Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.43 KB, 76 trang )

Tr-ờng đại học vinh
Khoa luật

Ph-ơng pháp giải quyết xung đột
pháp luật trong hợp đồng dân sự
có yếu tố n-ớc ngoài

khóa luận tốt nghiệp đại học
chuyên ngành: LUậT KINH Tế QuốC Tế

Giáo viên h-ớng dẫn:

Trần Thị Vân Trà

Sinh viên thực hiện :

lê thị hằng

Lớp

: 48B1 Luật

Vinh - 2011


LỜI CẢM ƠN.
Trong q trình tiến hành và hồn thành khóa luận này, ngồi sự lỗ
lực của bản thân, tơi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô
trong khoa Luật, nhất là các thầy cô thuộc tổ Kinh tế - Quốc tế. Đặc biệt là
sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình, chu đáo, đầy trách nhiệm của giảng viên
Trần Thị Vân Trà. Nhân dịp này cho phép tơi được bày tỏ lịng biết ơn


chân thành, sâu sắc tới quý thầy cô. Đồng thời tôi xin hứa sẽ tiếp tục cố
gắng trên bước đường công tác để xứng đáng với sự quan tâm dìu dắt của
quý thầy cơ và cơ giáo hướng dẫn.
Ngồi ra, tơi cũng mong muốn bày tỏ sự biết ơn đối với gia đình, bạn
bè đã dành cho tôi nhiều sự quan tâm ưu ái, giúp đỡ tơi hồn thành tốt cơng
trình nghiên cứu này.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như tài liệu tham khảo và năng lực
trong nghiên cứu của bản thân nên trong khóa luận sẽ khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy
cô và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5/2011
Tác giả
Lê Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang
A - Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nhiên cứu của đề tài ................................................. 4
4. Giới hạn của đề tài ........................................................................................ 5
5. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .......................................................... 7
7. Kết cấu đề tài ................................................................................................. 7
B - Nội dung ......................................................................................................... 9
Chương 1: Lý luận về xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu
tố nước ngồi........................................................................................................ 9

1.1. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi .................................................. 9
1.2. Xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi .... 11
1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 11
1.2.2. Nguyên nhân xảy ra xung đột ............................................................... 14
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột ......................................................... 17
1.2.4. Các xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài ................................................................................................................ 23
Chương 2: Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài ở một số quốc gia và ở Việt Nam..................... 29
2.1. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân


sự có yếu tố nước ngồi ở một số quốc gia .................................................. 29
2.1.1. Theo quy định trong pháp luật quốc gia ............................................... 30
2.1.2. Theo điều ước quốc tế mà các quốc gia tham gia hoặc ký kết ............. 36
2.2. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân
sự có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam.............................................................. 39
2.2.1. Theo pháp luật Việt Nam ...................................................................... 39
2.2.2. Theo điều ước quốc tế mà Việt Nam gia tham gia hoặc ký kết ............ 46
Chương 3: Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi.................................................................................................................... 56
3.1. Định hướng chung .................................................................................. 56
3.2. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật
trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi.............................................. 59
3.2.1. Về quy định chủ thể của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài ......... 59
3.2.2. Về quy định căn cứ áp dụng pháp luật để giải quyết xung đột pháp
luật về năng lực pháp luật và năng lực hành vi giao kết hợp đồng đối với
người nước ngoài là người khơng có quốc tịch và người nước ngồi có
hai hay nhiều quốc tịch khác nhau .................................................................. 59

3.2.3. Về quy định nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng cho hợp đồng .......... 61
3.2.4. Quy định về vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong hợp đồng ..... 63
3.2.5. Về quy định dẫn chiếu trong hợp đồng có yếu tố nước ngoài .............. 64

C - Kết Luận ........................................................................................68
Tài liệu tham khảo


A - MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo (từ Đại hội VI tháng 12 năm 1986), tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phịng. Đến
nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước trên thế giới; có
quan hệ hợp tác kinh tế, tài chính, tín dụng với hơn 200 tổ chức quốc tế và
diễn đàn quốc tế; có quan hệ bn bán với hơn 100 nước, trong đó với hơn
60 nước đã kí kết Hiệp định về thương mại ở cấp Chính phủ. Tháng 7 năm
2000 đã ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Sau đó, Việt Nam đã tích
cực đàm phán và gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2005.
Hiện nay, trong hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế trên đầy đủ các lĩnh
vực, Việt Nam đã ký 26 Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước trong đó
15 Hiệp định điều chỉnh tương trợ tư pháp về dân sự, thương mại.
Cũng từ sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới,
người nước ngoài và tài sản của họ ở nước ta nhiều hơn, công dân nước ta
ở nước ngoài cũng tăng lên đáng kể. Cùng với đó, số lượng khách du lịch
nước ngồi và người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhập cảnh Việt Nam
cũng ngày một gia tăng. Từ đó phát sinh mối quan hệ giữa cơng dân, pháp

nhân nước ta với nước ngồi cũng sẽ nhiều và phức tạp hơn.
Tất cả tình hình trên đây đã và đang góp phần quan trọng thúc đẩy sự
hội nhập kinh tế, cũng như phát triển quan hệ về mọi mặt giữa Việt Nam
với các nước, các tổ chức và các diễn đàn quốc tế. Trong bối cảnh đó, đã
làm gia tăng hết sức mạnh mẽ các giao lưu về dân sự có yếu tố nước ngồi

