TÁI CẤU TRÚC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VÀ MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN
ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
Vận hành từ năm 1965 với sự có mặt duy nhất của Công ty bảo hiểm Việt
Nam nay là Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt, đến nay thị trường bảo hiểm
Việt Nam đã có 39 doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có 28 doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ, 11 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và 12 doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã mở rộng mạng lưới phục vụ khách hàng tham
gia bảo hiểm với hơn 400 chi nhánh của các doanh nghiệp bảo hiểm khắp các tỉnh,
thành phố trong cả nước.
Xét về tổng doanh thu, giai đoạn 2003-2010, thị trường BH có tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 18,5%/năm, cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng GDP. Trong
lĩnh vực BH phi nhân thọ, doanh thu phí BH tăng trưởng bình quân 23,8%/năm, từ
3.815 tỷ đồng năm 2003 lên 17.017 tỷ đồng vào năm 2010. Trong lĩnh vực BH nhân
thọ, doanh thu phí BH tăng trưởng bình quân 11%/năm, từ 6.575 tỷ đồng lên 13.589
tỷ đồng. Tổng số tiền đã giải quyết bồi thường, trả tiền BH trong giai đoạn 20032010 là 50.921 tỷ đồng, trung bình mỗi năm chi trả 6.365 tỷ đồng. Một điểm đáng
chú ý là tổng số tiền đã huy động được từ BH để đầu tư trở lại cho nền kinh tế tăng
5,5 lần, từ 14.602 tỷ đồng vào năm 2003 lên 80.540 tỷ đồng năm 2010.
Những con số trên đã chứng tỏ, trong năm qua, mặc dù nền kinh tế thế giới
lún sâu vào khủng hoảng, tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ngấm vào
từng ngóc ngách của kinh tế Việt Nam, tuy nhiên, hoạt động kinh doanh bảo hiểm
vẫn trên đà tăng trưởng, đồng thời có đóng góp quan trọng cho đầu tư phát triển
kinh tế. Song, trước xu hướng được cho là diễn biến khó lường của kinh tế quốc tế
sẽ kéo theo những xu hướng bất định của kinh tế trong nước, nếu không có những
dự tính căn cơ và dài hạn về chiến lược kinh doanh thì hoạt động kinh doanh bảo
hiểm năm nay và những năm tới rất có thể mang đến kết quả khó đoán. Nói tới
những tính toán về chiến lược kinh doanh, về dự tính căn cơ và dài hạn, cũng có
nghĩa là phải nói tới tái cơ cấu doanh nghiệp.
II. TÁI CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
Bối cảnh quốc tế và trong nước với hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Có thể thấy, bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay và trong thời gian tới (ít
nhất là tới 2015) nổi lên 3 điểm lớn như sau:
Thứ nhất, khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã tác động đến ngành
bảo hiểm. Chỉ tính riêng ở Châu Á, trong năm 2008, 10 Công ty Bảo hiểm Nhân thọ
hàng đầu đã lỗ 260 tỷ USD, giảm 60% so với con số sụt giảm 45% của chỉ số các
dịch vụ tài chính toàn Châu Á. Hàng loạt dự án tầm quốc tế hoặc bị trì hoãn hoặc bị
huỷ hoàn toàn do các tổ chức tài chính khơng cịn đủ sức tiếp tục cung cấp vốn cho
các giai đoạn tiếp theo của dự án. Một số tập đoàn tài chính bảo hiểm hàng đầu thế
giới đã tái cấu trúc, làm thay đổi tính năng động của nhiều thị trường, như Tập đoàn
AIG bán hàng loạt danh mục đầu tư, Tập đoàn Fubon (Đài Loan) mua lại ING…
Đây là những sự kiện kinh tế tài chính có tác động vừa trực tiếp vừa lâu dài
tới thị trường bảo hiểm. Theo dõi diễn biến kinh tế toàn cầu cho thấy hậu quả của
khủng hoảng kinh tế sẽ tiếp tục kéo dài trong những năm tiếp theo và các doanh
nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải tính đến việc này trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm ngắn hạn và dài hạn.
Thứ hai, quá trình toàn cầu hóa về thương mại và dịch vụ tài chính sẽ tiếp tục
diễn ra mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu do đó mọi diễn biến liên quan đến tình
hình và bối cảnh quốc tế về thương mại và dịch vụ tài chính ngày càng có ảnh
hưởng đến thị trường dịch vụ tài chính của từng nước. Hệ thống chính sách về quản
lý, giám sát dịch vụ tài chính của các nước có xu hướng hồi quy trong một hành
lang chung. Ngoài ra, xu hướng đan xen giữa các định chế kinh tế, tài chính theo
mơ hình hình thành các tập đoàn kinh doanh đa lĩnh vực, xuyên quốc gia sẽ phát
triển và lan rộng, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, giám sát thị
trường dịch vụ tài chính của các nước. Theo đó, cơ chế quản lý, giám sát thị trường
dịch vụ tài chính nói chung, thị trường bảo hiểm nói riêng của Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu thế này và đương nhiên sẽ tác động ngay lập tức tới các doanh
nghiệp bảo hiểm.
