
rất lớn và điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau, một số quy
định trong một số văn bản pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn là khó khăn
lớn trong việc áp dụng pháp luật và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến việc cải sửa, huỷ án
- Mặc dù theo quy định của pháp luật thì các đương sự phải có trách
nhiệm phải cung cấp các chứng cứ để chứng minh quyền lợi của mình bị xâm
phạm. Trên thực tế các đương sự chủ yếu đều là người dân tộc thiểu số không
thành thạo tiếng phổ thông, việc xác lập các quan hệ dân sự hình thức bằng
miệng là chủ yếu cho nên việc các đương sự tự cung cấp chứng cứ là điều hết
sức khó khăn đối với một huyện miền núi như huyện Tủa Chùa. Mặt khác các
đương sự (bị đơn) thường cố tình lẩn tránh không đến Toà án, nhằm kéo dài
thời gian vụ án gây khó khăn cho công tác xác minh giải quyết án. Đó cũng là
một trong những nguyên nhân hạn chế chất lượng xét xử của Toà án.
- Công tác chỉ đạo kiểm tra, giám đốc và rút kinh nghiệm của Toà án
nhân dân cấp tỉnh chưa thường xuyên, chưa tổ chức rút kinh nghiệm uốn nắn
kịp thời. Đối với các bản án có vi phạm của cấp huyện bị cấp phúc thẩm,
Giám đốc thẩm huỷ, cải sửa. Bên cạnh đó còn phải kể đến công tác kiểm sát
của Viện kiểm sát cùng cấp trong việc kiểm sát hoạt động xét xử còn nhiều
hạn chế không phát hiện hoặc phát hiện không kịp thời, hoặc có phát hiện
18
nhưng lại ngại không đấu tranh, bảo vệ cái đúng, đây cũng là một trong những
nguyên nhân tồn tại dẫn đến chất lượng xét xử của Toà án chưa cao.
Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

XÉT XỬ CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYÊN TỦA CHÙA (2013-2015)
1. Một số giải pháp
1.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp Uỷ Đảng trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân
Để nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân một yếu tố quan
trọng là vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của Toà án là yếu
tố cần thiết trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân. Đảng không can thiệt vào việc xét xử các vụ
án cụ thể mà chỉ thông qua việc vận dụng cơ chế quản lý trong hoạt động thực
tiễn của đảng viên trong công tác. Lãnh đạo chỉ đạo hoạt động của Toà án thực
hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình ở địa phương, nhằm giữ gìn an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội, xét xử đúng pháp luật. Đảng cần phải thường
xuyên kiểm tra việc chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết xử lý những cán bộ trong ngành Toà án
thoái hoá biến chất, tham ô, tham nhũng. Đảm bảo cho đội ngũ cán bộ Toà án
ngày càng trong sạch, vững mạnh, đồng thời cần bố trí sắp xếp những cán bộ
có đức có tài đều được phát huy trong công việc và trách nhiệm được giao với
hiệu quả cao nhất. Các cấp uỷ Đảng phải trực tiếp tổ chức cuộc họp hoặc dự
họp khối nội chính hàng tháng, quý để tháo gỡ vướng mắc và rút kinh nghiệm
trong công tác phối hợp.
1.2. Nâng cao chất lượng về mọi mặt của đội ngũ cán bộ Toà án đáp
ứng được yêu cầu của công việc đổi mới đất nước trong tình hình hiện nay
Vị trí, vai trò của người cán bộ Toà án có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng xét xử của cơ quan Toà án. Việc xây dựng, nâng cao trình độ mọi mặt
của đội ngũ cán bộ Toà án đủ về số lượng, nhất là đội ngũ lãnh đạo (Chánh án,
phó chánh án), Thẩm phán và các chức danh Tư pháp khác.
Để có được đội ngũ Thẩm phán đảm bảo về mặt chất lượng đáp ứng
được yêu cầu và đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ hiện nay. Trước hết cần chú
trọng ngay từ khâu tuyển chọn, bổ nhiệm. Trong thời gian qua công tác này đã
có những bước tiến bộ nhất định làm cho đội ngũ Thẩm phán mới được bổ