1


đòi hỏi phải được pháp luật các nước điều chỉnh. Các quan hệ về hơn nhân
và gia đình, thừa kế… đặc biệt là quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài
trong các năm qua cũng tăng lên.
Như vậy, cùng với nhịp độ phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh
tế - thương mại có yếu tố nước ngồi trong bối cảnh năng động tại các quốc
gia hiện nay, đã làm phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngồi, trong đó phải kể đến quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngồi. Tình hình đó tất yếu sẽ kéo theo những hậu quả làm phát sinh
các vụ tranh chấp về các vấn đề liên quan đến hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngồi địi hỏi phải được giải quyết kịp thời. Vấn đề này chỉ có thể giải
quyết được khi có đủ cơ sở pháp lý cần thiết cho cơ quan nhà nước có đủ
thẩm quyền xem xét vụ việc.
Khác với việc giải quyết quan hệ hợp đồng thông thường, việc giải
quyết quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi thường liên quan đến việc
chọn luật áp dụng vì nó xảy ra hiện tượng “xung đột pháp luật”. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi hiện nay ở Việt Nam cũng
như ở các nước là điều rất cần thiết. Các phương pháp giải quyết này được
ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế
mà các nước là thành viên.
Trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế theo xu hướng hội nhập của

Việt Nam hiện nay, điều cần thiết là “Phải tiếp tục củng cố, tăng cường…
mở rộng quan hệ quốc tế…, tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ dân sự
phát triển lành mạnh trong khn khổ pháp luật”. Do đó, yêu cầu về việc
bổ sung, hoàn thiện Phần thứ bảy về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi,
trong đó là các quy định về phần hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi nói
riêng, cũng như các văn bản pháp luật dân sự có liên quan càng trở nên cấp
thiết và có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo hành lang pháp lý cho việc ổn

2


định các quan hệ liên quan đến hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi, thúc
đẩy phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời
kỳ mới. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu pháp luật của một số nước về vấn đề
này có ý nghĩa thiết thực trong việc hoàn thiện thêm các quy định của pháp
luật Việt Nam điều chỉnh lĩnh vực này.
Từ những lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Phương pháp giải quyết
xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp của mình. Đề tài có ý nghĩa thiết thực về phương diện
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Ở nước ta, vấn đề hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi mặc dù đã
được một số nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng các cơng trình mang tính
chất chun khảo về vấn đề này còn rất khiêm tốn. Vấn đề hợp đồng dân sự
có yếu tố nước ngồi chỉ là một phần nằm trong các cơng trình nghiên cứu
như chun đề, luận văn tốt nghiệp Cử nhân, luận văn Thạc sĩ và một số
bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Sau khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời đã có những cơng trình khoa
học nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Tiêu biểu: Luận văn tốt nghiệp
cử nhân luật “Bước đầu tìm hiểu các quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam

1995 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi” (năm 1996) của Đinh Trọng
Nghĩa, Đại học luật Hà Nội; bài viết của tác giả Nguyễn Bá Chiến “Bàn về
một số yêu cầu đổi mới việc xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật
xung đột và việc áp dụng đối với hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi”,
đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2003; bài viết của tác giả
Nguyễn Tiến Vinh “Chọn luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngồi”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2003; hay
Nguyễn Văn Đại với bài nghiên cứu “Tư pháp quốc tế Việt Nam và vấn đề
dẫn chiếu trong lĩnh vực hợp đồng”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp
3


số 10/2003: cuốn “Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế”, xuất
bản năm 2001 của TS Đồn Năng. Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu
của các tác giả nói trên mới dừng lại ở việc phân tích các quy định của pháp
luật về quan hệ dân sự cố yếu tố nước ngoài và chỉ ra định hướng chủ yếu cho
việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự 1995 .
Bộ luật dân sự năm 2005 được ban hành (thay thế Bộ luật dân sự
1995) cũng đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của một số tập thể, cá nhân
về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi như: Thái Cơng Khanh với bài
nghiên cứu “Bàn về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi”, đăng trên tạp
chí Tịa án nhân dân số 6/2007; cuốn “Tư pháp quốc tế”, xuất bản năm
2007 của ThS Lê Thị Nam Giang; hay như cuốn “Tư pháp quốc tế Việt
Nam quan hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngồi”, xuất
bản năm 2010 của TS Đỗ Văn Đại và PGS.TS Mai Hồng Quỳ. Trong các
cơng trình khoa học này, các tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản
về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, bàn về các khái niệm “Tư pháp quốc
tế”, “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi”…
Có thể thấy rằng, các cơng trình trên đây chưa có sự nghiên cứu
chun sâu và toàn diện về pháp luật điều chỉnh phương pháp giải quyết

xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi, mà chỉ
dừng lại ở việc phân tích ở một số khía cạnh các quy định của pháp luật
Việt Nam và các nước hoặc nghiên cứu chung chung về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi. Các cơng trình nghiên cứu dưới góc độ lý luận hồn
thiện pháp luật về hợp đồng dân cự có yếu tố nước ngồi cịn ít, chưa có
tính chất hệ thống, khái quát.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về xung đột pháp luật, phương
pháp giải quyết xung đột trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi. Từ
4