Thứ ba, tình hình biến đổi về mơi trường, thời tiết, khí hậu ngày càng khó dự
đoán. Trong khi đó, Việt Nam lại nằm tại trung tâm chịu nhiều tác động của biến
đổi khí hậu nhất, là 1 trong 10 nước chịu tác động của biến đổi khí hậu hàng đầu
trên thế giới. Trong những năm qua, thiên tai đã gây ra thiệt hại lớn đối với ngành
bảo hiểm và xu hướng xảy ra thiên tai ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của
Công ty Tái bảo hiểm Munich Re AG (Đức), năm 2010 là năm thiệt hại lớn nhất
của ngành bảo hiểm thiên tai toàn cầu kể từ năm 1980 với 950 thảm họa thiên
nhiên, cao hơn mức trung bình 785 thảm họa/năm trong một thập kỷ qua. Đông
Nam Á tiếp tục được xem là “rốn bão” của thế giới, dễ bị ảnh hưởng nhất cuả biến
đổi khí hậu do lụt, bão, nước biển dâng, hạn hán,… Một khi thiên tai gây ra thiệt hại
lớn đối với ngành bảo hiểm thì đồng thời cũng tạo ra sức ép lớn về năng lực nhận
bảo hiểm của thị trường bảo hiểm quốc tế.
Bên cạnh đó, bối cảnh kinh tế- xã hội trong nước hiện nay và trong thời
gian tới cũng nổi lên 5 điểm lớn như sau:
Thứ nhất về môi trường thể chế, Nghị quyết TƯ3 Khóa XI đã xác định phải
tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng. Trong 5 năm tới, tập
trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư
công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước mà trọng
tâm là các Tập đoàn Kinh tế và Tổng Công ty Nhà nước. Kế hoạch phát triển kinh
tế – xã hội 5 năm 2011-2015 đã được Quốc hội khóa 13 thông qua tại kỳ họp số 2
cũng đã khẳng định chủ trương này. Trên cơ sở đó hàng loạt các Nghị quyết của
Chính phủ như Nghị quyết số 94/2011/NQ-CP và Quyết định của Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai xây dựng các đề án tái cơ
cấu.
Hầu hết các nội dung chính sách tái cơ cấu của Đảng và Nhà nước đều liên
quan trực tiếp đến các hoạt động của các tổ chức tài chính, bảo hiểm, đòi hỏi các tổ
chức này phải tiến hành rà soát, đánh giá hiện trạng để sắp xếp, đổi mới, tái cấu trúc
lại mơ hình tổ chức, tài chính, quản trị, chiến lược… cho sự phát triển của giai đoàn
2011 – 2012. Đây là một yêu cầu bắt buộc nên các doanh nghiệp bảo hiểm đương
nhiên phải tiến hành rà soát, đánh giá hiện trạng để thực hiện sắp xếp, đổi mới, tái
cấu trúc lại mơ hình doanh nghiệp mình cho phù hợp với đặc thù của từng doanh
nghiệp. Trong đó, các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nhà nước với đặc thù của chủ
sở hữu nhà nước đi kèm với những quy chế, quy định đặc thù cần đặc biệt chú ý.
Thứ hai, theo Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 (Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI), nền kinh tế Việt Nam được dự kiến tiếp tục tăng
trưởng cao với tốc độ bình quân đạt khoảng 7-8%/năm; cơ cấu kinh tế được chuyển
dịch, theo đó tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ được nâng cao chiếm
khoảng 85% trong GDP; tỉ lệ đô thị hóa đạt trên 45%; thu nhập thực tế của dân cư
gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm
dân cư được thu hẹp. Bên cạnh đó, theo Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch
vụ của Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 175/QĐ-TTg ngày 27/01/2011 của
Thủ tướng Chính phủ), Nhà nước sẽ huy động mọi nguồn lực để phát triển đồng bộ,
hoàn chỉnh và hiện đại, đạt chất lượng và năng lực cạnh tranh quốc tế các loại thị
trường dịch vụ.
Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ
của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn
thiện của thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chưa
thực sự bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất và sức cạnh tranh còn thấp,
hiệu quả sử dụng nguồn lực còn hạn chế, kết cấu hạ tầng yếu kém. Trong ngắn hạn,
kinh tế Việt Nam vẫn phải đương đầu với sức ép lạm phát. Bên cạnh đó, thị trường
tài chính Việt Nam phát triển chưa đồng bộ, chưa có sự gắn kết giữa các mảng thị
trường. Trong công tác điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước chưa có sự
phối hợp chặt chẽ, gây khó khăn trong việc phát triển từng mảng thị trường. Đây là
những khó khăn mà các doanh nghiệp cần nắm bắt để chủ động điều chỉnh đồng
thời đóng góp ý kiến cũng như chia sẻ với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan.
Thứ ba, có thể thấy mặc dù thị trường bảo hiểm thời gian qua tuy phát triển
song quy mơ cịn nhỏ, ngành bảo hiểm VN cịn rất nhiều tiềm năng để phát triển.
So với các chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược Phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam giai đoạn 2003-2010 thì các chỉ tiêu đạt được còn chưa tương xứng với tiềm
năng mà chiến lược đặt ra. Ví dụ, đóng góp vào GDP của ngành bảo hiểm mới đạt
1,92% (so với mục tiêu 4,2%); trích lập dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đạt 55.136 tỷ
đồng (so với mục tiêu 100.000 tỷ đồng); đầu tư trở lại nền kinh tế đạt 80.540 (so với
mục tiêu 90.000 tỷ đồng) (Tính toán của Viện Kinh tế tài chính từ số liệu thống kê
của Bộ Tài chính, Tổng cục Thống kê). Số liệu tính toán trên cho thấy đóng góp của
ngành bảo hiểm Việt Nam vào GDP thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế
giới (6,98%) và khu vực (3,43%). Phí bảo hiểm bình quân đầu người của Việt Nam
là 347.000 đồng (tương đương 17 USD) thấp hơn nhiều so với mức trung bình trên
thế giới (595 USD) và khu vực (74 USD).
Nguồn: Swiss Re, Sigma No.2/2010
Thứ tư, việc hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam sẽ
tạo cơ hội thuận lợi cho thị trường bảo hiểm phát triển. Điều này tạo ra nhiều cơ hội
mới cho các doanh nghiệp bảo hiểm song cũng có không ít những thách thức. Đặc
biệt là khi năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chưa thực
sự vững mạnh, công nghệ quản trị điều hành cịn lạc hậu, trình độ đội ngũ cán bộ
bảo hiểm chưa cao và thiếu kinh nghiệm thực tiễn…. Tính an toàn, ổn định của thị
trường bảo hiểm một mặt dựa vào định hướng, chính sách quản lý tốt của Nhà
nước, đồng thời cũng phụ thuộc vào chính năng lực của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ năm, những khó khăn không lường trước được của nền kinh tế Việt
Nam trong những năm qua đã thức tĩnh không ít doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân
về vai trò của bảo hiểm. Khi bản thân kinh tế khó khăn trì trệ khiến doanh nghiệp
khổ sở vất vả để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh chờ cơ hội mới thì dường
như sức chịu đựng rủi ro của các chủ thể này là kém nhất. Đối với nhiều doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét theo nghĩa nào đó, tâm lý bất an trong
kinh doanh, việc làm cũng là cơ hội mới cho hoạt động bảo hiểm.
Khó khăn thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
Triển vọng kinh tế năm 2012 và giai đoạn tới vẫn diễn biến khó lường. Tốc
độ tăng trưởng của các trụ cột của nền kinh tế toàn cầu bao gồm Mỹ, Trung Quốc,
EU, Nhật Bản tiếp tục đà suy giảm so với năm 2011, ảnh hưởng lớn tới tất cả các
nền kinh tế còn lại và đặc biệt, đối với các nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất
khẩu như Việt Nam. Nếu khủng hoảng nợ tại châu Âu không được kiểm sốt và lan
sang các nước khác thì vẫn là một nguy cơ tiếp tục gây nên khủng hoảng kinh tế
toàn cầu.
Cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới về mở cửa thị trường dịch vụ, thị
trường tài chính cùng với sự ra đời của nhiều Công ty Bảo hiểm, Ngân hàng, Quỹ
đầu tư (gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) tạo ra sức ép cạnh tranh
rất lớn trên thị trường bảo hiểm, tài chính.
Thị trường bảo hiểm ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước và nước ngoài trên cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ. Đặc biệt số lượng
doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phát triển, nhiều nhà đầu tư là các
công ty bảo hiểm hàng đầu thế giới và trong khu vực đã được cấp phép thành lập
doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam một mặt sẽ là nhân tố tích cực cho việc nâng
cao chât lượng hoạt động dịch vụ bảo hiểm, những cũng là nhân tố đẩy mức độ
cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm lên cao hơn trong thời gian tới.
Nguồn nhân lực của thị trường đang thiếu hụt, sự chuyển dịch lao động đặc
biệt là nhân sự cấp cao giữa các doanh nghiệp xảy ra thường xuyên dẫn đến khó
khăn trong quản trị doanh nghiệp.