nhiệm có đạo đức, có năng lực công tác, đáp ứng các tiêu chuẩn của pháp lệnh
về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Theo báo cáo tổng kết bốn năm thực hiện Nghị quyết 08 - Nghị quyết -
TW ngày 16/2/2006 của Toà án nhân dân tối cao đã nhận định :"Một số cán
bộ Tư pháp sa sút về phẩm chất đạo đức, chính trị, bị xử lý hành chính và truy
19
cứu trách nhiệm hình sự; công tác qui hoạch, đạo tạo, bồi dưỡng cán bộ Tư
pháp và bổ trợ Tư pháp tiến hành chậm. Việc chuẩn bị lực lượng cán bộ Tư
pháp giỏi về ngoại ngữ, tinh thông nghiệp vụ đểt đáp ứng yêu cầu chủ động
hội nhập quốc tế tiến hành còn chưa tốt; ở nhiều địa phương, nhất là ở cấp
huyện, đội ngũ cán bộ Tư pháp còn thiếu và yếu”
Việc tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán vẫn chưa chặt chẽ do đó cần
phải đổi mới; cải tiến phương pháp tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán trên cơ
sở các tiêu chuẩn theo luật định như: Tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ và
tiêu chuẩn về chính trị xã hội. Thẩm phán phải là người có bản lĩnh chính trị,
được đào tạo tối thiểu Trung cấp lý luận chính trị trở lên.
Đồng thời sau khi được bổ nhiệm Thẩm phán phải thường xuyên được
bồi dưỡng, tập huấn một cách toàn diện về chuyên môn nghiệp vụ cập nhật
các thông tin về kiến thức pháp lý, về chủ trương chính sách, của Đảng, pháp
luật của nhà nước, sự phát triển về khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện
nay.
Về đội ngũ Thư ký của Toà án: Cũng cần phải có các tiêu chuẩn nhất
định, đáp ứng với các công việc được giao, đồng thời Thư ký Toà án cũng sẽ
là người Thẩm phán kế cận. Cho nên Thư ký Toà án cũng phải tốt nghiệp đại
học luật, có kiến thức chung bổ trợ cho công tác chuyên môn. Đa số hiện nay
đội ngũ Thư ký là lực lượng trẻ, được trang bị kiến thức pháp lý, song họ thiếu
hẳn về những hiểu biết thực tiễn, kỹ năng nghề nghiệp. Cho nên hàng năm cần
phải được bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, cũng như về chính trị để giúp họ
thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, cùng với Thẩm phán để thực hiện
tốt và nâng cao chất lượng xét xử của Toà án.

Đối với đội ngũ Hội thẩm nhân dân: Theo qui định của pháp luật khi xét
xử, Hội Thẩm nhân dân độc lập và ngang quyền với Thẩm phán, vai trò của
Hội Thẩm nhân dân rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Toà án nhân
dân nói chung và Toà án cấp huyện nói riêng. Phần lớn Hội thẩm nhân dân là
cán bộ xã hoặc đoàn thể chính trị - xã hội của xã, của huyện, kiến thức pháp
luật còn hạn chế, trong khi đó Nhà nước chưa có một chương trình đào tạo,
bồi dưỡng cho Hội thẩm nhân dân mang tính chất quốc gia. Do vậy việc tăng
cường tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân là nhu cầu cấp
thiết. Đồng thời cần phải có một cơ quan quản lý đối với Hội thẩm nhân dân,
có qui định ràng buộc trách nhiệm của Hội thẩm khi tham gia xét xử và chịu
trách nhiệm về kết quả xét xử cùng với thẩm phán, để cùng với Toà án nhân
dân nâng cao chất lượng xét xử ngày càng tốt hơn đáp ứng được yêu cầu và
tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Toà án với các cơ
quan bảo vệ pháp luật
Trong hoạt động xét xử của Tòa án sẽ không hoàn thành tốt nhiệm vụ
của mình nếu không có sự phối kết hợp với các cơ quan Nhà nước khác. Toà
án cần phải thường xuyên tăng cường mối quan hệ phối hợp với cơ quan Công
an, Viện kiểm sát cùng cấp để giải quyết tốt các vụ án lớn, khó khăn phức tạp,
20
vụ án trọng điểm. Đòi hỏi các cơ quan Tư pháp phải có sự bàn bạc đi đến
thống nhất, trách những biểu hiện cục bộ từng ngành.
Đối với các vụ án điểm, án xét xử lưu động nhằm phục vụ nhiệm vụ
chính trị địa phương thì Toà án cần theo dõi diễn biến của vụ án trong quá
trình điều tra để khi hồ sơ vụ án chuyển đến Toà án trong một thời gian ngắn
có thể đưa ra xét xử để kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương, phối
hợp chặt chẽ với chính quyền cấp xã nơi phiên tòa diễn ra để đảm bảo an ninh
chính trị, các điều kiện cơ sở vật chất cũng như đảm bảo chất lượng giáo dục
tuyên truyền pháp luật cho nhân dân.
Phối hợp với các cơ quan bổ trợ Tư pháp như Đoàn luật sư, trung tâm trợ