đó đi phân tích phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngoài theo pháp luật ở một số quốc gia và liên hệ với
Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích, so sánh phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật ở một số nước với phương pháp giải quyết ở Việt Nam, nêu lên những
quan điểm, phương hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật Việt Nam
trong việc giải quyết xung đột trong hợp đồng dân sự ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu những vấn đề lý luận về xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngồi như: Khái niệm hợp đồng dân sự có yếu tố
nước ngồi, xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi, nguyên nhân xảy ra xung đột, phương pháp giải quyết xung đột và
các xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi.
Tìm hiểu pháp luật điều chỉnh xung đột trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài ở một số nước trên thế giới, bao gồm cả Điều ước quốc
tế mà các quốc gia là thành viên điều chỉnh vần đề này.

Phân tích phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngồi ở một số nước và Việt Nam. Qua đó so sánh,
đưa ra nhận xét về phương pháp giải quyết xung đột giữa pháp luật các
nước đó và pháp luật Việt Nam.
Nêu lên sự cần thiết cũng như những quan điểm, giải pháp cụ thể có
tính khả thi trong việc hồn thiện pháp luật về giải quyết xung đột pháp luật
trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam.
4. Giới hạn của đề tài.
Đây là đề tài nghiên cứu trong giới hạn lĩnh vực pháp luật, cụ thể là
pháp luật về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam và một số
5


quốc gia, nên khi thực hiện đề tài chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu những
nội dung cơ bản của pháp luật quy định về tính hợp pháp của hợp đồng dân
sự có yếu tố nước ngồi trong pháp luật và một số Điều ước quốc tế của
Việt Nam và một số nước. Trong chừng mực nhất định, một số Hiệp định
thương mại của Việt Nam cũng được đề cập đến mang tính chất tham khảo.
Đề tài nghiên cứu cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
5. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận văn là hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi và phương pháp giải quyết xung đột về tính hợp pháp
của hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi trong pháp luật quốc gia và Điều
ước quốc tế. Nghiên cứu vấn đề lý luận để xác định tính khoa học trong
việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi. Nghiên cứu thực tiễn các quy định về giải quyết xung
đột pháp luật trong hợp đồng có yếu tố nước ngồi, tìm ra những điểm còn
chưa phù hợp trong pháp luật Việt Nam để có hướng khắc phục cụ thể.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.

Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà
nước về pháp luật làm phương pháp luận nghiên cứu đề tài. Đặc biệt là các
quan điểm của pháp luật về vấn đề quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Bên cạnh đó, để
có được những kết luận đúng đắn đề tài còn sử dụng một số phương pháp
chuyên ngành khác như phương pháp lơgic, phương pháp phân tích,

6


phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp. Qua đây có thể khái quát hóa
hay cụ thể hóa vấn đề cho phù hợp với nội dung đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm cơ sở lý luận
cho việc sửa đổi, bổ sung Phần thứ bảy Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngồi, đặc biệt là các phần liên quan về hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi. Đồng thời đề tài cịn là tài liệu tham khảo phục vụ công
tác nghiên cứu, giảng dạy cho giáo viên, sinh viên chuyên ngành luật, đặc
biệt là chuyên ngành Tư pháp quốc tế, và cho những ai quan tâm.
Về thực tiễn: Đề tài đưa ra những phương hướng, kiến nghị cụ thể về
hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngồi. Điều này có ý nghĩa thiết thực giúp cho
những người có thẩm quyền áp dụng luật để giải quyết xung đột trong hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, đồng thời tạo nên sự thuận lợi cũng như
tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia vào quan hệ này.
Với những điều nêu trên đây, hy vọng đề tài sẽ đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc hồn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự

có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận về xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi.
Chương 2: Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngồi ở một số quốc gia và ở Việt Nam.

7


Chương 3: Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam
về giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi.

8


B - NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG HỢP ĐỒNG DÂN
SỰ CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI

1.1. Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi
“Hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi” là thuật ngữ để chỉ khái
niệm của hợp đồng trong Tư pháp quốc tế. Đây là lĩnh vực thuộc đối tượng
điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay

đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Như vậy, hợp đồng dân sự đó là
sự thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho
bên kia hoặc là sự thỏa thuận để thay đổi, chấm dứt các nghĩa vụ đó. Tổng
hợp các điều khoản mà các bên thỏa thuận là nội dung của hợp đồng, nó
xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Sự thỏa thuận đó có thể được thể
hiện ra bên ngồi bằng nhiều hình thức: bằng văn bản, bằng lời nói hoặc
bằng hành vi cụ thể. Các chủ thể được lựa chọn hình thức hợp đồng phù
hợp với ý chí của mình và quy định của pháp luật.
Như vậy, hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự có yếu tố nước ngoài.
Để xác định một hợp đồng dân sự là hợp đồng có yếu tố nước ngồi
thì hợp đồng đó phải chứa một trong các dấu hiệu thể hiện yếu tố nước
ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế - là ngành luật điều
chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi.