Thực tế, thị trường bảo hiểm từ năm 2005 đã trải qua giai đoạn phát triển
nóng, số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm gia nhập thị trường tăng nhanh qua các
năm, trong khi dung lượng thị trường thay đổi chậm. Kết quả của giai đoạn tăng
trưởng nóng này, nhiều doanh nghiệp đang gánh chịu tỷ lệ bồi thường cao tới mức
báo động, không kiểm soát được bồi thường phát sinh. Hiệu quả kinh doanh của
nhiều doanh nghiệp còn thấp, thể hiện ở tỷ suất sinh lời thấp, khả năng thanh toán
khá hạn chế… dù thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tăng 22% nhưng nợ đọng phí
bảo hiểm nhiều, số hồ sơ bồi thường còn tồn đọng nhiều cần khẩn trương giải quyết,
chi phí khai thác và quản lý còn cao...
Hội nghị Ban Chấp hành định kỳ lần III, nhiệm kỳ 2010 - 2015 của Hiệp hội
bảo hiểm Việt Nam được tổ chức cuối năm 2011 cũng nhìn nhận, thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ tăng 22% nhưng nợ đọng phí bảo hiểm nhiều, số hồ sơ bồi
thường còn tồn đọng nhiều cần khẩn trương giải quyết, chi phí khai thác và quản lý
còn cao...
Khơng chỉ có vậy, theo tính tốn, hiện chỉ số HHI (Mức độ tập trung của thị
trường) cho thấy thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam đang ở mức độ tập
trung và việc một số ít doanh nghiệp (DN) nắm giữ đa số thị phần làm số lớn các
DN còn lại chỉ có “tiếng nói” yếu ớt có thể coi là một trong các nhân tố cản trở đáng
kể mức độ cạnh tranh. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là sự tồn tại
các DN bảo hiểm “nội ngành” trong các ngành dầu khí, bưu chính viễn thơng, xăng
dầu...vơ hình trung tạo nên sự “chia cắt” thị trường, hạn chế cạnh tranh trong thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Nhìn vào thị phần của các DN bảo hiểm phi nhân thọ năm 2012 có thể thấy,
chiếc bánh phần lớn được chia cho các “đại gia”: Bảo Việt, PVI, Bảo Minh, PJICO,
PTI. 5 DN này chiếm gần 64% thị phần nhờ có cổ đông rất mạnh với nhiều lợi thế
như: Bảo Việt (Bộ Tài chính, SCIC); PVI (Tập đoàn Dầu khí Việt Nam); PJICO
(Tổng công ty Xăng dầu), Bảo Minh (Tổng công ty Hàng không, Tổng công ty
Lương thực miền Nam...), PTI (Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam). Ngoài
ra, kinh nghiệm hoạt động lâu năm là vũ khí cạnh tranh lợi hại của các DN này. Mặt
khác, khi đã có doanh thu phí ổn định từ các khách hàng truyền thống, khách hàng
đồng thời là cổ đông, các DN bảo hiểm lớn không quan tâm đến các nghiệp vụ bảo
hiểm quá rủi ro và dành “miếng xương” này cho các DN bảo hiểm nhỏ. Họ tập
trung đầu tư công nghệ để quản lý chặt chẽ quy trình bồi thường, chống gian lận.
Các DN bảo hiểm quy mô nhỏ đã khó lại càng khó khăn hơn.
Theo các chuyên gia bảo hiểm, trong bối cảnh kinh tế chưa có dấu hiệu hồi
phục, thị trường bị thu hẹp, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nếu không có sự khác
biệt thực sự về sản phẩm và dịch vụ, thật khó cho các DN quy mô nhỏ cạnh tranh.
Mặt khác, hoạt động đầu tư cần được kiểm soát chặt chẽ, nếu không sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn vong của DN bảo hiểm. Thời gian tới, thị trường sẽ tiếp tục
chứng kiến các cuộc đổi chủ. Tuy nhiên, cho dù như thế nào, các DN bảo hiểm hẳn
không quên hai bài học “đau đớn” trong quá khứ nhưng vẫn rất thời sự: đầu tư dễ
dãi và hạ phí tràn lan.
Tình trạng tập trung khơng chỉ tồn tại ở lĩnh vực BH phi nhân thọ, trong thị
trường bảo hiểm nhân thọ mức độ tập trung còm ở mức cao hơn. Trong số 11 DN
bảo hiểm nhân thọ hiện đang hoạt động trên thị trường BH Việt Nam, trên 80% thị
phần nằm trong tay 4 DN lớn là AIA, Bảo Việt nhân thọ, Manulife và Prudetial.