giúp pháp lý cho người nghèo, công chứng, giám định bảo đảm tính sát thực
khác quan đúng pháp luật đối với kết quả giám định, công chúng của các tổ
chức bổ trợ Tư pháp ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xét xử của Toà án.
1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan có Thẩm
quyền đối với hoạt động xét xử của Toà án nhân dân
Theo qui định của Hiến pháp và pháp luật: Quốc hội, Hội đồng nhân có
quyền giám sát mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đó có hoạt
động xét xử của Toà án.
Tại Điều 33 luật tổ chức Toà án nhân dân qui định"Chánh án Toà án
nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp và trước Toà án cấp trên trực tiếp". Như vậy công tác
kiểm tra, giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp không chỉ dừng lại nghe
báo cáo của ngành Toà án hay chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tại các
kỳ họp Hội đồng nhân dân mà còn phải kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử
của Toà án qua các báo cáo hàng tháng, hàng quý, năm của Toà án nhân dân
để đánh giá đúng chất lượng xét xử của Toà án. Từ đó phối hợp với Hội đồng
tuyển chọn Thẩm phán để xem xét đánh giá những cán bộ, Thẩm phán có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn đề nghị Hội đồng tuyển chọn tái bổ nhiệm Thẩm phán
trong nhiệm kỳ tiếp theo.
Ngoài ra Toà án nhân dân cấp trên trực tiếp cần phải tăng cường công
tác Giám đốc kiểm tra án của Toà án cấp dưới thường xuyên 6 tháng, 01 năm,
phải có thông báo kết quả kiểm tra, nêu lên những ưu khuyết điểm của tất cả
các Toà án cấp dưới, để các cấp Toà án phát huy những mặt tích cực đồng thời
sửa chữa, rút kinh nghiệm qua những vụ án xét xử không đảm bảo chất lượng.
Bên cạnh đó sự giám sát của cơ quan báo chí cũng có ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động xét xử của Toà án để góp phần đảm bảo sự công minh
khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ được lợi ích chung của xã hội, của công
dân.
2. Kiến nghị
Để thực hiện tốt những giải pháp nói trên tôi có một số kiến nghị như

sau:
21
2.1. Kiến nghị với Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tỉnh
Điện Biên
- Cần có sự tổng kết, đánh giá đúng thực trạng tình hình Toà án cấp
huyện trong những năm đổi mới, trên cơ sở đó rút ra bài học kinh nghiệm bổ
ích giúp cho hệ thống Toà án cấp Huyện hoạt động có chất lượng và hiệu quả
hơn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Cần bổ sung biên chế cho Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa đủ về số
lượng và đảm bảo về chất lượng. Trước mắt là đội ngũ thẩm phán và thư ký
Toà án.
- Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc đáp ứng
yêu cầu đổi mới hệ thống tư pháp theo hướng hiện đại hóa, mặt khác có chế độ
riêng về tiền lương để từng bước nâng cao thu nhập cho thẩm phán, thư ký.
2.2. Kiến nghị với cấp uỷ, chính quyền địa phương
- Tạo điều kiện về mọi mặt để Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa hoàn
thành nhiệm vụ của mình, nhất là tạo điều kiện hỗ trợ về phương tiện phục vụ
công tác xét xử lưu động.
- Hội đồng nhân dân huyện Tủa Chùa cần quan tâm hơn nữa đến Hội
thẩm nhân dân như cấp kinh phí để tập huấn, sơ, tổng kết, thi đua khen thưởng
để Hội thẩm cùng với Toà án hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
22
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Toà án nhân dân
đã từng bước phát triển, không ngừng lớn mạnh về mặt tổ chức, cán bộ công
chức trong ngành ngày càng được chuẩn hóa nâng cao về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đoàn kết thống nhất, vượt qua mọi khó khăn, vươn lên hoàn thành
tốt nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân đã giao phó. Công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được
những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như