9


Trong Tư pháp quốc tế có sự thừa nhận chung ba loại yếu tố nước
ngồi: Thứ nhất, có ít nhất một bên chủ thể tham gia quan hệ là người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài hoặc Nhà nước nước ngoài. Người nước
ngồi là người khơng mang quốc tịch của nước sở tại, có thể là người mang
quốc tịch của quốc gia nước ngồi hoặc là người khơng có quốc tịch. Ví dụ
như, quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với công dân Pháp ở Việt
Nam. Thứ hai, khách thể của quan hệ này là tài sản, công việc ở nước
ngồi. Ví dụ, quan hệ thừa kế tài sản giữa hai công dân Việt Nam nhưng tài
sản đang tồn tại trên lãnh thổ Mỹ. Thứ ba, sự kiện pháp lý làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt các quan hệ xảy ra ở nước ngồi. Chẳng hạn như hai
cơng dân Việt Nam kết hơn với nhau ở Đức. Do đó, khi một quan hệ pháp

luật dân sự có sự hiện diện của một trong ba dấu hiệu trên thì thuộc đối
tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế.
Căn cứ vào ba dấu hiệu của yếu tố nước ngoài nêu trên, thì hợp đồng
dân sự trong Tư pháp quốc tế được xác định trong những trường hợp sau:
Thứ nhất, việc giao kết hợp đồng được thực hiện bởi các chủ thể có
quốc tịch khác nhau. Nghĩa là, phải có một bên chủ thể là người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia giao kết hợp đồng này. Theo Tư
pháp quốc tế Việt Nam thì hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi là hợp
đồng có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân là
người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi. Các bên khơng
đồng thời mang một quốc tịch là một trong những nguyên nhân dẫn tới
xung đột pháp luật, vì tồn tại ít nhất hai hệ thống pháp luật cùng có thể áp
dụng điều chỉnh quan hệ hợp đồng này.
Thứ hai, hợp đồng được giao kết ở nước ngoài, nước mà các bên
không mang quốc tịch (đối với cá nhân) hoặc khơng có trụ sở (đối với pháp
nhân). Việc giao kết hợp đồng là một sự kiện pháp lý. Nghĩa là sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên

10


xảy ra ở nước ngoài. Trong trường hợp này, pháp luật điều chỉnh đối với
hợp đồng bên cạnh luật mà các chủ thể mang quốc tịch cịn có luật nơi giao
kết hợp đồng cũng có thể được áp dụng điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
hợp đồng. Vì thế làm xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật và cần được
giải quyết theo các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong Tư
pháp quốc tế. Trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, dấu hiệu này cũng được
thừa nhận.
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng là tài sản hoặc cơng việc ở nước
ngồi, (Ví dụ, hợp đồng gửi giữ tài sản giữa công dân Việt Nam với một

đại lý ở nước ngồi thì trách nhiệm bảo quản tài sản là là công việc phải
làm thuộc đối tượng của quan hệ đó). Vậy, khi các bên chủ thể có cùng
quốc tịch, hợp đồng được ký kết tại nước các bên mang quốc tịch nhưng
khách thể của hợp đồng ở nước ngồi thì việc giao kết hợp đồng này cùng
một lúc chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật của nước mà họ mang quốc tịch và
luật của nước nơi có tài sản hoặc nơi có cơng việc. Theo đó, đây là hợp
đồng dân sự có yếu tố nước ngồi và thuộc lĩnh vực điều chỉnh của Tư
pháp quốc tế.
Trong đời sống quốc tế hiện nay, phát sinh ngày càng nhiều các mối
quan hệ dân sự giữa công dân và pháp nhân của nước này với công dân và
pháp nhân của nước khác và mối quan hệ này cũng trở nên đa dạng và
phong phú hơn. Nhóm quan hệ này do một ngành luật độc lập điều chỉnh là
Tư pháp quốc tế. Pháp luật về hợp đồng dân sự trong Tư pháp quốc tế là cơ
sở pháp lý cho các chủ thể này tham gia vào quan hệ được thuận lợi và đạt
được mục đích của mình khi tham gia. Do vậy, việc xác định yếu tố nước
ngồi của hợp đồng có ý nghĩa quan trọng, nó xác định quy chế pháp lý để
giải quyết xung đột trong quan hệ mà các chủ thể tham gia. Việc xác định
đó phải được dựa trên các dấu hiệu về chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý
của hợp đồng.