Mức độ tập trung cao trên thị trường BH đặt trong bối cảnh hoạt động đầu tư
của các DN bảo hiểm ngày càng bất lợi khiến các DN bảo hiểm cỡ nhỏ, thị phần
thấp đã khó lại càng khó khăn hơn. Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy:
quá trình chạy đua cạnh tranh với các DN bảo hiểm lớn khiến các DN bảo hiểm nhỏ
dễ tổn thương và bất ổn.
Thực trạng này đặt ra cho quản lí nhà nước về BH một mặt hạn chế cấp phép
cho các công ty BH “nội ngành”, mặt khác cần có những chính sách giảm dần sự
độc quyền hình thành một cách vơ hình trong việc bảo hiểm tại các ngành, các lĩnh
vực kinh tế trọng yếu.
Nguy hiểm hơn còn có doanh nghiệp bảo hiểm khơng đảm bảo khả năng
thanh tốn là một thực tế rất đáng lo ngại. Chưa kể các doanh nghiệp bảo hiểm còn
có các động thái bắt tay vi phạm luật cạnh tranh, thi nhau tăng chi phí bán hàng
hoặc phá rào để tăng khoản “hỗ trợ” khách hàng khi qui định về trần hoa hồng đã
hết.
Trong khi kinh doanh nghiệp vụ có chiều hướng xấu thì rủi thay hoạt động
đầu tư của các DNBH cũng gặp không ít khó khăn do môi trường đầu tư bất lợi
trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ảm đạm, lạm phát tăng cao. Với hoàn cảnh này, hoạt
động đầu tư khó có thể làm tròn vai trò “hậu thuẫn” cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nữa. Biểu hiện rõ nét nhất là thị trường chứng khoán giảm sâu liên tục, kinh
doanh bất động sản đóng băng, nợ xấu tăng ảnh hưởng rất lớn đến tài sản đầu tư của
các doanh nghiệp BH.
Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh và quản lí
DN đang là một thách thức lớn đối với DNBH. Trong lĩnh vực BH phi nhân thọ, các
DNBH cỡ nhỏ trong nước đang mày mò theo kiểu vừa làm vừa học, vừa tạo lập,
ứng dụng vừa cải tiến cơng nghệ thơng tin dẫn đến tình trạng chắp vá và kém hiệu
quả.
Môi trường kinh doanh đã có những biến đổi về cơ bản, cùng với đó là quy
mô của các DNBH lớn lên nhanh chóng cả về vốn, nguồn nhân lực cũng như phạm
vi hoạt động. Nếu những năm trước đây, các DNBH phi nhân thọ chủ yếu hoạt động
trong địa bàn tỉnh hoặc thành phố, đến nay, hầu hết các DNBH phi nhân thọ đã hoạt
động trong phạm vi cả nước, nhiều DNBH đang vươn ra thị trường thế giới với đa
dạng các lĩnh vực hoạt động từ chỉ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm,
đến nay, hoạt động đầu tư và kinh doanh đa ngành đã được các DNBH phi nhân thọ
đặc biệt coi trọng.
Có thể nói, hoạt động của DNBH như chiếc áo đã quá chật nên phải tái cấu
trúc, thay bằng chiếc áo phù hợp hơn.
III. ĐỊNH HƯỚNG TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
Chính những áp lực bên ngoài và bên trong đã đặt ra yêu cầu cần phải tái cấu
trúc DNBH. Trước tình hình này, vừa qua, Bộ Tài chính đã xây dựng đề án tái cấu
trúc các DNBH, theo đó sẽ phân loại các doanh nghiệp này theo bốn nhóm gồm:
Nhóm 1 - các DNBH đảm bảo khả năng thanh toán hoạt động kinh doanh có
lãi;
Nhóm 2 - các DNBH vẫn đảm bảo khả năng thanh toán nhưng kinh doanh
còn khó khăn, chi phí hoạt động lớn, tỉ lệ bồi thường cao hoặc hoạt động kinh doanh
không có lãi trong hai năm liên tục;
Nhóm 3 - các DNBH có nguy cơ không đảm bảo khả năng thanh toán
Nhóm 4 - các DNBH mất khả năng thanh toán, bị đặt vào tình trạng kiểm
sốt đặc biệt và áp dụng các giải pháp theo quy định của các luật kinh doanh bảo
hiểm. Nếu trong thời gian kiểm soát đặc biệt không khắc phục được sẽ thực hiện
sáp nhập hoặc phá sản theo quy định của pháp luật.
Việc tái cơ cấu ngành bảo hiểm trong tổng thể cơ cấu lại nền kinh tế, doanh
nghiệp nhà nước, ngân hàng, chứng khoán, ưu tiên cho chính sách an sinh xã hội sẽ
tạo đột phá cho ngành này. Từ đó, ngành Bảo hiểm có nhiều cơ hội mới để phát
triển thêm những phân khúc thị trường, sản phẩm bảo hiểm được hỗ trợ bằng các
văn bản pháp quy như bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu...