trên trường Quốc tế. Ngành Toà án nhân dân cùng với các cơ quan Tư pháp
khác đã tổ chức thực hiện nghị quyết 08 - NQ/TW năm 2002 của Bộ chính trị
về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới" đã thu
được những kết quả nhất định: "Công tác Tư pháp nói chung và cải cách Tư
pháp nói riêng đã và đang được triển khai thực hiện theo đúng định hướng,
chủ trương của Đảng; bảo đảm quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và Tư pháp. Đã đào tạo ra sự chuyển biến tích cực trong
nhận thức của các cấp các ngành, của nhân dân và của toàn xã hội về vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của công tác Tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Đồng thời đã tạo ra cơ sở cho việc cải cách Tư pháp đồng bộ và Toàn
diện ở những giai đoạn tiếp theo".
Để phát huy tính dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN, góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày 24 tháng 5 năm 2005 Bộ
chính trị đã ra Nghị quyết số 48 - NQ/TW "về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020".
Và Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 "Về chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020".
Đây là những định hướng rất quan trọng cho các cơ quan Tư pháp trong
đó có ngành Toà án cần phải thực hiện tốt nhiệm vụ của mình được Đảng và
Nhà nước giao phó. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó trước hết cần phải nâng cao
chất lượng xét xử cuả Toà án nói chung và Toà án cấp huyện nói riêng. Các
cán bộ Toà án cần phải thường xuyên nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn
nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức để từng bước tháo gỡ
những khó khăn, làm tốt công việc được giao. Đổi mới phương thức tổ chức,
chỉ đạo, điều hành và đổi mới thủ tục hành chính-Tư pháp trong Toà án theo
hướng tinh gọn, hiệu quả, và hiệu lực, phân công, phân cấp hợp lý, cải tiến
phương pháp và lề lối làm việc, gắn quyền hạn với trách nhiệm, xây dựng và

thực hiện quy chế hoạt động của các đơn vị làm cơ sở cho việc quản lý, điều
hành, phân công và kiểm tra công tác của cán bộ công chức Toà án.
Đổi mới việc tổ chức các phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
23
hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo
hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ nghiêm minh, nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên toà, coi đây là "Khâu đột phá" của hoạt động Tư pháp.
Tiểu luận tuy đã đề cập, phân tích đánh giá những vấn đề cơ bản, song
do thời gian nghiên cứu không được nhiều và bản thân còn có những hạn chế
nhất định nên mới chỉ nêu lên một số khía cạnh lý luận và một số giải pháp.
Hy vọng rằng, xuất phát từ những vấn đề bức xúc của thực tiễn, những giải
pháp và kiến nghị nêu trên sẽ được xem xét thực hiện để từng bước nâng cao
năng lực, phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng xét xử, đáp ứng được
những yêu cầu mà Đảng và Nhà nước giao phó cho ngành Tòa án trong tình
hình đổi mới đất nước hiện nay./.
24
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992-NXB Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh - Hà nội – năm 2004.
2. Các nghị quyết Trung ương khoá VII, VIII, IX
3. Luật tổ chức TAND năm 2002.
4. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002.
5. Bộ luật hình sự năm 1999.
6. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
7. Bộ luật dân sự năm 2005.
8. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
9. Giáo trình những vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật XHCN -
NXB Chính trị - Hành chính năm 2009.
10. Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác Tư pháp trong thời gian tới.

11. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến 2020.
12. Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.
13. Các tạp chí Toà án nhân dân tối cao
14. Báo cáo tổng kết TAND Huyện Tủa Chùa các năm 2010, 2011,
2012.
15. Báo cáo tổng kết 4 năm thực hiện nghị quyết 08 - NQ/TW của
TAND tối cao.
16. Báo cáo tổng kết ngành TAND tỉnh Điện Biên năm 2012.
17. Các wed site:
• www.cpv.org.vn/
• www.chinhphu.vn/
• www.toaan.gov.vn/
• www.diendanluathoc.com.vn
• www.tapchiluathoc.com.vn
25

×