11


1.2. Xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi
1.2.1. Khái niệm
Mỗi quốc gia đều tự xây dựng cho mình hệ thống pháp luật riêng
nhằm khẳng định chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho cơng dân nước
mình. Tuy nhiên, giữa các hệ thống pháp luật này ln có sự khác nhau,
thậm chí là trái ngược nhau, do những nguyên nhân về điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội hay hồn cảnh địa lý.

Trong xu thế hội nhập tồn cầu hiện nay, ít nhiều các quốc gia sẽ
xích lại gần nhau để cùng hợp tác và phát triển. Ở đó, xung đột pháp luật sẽ
xảy ra khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời có thể được áp
dụng để điều chỉnh cùng một quan hệ pháp luật.
Xung đột pháp luật là hiện tượng phổ biến trong Tư pháp quốc tế.
Khi tham gia điều chỉnh các quan hệ trong Tư pháp quốc tế, luật pháp của
các quốc gia khác nhau thường có những quy định không giống nhau về
cùng một vấn đề. Chẳng hạn như, một nam công dân Việt Nam muốn kết
hơn với một nữ cơng dân nước ngồi, lúc này vấn đề cần giải quyết là pháp
luật nước nào sẽ điều chỉnh trong quan hệ này, hay nói cách khác thủ tục
kết hôn sẽ tuân theo pháp luật nước nào. Trong trường hợp này, hoặc là luật
của nước ngoài hoặc là luật của Việt Nam. Nếu pháp luật của hai quốc gia
mà hai công dân này mang quốc tịch đều quy định cùng một hình thức kết
hơn, khi đó, vấn đề chọn luật nước nào để giải quyết khơng cịn là vấn đề
quan trọng, vì pháp luật các nước cùng quy định giống nhau về vấn đề này.
Nhưng, nếu nam công dân Việt Nam kết hôn với một nữ công dân Israen,
thì theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc kết hôn phải được tiến hành
theo nghi thức dân sự, nghĩa là việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam; còn theo
pháp luật Israen, việc kết hôn được tiến hành theo nghi thức tôn giáo. Như
vậy, cùng về thủ tục kết hôn nhưng pháp luật của cả hai quốc gia quy định
12


không giống nhau. Và pháp luật của cả hai nước cùng có thể tham gia điều
chỉnh quan hệ này. Đó chính là hiện tượng xung đột pháp luật.
Vậy, xung đột pháp luật là hiện tượng hệ thống pháp luật của hai hay
nhiều nước đồng thời cùng có thể tham gia để điều chỉnh một quan hệ dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi.
Từ đó, có thể hiểu một cách khái quát, xung đột pháp luật trong hợp

đồng dân sự có yếu tố nước ngồi là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống
pháp luật đồng thời cùng có thể tham gia điều chỉnh về hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi về một vấn đề cụ thể nào đó liên quan. Như về hình thức
của hợp đồng, pháp luật Việt Nam quy định một số loại hợp đồng phải
được thể hiện dưới hình thức văn bản mới có giá trị pháp lý. Ví dụ, đối với
hợp đồng thương mại quốc tế, pháp luật Việt Nam quy định bắt buộc phải
được lập dưới hình thức văn bản, nhưng theo pháp luật Mỹ thì cho phép
bằng hình thức văn bản đối với những hợp đồng có giá trị trên 500USD
hoặc bằng lời nói với những hợp đồng có giá trị dưới 500USD. Vậy nếu
một doanh nghiệp Việt Nam giao kết hợp đồng thương mại với một doanh
nghiệp Mỹ có giá trị dưới 500USD, thì khi đó hình thức của hợp đồng này
sẽ tuân theo pháp luật nước nào.
Giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi chính là giải quyết xung đột pháp luật về tính hợp pháp của hợp
đồng. Bởi bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, nhưng chỉ khi sự thỏa
thuận đó được pháp luật cho phép thì mới trở thành hợp đồng được pháp
luật điều chỉnh. Trong Tư pháp quốc tế, các yếu tố xác định tính hợp pháp
của hợp đồng là về hình thức hợp đồng, nội dung hợp đồng và các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Như vậy, hiểu một cách cụ thể thì xung đột pháp luật trong hợp đồng
dân sự có yếu tố nước ngồi là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp
luật cùng có thể tham gia điều chỉnh các vấn đề về xác định tính hợp pháp
13


của một hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi, như hình thức hợp đồng,
nội dung hợp đồng và các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi.
Tóm lại, xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi là hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều quốc gia cùng có thể tham

gia điều chỉnh cho hợp đồng đó. Mà pháp luật của các nước lại có cách
hiểu khơng giống nhau về cùng một vấn đề. Sự khác nhau này là nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật và có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần
có những phương pháp hữu hiệu để giải quyết những xung đột trong lĩnh
vực này trong hoàn cảnh phát triển kinh tế đã kéo theo sự gia tăng không
ngừng mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các công dân, pháp nhân các
quốc gia trên thế giới.
1.2.2. Nguyên nhân xảy ra xung đột
Tư pháp quốc tế là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động, tố
tụng dân sự có yếu tố nước ngồi. Hay nói cách khác, đối tượng điều chỉnh
của Tư pháp quốc tế là các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngồi.
“Yếu tố nước ngồi” được hiểu là các quan hệ dân sự có người nước
ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ
đó ở nước ngồi. Yếu tố nước ngồi đó là quan hệ mang tính chất dân sự
vượt ra ngồi phạm vi lãnh thổ quốc gia. Như vậy, đối tượng điều chỉnh
đặc thù của của Tư pháp quốc tế là “Những quan hệ dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài” là một trong những nguyên nhân xảy ra xung đột.
Với hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi thì “yếu tố nước ngồi”
cũng đã dẫn tới hiện tượng xung đột pháp luật - việc có hai hay nhiều hệ
14


thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để giải quyết tính hợp pháp của
hợp đồng. Việc hệ thống pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng
có thể tham gia điều chỉnh quan hệ được hiểu, đó là do chủ quyền quốc gia
tác động lên bộ phận dân cư, lãnh thổ, tài sản nên nơi có hành vi xảy ra có

thể có quyền điều chỉnh, quốc gia mà cơng dân mang quốc tịch có thể có
quyền áp dụng pháp luật nước mình, pháp luật của nước có bất động sản
liên quan đến hợp đồng sẽ được áp dụng giải quyết. Có thể có trường hợp
chỉ có một hệ thống pháp luật được dẫn chiếu để áp dụng (Ví dụ, đó là khi
hợp đồng có đối tượng là bất động sản ở Việt Nam thì khi đó là áp dụng
pháp luật Việt Nam).
Khi hai công dân của hai quốc gia khác nhau giao kết hợp đồng, khi
hai hệ thống pháp luật của hai nước đều có thể được áp dụng điều chỉnh,
vậy sẽ áp dụng pháp luật nước nào, xung đột pháp luật đã xảy ra; hay khi
hai chủ thể có cùng quốc tịch giao kết hợp đồng nhưng tài sản liên quan
đến hợp đồng lại ở nước thứ ba, xung đột pháp luật chính là pháp luật mà
các bên mang quốc tịch hay pháp luật của nước nơi đang có tài sản được áp
dụng để điều chỉnh.
Khi có một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi cụ thể xuất hiện, thì
pháp luật của các quốc gia có liên quan đều có thể tham gia điều chỉnh cho
quan hệ đó, nhưng pháp luật ở các quốc gia khác nhau lại không giống
nhau, sự khác nhau này dẫn đến việc phải lựa chọn một hệ thống pháp luật
phù hợp để điều chỉnh. Như vậy, sự khác nhau về hệ thống pháp luật giữa
các quốc gia trong việc điều chỉnh cùng một vấn đề liên quan đến hợp đồng
là nguyên nhân tiếp theo dẫn đến xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự
có yếu tố nước ngồi.
Sự khác nhau này trong hệ thống pháp luật các quốc gia là do sự
khác nhau về chế độ chính trị, kinh tế, do những chi phối về phong tục, tập
quán, về trình độ phát triển. Với cùng một sự kiện pháp lý, mỗi quốc gia lại

15


có sự điều chỉnh khác nhau nên dẫn đến xung đột pháp luật. Sự khác nhau
này dẫn đến xung đột pháp luật vì hệ thống pháp luật giữa các quốc gia là

ngang nhau, khơng có pháp luật nước nào cao hơn để bắt buộc phải được
áp dụng và cũng không có sự giống nhau về hệ thống pháp luật giữa các
nước. Bên cạnh đó, khơng có sự tồn tại Tư pháp quốc tế chung cho các
quốc gia, có nghĩa là khơng có các quy phạm có giá trị chung cho các nước.
Mỗi quốc gia sẽ có Tư pháp quốc tế riêng và tất nhiên có một hệ thống các
quy phạm xung đột đặc thù của mình được xây dựng trên nền tảng xã hội
của mỗi nước.
Trong các quan hệ pháp luật về lĩnh vực hình sự, hành chính… lại
khơng xảy ra xung đột pháp luật. Vì quan hệ pháp luật này mang tính chất
tuyệt đối về lãnh thổ. Nghĩa là các đạo luật thuộc các lĩnh vực này được
ban hành để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng quốc gia, nên tất cả mọi
người sống trên lãnh thổ của một quốc gia đều phải thi hành cho dù họ
mang quốc tịch của quốc gia nào.
Tóm lại, sự phát triển kinh tế kéo theo yêu cầu phải bổ sung, hoàn
thiện các quy định của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Các quốc
gia luôn mong muốn xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, tiến bộ
và ngày càng xích lại gần nhau hơn. Tuy nhiên, bản chất của pháp luật là ý
chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật do điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội quyết định đã không cho phép các quốc gia dễ dàng làm
được điều này. Sự ảnh hưởng của các tư tưởng, đạo đức, văn hóa, phong
tục tập quán và sự phát triển không đồng đều đã tạo nên sự khác biệt trong
tư duy của các nhà lập pháp của các quốc gia khác nhau. Xung đột pháp
luật nói chung và xung đột trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi nói
riêng là hệ quả tất yếu của sự khác nhau đó. Như vậy, khơng phải lúc nào
cũng có xung đột pháp luật trong hợp đồng, mà nó chỉ xuất hiện khi có
quan hệ về hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi phát sinh và pháp luật