Thực tế hiện nay một số DNBH phi nhân thọ đã có những động thái tái cấu
trúc lại doanh nghiệp. Mới đây, PVI đã tuyên bố chuyển đổi thành PVI Holdings và
có một số thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh chính. Ngành, nghề kinh doanh
mới của DNBH này sau khi thay đổi gồm: bán buôn máy vi tính, thiết bị ngoại vi và
phần mềm; bán buôn thiết bị và linh kiện điện tử, viễn thông; xuất bản phần mềm;
lập trình máy vi tính,… Đồng thời, PVI Holdings thành lập Tổng cơng ty Bảo hiểm
PVI theo hình thức cơng ty TNHH một thành viên do PVI Holdings sở hữu. Trước
đó, giữa tháng 6/2011, Công ty bảo hiểm Quân đội cũng chuyển đổi thành Tổng
Công ty bảo hiểm Quân đội (MIC) với 19 công ty thành viên trực thuộc và một
công ty đầu tư hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, đầu tư tài chính,
… Một số công ty khác như BIC, PTI cũng có những thay đổi cơ bản về nhân sự
chủ chốt.
Không nằm ngoài tiến trình tái cơ cấu, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Bảo Việt
(BVH) - Lê Quang Bình chia sẻ: Việc tái cấu trúc Tập đoàn trong năm 2012 sẽ tập
trung vào việc xem xét lại định hướng ngành nghề cốt lõi, tạo sự gắn kết, hợp lực
giữa các lĩnh vực trong tập đoàn như bảo hiểm, ngân hàng để tạo ra năng lực cạnh
tranh, cung ứng dịch vụ tài chính đa dạng khơng chỉ trong bảo hiểm, mà cịn trong
quản lý tài sản, thanh toán, ngân hàng…Bảo hiểm kết hợp với nhân hàng và đầu từ
chứng khoán, quản lý tài sản để định hướng việc phát triển ngành nghề, tạo đột phá,
từ đó phân bổ nguồn vốn cho phù hợp đem lại hiệu quả cao với tinh thần bền vững
và ổn định, đảm bảo cổ tức cho các nhà đầu tư.
Các công ty bảo hiểm nhìn chung có vốn chủ sở hữu đáp ứng được quy định
về duy trì vốn chủ sở hữu cao hơn vốn pháp định, tuy nhiên vẫn còn 3 công ty chưa
đáp ứng được yêu cầu này. Hiện 29/39 công ty hoạt động sản xuất kinh doanh có
lãi. Tuy nhiên, tỷ lệ sở hữu của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước tại các
doanh nghiệp bảo hiểm cao, dẫn đến tình trạng khép kín trong hoạt động kinh doanh
tại các doanh nghiệp bảo hiểm này. Quy mơ thị trường bảo hiểm, phí bảo hiểm bình
qn đầu người còn nhỏ so với các nước trên thế giới và trong khu vực.
Không phủ nhận những thành công cũng như đóng góp của ngành bảo hiểm
thời gian qua, nhưng sự bộc lộ yếu kém của một số DN kinh doanh thua lỗ, mất khả
năng thanh toán càng làm cho nhu cầu tái cơ cấu DNBH trở nên cấp thiết.
Nhìn lại quá trình tái cấu trúc của các doanh nghiệp bảo hiểm kể trên, dù
được đánh giá là mới chỉ mang tính "từng phần", nhưng ít nhiều cũng đã giúp thị
trường có sự thay đổi đáng kể. Năm 2011, tư duy về cạnh tranh và tăng trưởng đã
thay đổi, không ít doanh nghiệp tuyên bố chú trọng hiệu quả, thay vì chú trọng quy
mô như trước đây, trong đó, có những kế hoạch cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch
vụ, ưu tiên phát triển công nghệ thông tin, đào tạo nhân lực, đa dạng danh mục sản
phẩm. Tình hình cạnh tranh phi kỹ thuật bớt căng thẳng, thị trường hứa hẹn sẽ phát
triển theo hướng lành mạnh hóa. Tuy vậy, để "mây mù" thực sự tan nhanh, cần một
động lực mạnh mẽ từ nhiều phía cho một quá trình tái cấu trúc trên bình diện toàn
thị trường. Quá trình tái cấu trúc này bao gồm các hành động cụ thể như sau:
Công khai thơng tin về tình hình tài chính, khả năng thanh tốn của các cơng
ty bảo hiểm, đặc biệt là sự kết nối và chia sẻ thông tin về các khách hàng thuộc
"danh sách đen" của bảo hiểm phi nhân thọ.
Bộ Tài chính cần ban hành các quy định giám sát và nâng cao độ an toàn tài
chính cho chính các công ty bảo hiểm: yêu cầu vốn khả dụng (vốn có thể chuyển
hóa ngay thành tiền) đạt tối thiểu vốn pháp định để tránh việc các công ty bảo hiểm
dùng phần lớn vốn góp để đầu tư bất động sản, góp vốn dài hạn, đầu tư lại cho các
cổ đông; áp dụng hệ số Vốn tối thiểu/Tổng mức trách nhiệm bảo hiểm giữ lại (ngoài
việc chỉ quy định giới hạn trách nhiệm giữ lại trên từng rủi ro là 5% Vốn chủ sở hữu
như hiện nay) để tránh việc các công ty bảo hiểm không có khả năng chi trả khi
đồng thời xảy ra nhiều rủi ro.
Yêu cầu các công ty bảo hiểm phải đầu tư hệ thống công nghệ thông tin để
cập nhật, theo dõi được hàng ngày bồi thường phát sinh, để trích lập dự phòng đầy
đủ, hạch toán đầy đủ chi phí để có số liệu tài chính chính xác. Đây được coi là một
điều kiện bắt buộc để các công ty bảo hiểm được phép hoạt động.
Hiện nay, ngoài 3 lĩnh vực hàng không, vệ tinh, dầu khí phải có điều kiện về
vốn (các công ty bảo hiểm phải tăng vốn thêm 100 tỷ đồng cho mỗi lĩnh vực), các
công ty bảo hiểm được thành lập chỉ cần đủ vốn pháp định (đối với phi nhân thọ là
300 tỷ đồng) thì thoải mái cấp bảo hiểm cho các dịch vụ lớn, đặc thù khác. Việc cấp
bảo hiểm như vậy tiềm ẩn nhiều rủi ro khi công ty bảo hiểm chưa đáp ứng được tiêu
chuẩn về thời gian hoạt động, kinh nghiệm, năng lực cán bộ nghiệp vụ, các quy
định cụ thể hơn về an toàn của nhà tái bảo hiểm, nhưng lại yếu về năng lực tài
chính.
Bộ Tài chính ban hành các quy định "mở đường" cho việc hợp nhất, sáp
nhập các công ty bảo hiểm để tạo "đường thốt" cho các cơng ty bảo hiểm yếu kém
và gây dựng một số công ty bảo hiểm lớn có khả năng cạnh tranh trong khu vực.
Để các công ty bảo hiểm tập trung cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, Bộ Tài
chính nên quy định mức phí chuẩn trên cơ sở phân tích số liệu rủi ro lịch sử của
những sản phẩm bảo hiểm phổ thông.
Bộ Tài chính cần có quy định cụ thể các nguyên tắc quản trị công ty bảo
hiểm, tiến dần đến thông lệ quốc tế; trong đó, việc yêu cầu tách bạch các hoạt động
cốt lõi (khai thác, quản lý rủi ro/chấp nhận bảo hiểm, bồi thường) cần phải làm sớm,
tránh việc một cán bộ kinh doanh vừa tư vấn bán hàng, vừa đánh giá chấp nhận rủi
ro, vừa xử lý bồi thường.
Các cơ quan chức năng vào cuộc và quyết liệt kiểm sốt để ngăn chặn triệt
để tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, hướng tới một thị trường minh bạch và
hoạt động hiệu quả.
Để thực hiện được vai trò là "lá chắn cho nền kinh tế", ngành bảo hiểm rất
cần phải cơ cấu lại một cách hệ thống để thực sự lành mạnh, an toàn và nâng cao
năng lực tài chính.
IV MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT
NAM
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
Tổ chức nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp
luật nhằm đảm bảo tính đầy đủ, đồng bộ, nhất quán giữa các quy định; hướng dẫn kịp thời
các quy định mới tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm (có
hiệu lực từ 1/7/2012); tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm trong quá trình triển khai và phù hợp hơn với thực tiễn; đảm bảo thực hiện hiệu quả
các cam kết quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm mà Việt Nam là thành viên; từng
bước phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quản lý, giám sát bảo hiểm quốc tế.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các dự án sửa đổi, bổ sung, ban hành một số
Luật thuế theo Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26/11/2011 của Quốc hội về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII và Nghị quyết số
23/2012/QH13 ngày 12/6/2012 về nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy
định về thuế liên quan đến lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo hướng đồng bộ và nhất
quán; giảm thiểu thủ tục hành chính, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế nhằm góp phần tăng
tính cạnh tranh của ngành bảo hiểm Việt Nam so với các nước trong khu vực và các nước
có điều kiện tương đồng với Việt Nam; tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế khuyến khích
các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và người có thu nhập
thấp tham gia bảo hiểm.