16



của hai hay nhiều nước có liên quan cùng có thể tham gia điều chỉnh,
nhưng sự điều chỉnh đó lại được quy định khác nhau.
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi là việc các quốc gia lựa chọn một hệ thống pháp luật nào
đó để giải quyết xung đột về tính hợp pháp của hợp đồng.
Khi xác định tính hợp pháp của hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngồi gặp phải những xung đột pháp luật, các quốc gia thường có hai
phương pháp xử lý. Một là, cùng thỏa thuận, thống nhất ban hành những
quy định cụ thể để giải quyết tình huống thông qua các Điều ước quốc tế
song phương hoặc đa phương. Cụ thể, đó là ban hành các quy phạm trong
đó quy định trực tiếp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia
quan hệ hợp đồng. Phương pháp này được gọi là phương pháp giải quyết
xung đột thực chất, sử dụng các quy phạm thực chất để giải quyết xung đột.
Hai là, ban hành các quy phạm để chỉ ra chọn luật của nước nào trong số
những quốc gia có xung đột pháp luật để áp dụng để giải quyết, theo các
quy định của văn bản luật pháp quốc tế như Công ước, Hiệp định tương trợ
tư pháp… Phương pháp này là phương pháp xung đột, áp dụng các quy
phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngoài. Đây là hai phương pháp được sử dụng trong giải quyết
xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngồi cũng như
trong Tư pháp quốc tế nói chung.
Mỗi phương pháp lại có những ưu thế và hạn chế nhất định tác động
hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Do đó, việc phối hợp cả hai phương pháp này
một cách mềm dẻo, linh hoạt vào việc giải quyết xung đột pháp luật sẽ
mang lại những tác động tích cực khơng chỉ đối với lĩnh vực đó mà cịn là
tình hữu hảo, giao lưu, phát triển lâu dài giữa các quốc gia nói chung với
nhau.
17



1.2.3.1. Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất (còn gọi là phương pháp giải quyết trực tiếp)
là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất để giải quyết
xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy phạm
thực chất là quy phạm quy định sẵn các quyền và nghĩa vụ đối với các chủ
thể trong hợp đồng. Theo đó, khi các vấn đề liên quan đến hợp đồng dân sự
có yếu tố nước ngồi xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực chất để áp dụng thì
các bên chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền căn cứ ngay vào đó để
xác định vấn đề cần giải quyết (việc xác định hình thức, nội dung hợp
đồng…)
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy
phạm thực chất trực tiếp giải quyết trong lĩnh vực hợp đồng dân sự có yếu
tố nước ngồi, có nghĩa quy phạm này đã trực tiếp phân định nội dung hợp
đồng, hình thức hợp đồng cũng như các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
đó.
Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức: Một là,
trong các Điều ước quốc tế (gọi là các quy phạm thực chất thống nhất).
Đây là trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các
Điều ước quốc tế. Các quy phạm pháp luật này là kết quả của quá trình
quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội giữa các nước. Quy phạm thực chất
thống nhất này được quy định trong các Điều ước quốc tế hoặc Tập quán
quốc tế, thể hiện khả năng thuận tiện và hữu hiệu trong việc điều chỉnh các
quan hệ Tư pháp quốc tế cũng như trong hợp đồng. Hai là, trong các văn
bản pháp luật quốc gia (gọi là các quy phạm thực chất thông thường). Các
quy phạm này trực tiếp điều chỉnh các vấn đề đã được ấn định và khi đó
xung đột pháp luật không tồn tại khi xác định vấn đề này. Điều này cũng có
nghĩa là các quy phạm thực chất của luật quốc nội hoàn toàn được áp dụng
để giải quyết vấn đề.


18


Ưu thế của phương pháp này trong việc giải quyết xung đột pháp
luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài: Khi sử dụng phương
pháp thực chất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên trong
hợp đồng sẽ chiếu theo các quy phạm thực chất đã được ấn định sẵn trong
các Điều ước quốc tế hoặc trong pháp luật quốc gia để xem xét và giải
quyết xung đột. Tức là sẽ trực tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết mà
loại trừ vấn đề chọn luật và việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Điều đó
làm cho quan hệ được giải quyết nhanh chóng, các vấn đề cần quan tâm
được xác định ngay, giúp cho các chủ thể tham gia hợp đồng cũng như cơ
quan có thẩm quyền giải quyết sẽ tiết kiệm được thời gian, tránh được việc
phải tìm hiểu pháp luật nước ngoài vốn là vấn đề rất phức tạp.
Bên cạnh những ưu điểm đó thì phương pháp thực chất cũng có
những hạn chế nhất định. Các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực
tiếp của nó mà đơi khi khơng tính hết được đến quyền, lợi ích của các
đương sự. Bên cạnh đó, phần lớn giữa các nước có sự khác nhau về điều
kiện kinh tế, xã hội do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống
nhất chung cho các quốc gia là điều không hề đơn giản, không thể thống
nhất pháp luật giữa các quốc gia cũng như đồng nhất quốc tế pháp luật của
các nước. Thêm nữa là, để đi đến thống nhất ý chí giữa các bên còn phải
tốn rất nhiều thời gian và cơng sức. Do những quy phạm thực chất thống
nhất có số lượng khơng nhiều, vì mỗi nước có những lợi ích khác nhau nên
khó cùng nhau thỏa thuận ký kết hoặc tham gia các Điều ước quốc tế hoặc
cùng sử dụng các Tập qn quốc tế. Do đó khơng đáp ứng được yêu cầu
điều chỉnh hết các vấn đề về hợp đồng tương đối đa dạng và phức tạp. Bởi
vậy, khi khơng có các quy phạm thực chất thống nhất để giải quyết vấn đề
về hợp đồng thì phải sử dụng phương pháp xung đột để điều chỉnh.
1.2.3.2. Phương pháp xung đột


19


Phương pháp xung đột (còn gọi là phương pháp giải quyết gián tiếp)
là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột trong
hợp đồng, xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng trong việc điều
chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngồi trong tình huống
thực tế. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật không quy định sẵn các
quyền và nghĩa vụ đối với các chủ thể tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế
mà chỉ có vai trò xác định hệ thống pháp luật nước nào sẽ được áp dụng.
Quy phạm xung đột gồm có phần phạm vi quy định quy phạm xung
đột này được áp dụng cho loại qua hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nào và
phần hệ thuộc, chỉ ra luật pháp nước nào được áp dụng để giải quyết quan
hệ dân sự thuộc phần phạm vi. Như vậy, quy phạm xung đột là quy phạm
ln mang tính chất dẫn chiếu. Sự dẫn chiếu này là dẫn chiếu đến toàn bộ
hệ thống pháp luật của một quốc gia. Vì vậy cơ quan có thẩm quyền phải
chọn ra hệ thống pháp luật của nước được dẫn chiếu tới để điều chỉnh quan
hệ.
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có
yếu tố nước ngồi là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột để xác định
hệ thống pháp luật của nước sẽ được áp dụng khi xác định về tính hợp pháp
của hợp đồng. Quy phạm xung đột này được xây dựng trong hệ thống pháp
luật các nước và trong các Điều ước quốc tế. Ví dụ, quy phạm xung đột
trong khoản 1 Điều 770 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: “Hình thức hợp
đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng…”, theo đó
pháp luật nơi giao kết hợp đồng sẽ được áp dụng khi xác định hình thức
của hợp đồng; quy phạm xung đột: “Hình thức hợp đồng về bất động sản
được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi có bất động sản” trong
khoản 2 Điều 40 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Mông Cổ.

Những ưu điểm của phương pháp xung đột trong việc giải quyết
xung đột pháp luật trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài: Xuất phát

20


từ đặc điểm của quy phạm xung đột có thể thấy phương pháp xung đột
mang tính chất chung gian, gián tiếp giải quyết xung đột về xác định tính
hợp pháp của hợp đồng, điều đó phù hợp với hồn cảnh thực tế hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế các quốc gia ngày cành phát
triển, các nước phải có sự giao lưu, quan hệ mật thiết với nhau. Lúc đó vấn
đề bảo hộ cho cơng dân nước mình tại nước ngồi cũng như trong nước sẽ
là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu. Quan hệ hợp đồng có yếu tố nước
ngồi là quan hệ có tính chất vượt ra khỏi phạm vi của một quốc gia và liên
quan tới một hoặc nhiều quốc gia khác. Trong khi đó, phương pháp xung
đột tính được đến quyền và lợi ích hợp pháp hợp lý nhất của các đương sự,
vì vậy thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
Bởi mỗi quốc gia có một chế độ kinh tế, chính trị… cũng như có
trình độ phát triển khác nhau đã dẫn đến việc pháp luật cũng khác nhau khi
điều chỉnh cùng một vấn đề. Do đó, việc thừa nhận quy phạm xung đột là
công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo đảm một trật tự pháp lý trong quan hệ
dân sự quốc tế. Phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết xung đột
trong quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngồi một cách thuận lợi, dễ dàng;
tránh được những tranh chấp giữa các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ
giữa các nước với nhau, quan trọng nhất là điều hòa được lợi ích giữa các
quốc gia.
Hạn chế của phương pháp xung đột: Do pháp luật các nước có sự
khác nhau nên việc sử dụng phương pháp xung đột để giải quyết xung đột
được xem như là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và
riêng biệt của quy phạm xung đột là không quy định rõ về quyền và nghĩa

vụ các bên tham gia mà chỉ quy định việc áp dụng pháp luật của nước nào
cho quan hệ đó, nên xảy ra trường hợp Tịa án khó xác định căn cứ để giải
quyết hay không chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy
phạm xung đột trong vấn đề hợp đồng đó hoặc có những quy định thiếu cụ

21


×