2. Nâng cao tính an tồn hệ thống, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp bảo hiểm
Trên cơ sở định hướng của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về tái cấu trúc thị trường tài
chính, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả việc tái cơ cấu các doanh nghiệp bảo hiểm
theo hướng kiện toàn mơ hình tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động yếu kém,
không hiệu quả; từng bước nâng cao năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ, khả năng quản
trị điều hành và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm theo chuẩn mực và
thông lệ quốc tế.
Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ và khuyến khích các
doanh nghiệp bảo hiểm đa dạng hóa danh mục đầu tư, dàn trải rủi ro, nâng cao hiệu quả
hoạt động đầu tư và tính an toàn nguồn vốn đầu tư, đảm bảo nhất quán và đồng bộ với các
mục tiêu, giải pháp đã được xác định tại Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam giai đoạn 2011-2020, Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020 và các kế hoạch, lộ trình thực hiện các văn bản này.
Chủ động phối hợp có hiệu quả với Ngân hàng Nhà nước trong việc chia sẻ thông tin
xây dựng cơ chế chính sách có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, thông tin về
quản lý điều hành các doanh nghiệp bảo hiểm trực thuộc các tập đoàn tài chính - ngân hàng
trên cơ sở Quy chế phối hợp công việc giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã được ký kết ngày 29/2/2012.
Xóa bỏ hiện tượng khép kín, chia cắt thị trường bảo hiểm thông qua việc hoàn thiện cơ
chế, chính sách về cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn góp của
Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm khác; tăng cường quản lý,
giám sát, xử lý nghiêm các biểu hiện vi phạm cơ chế cạnh tranh bình đẳng. Phối hợp rà
sốt, đánh giá hiệu quả phần vốn góp của các Tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước tại các
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tiếp tục giảm tỷ lệ góp vốn của các Tập đoàn, Tổng Công ty
nhà nước theo đúng mục tiêu, giải pháp đã được xác định tại Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011-2015 theo
Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012).
Các DNBH Việt Nam cần tiếp tục ổn định và hoàn thiện tổ chức bộ máy, chiến lược
kinh doanh, nghiên cứu và thiết kế những sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với thực trạng
của thị trường. Nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm ở tất cả các khâu trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, từ khâu khai thác đến các khâu đề phòng và hạn chế tổn thất, giải
quyết khiếu nại, giám định và bồi thường. Kiên trì xây dựng thương hiệu và uy tín của
doanh nghiệp để từng bước vươn ra thị trường bảo hiểm nước ngoài. Xây dựng các kênh
phân phối sản phẩm phù hợp trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển và
xu hướng liên doanh, liên kết giữa ngân hàng với bảo hiểm đang diễn ra phổ biến trên thế
giới hiện nay.
3. Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển và đa dạng hóa sản phẩm
bảo hiểm
Rà soát sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy định về phê chuẩn sản phẩm bảo
hiểm theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm
tận dụng kịp thời cơ hội triển khai, bảo đảm mặt bằng chung tối thiểu giữa doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ khi triển khai cùng một loại hình bảo hiểm sức khỏe và
tăng tính hấp dẫn, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bảo hiểm so với các sản phẩm tài
chính thay thế khác (đặc biệt là các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư).
Tích cực chỉ đạo, phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện hiệu quả các
chương trình thí điểm các loại hình bảo hiểm được Nhà nước hỗ trợ (bảo hiểm nông
nghiệp, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu); chủ động tổng hợp, nghiên cứu, đề xuất các giải
pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc kịp thời cho doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm trong quá trình triển khai thí điểm. Tổng kết, đánh giá quá trình triển khai thí
điểm và đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển các loại hình bảo hiểm này cho giai đoạn
tiếp theo.
Rà sốt, sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới và cháy, nổ cho phù hợp hơn với điều kiện và thực tiễn phát triển kinh tế. Xây
dựng và ban hành quy tắc, điều khoản, biểu phí về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm nghề
nghiệp môi giới bảo hiểm theo quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
4. Đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm
Nghiên cứu ban hành các quy định mới nhằm chuẩn hóa chất lượng nguồn nhân lực
của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; chuẩn hóa chương trình đào tạo và chứng chỉ mơi
giới phù hợp với đặc thù của loại hình sản phẩm bảo hiểm được thu xếp qua môi giới.
Hoàn thiện các quy định về chuẩn hóa chương trình đào tạo đại lý bảo hiểm và điều
kiện, tiêu chuẩn của các tổ chức đào tạo đại lý bảo hiểm. Tổ chức kiểm soát chặt chẽ công
tác đào tạo, thi và cấp chứng chỉ đại lý bảo hiểm. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử
dụng đại lý của các doanh nghiệp bảo hiểm.
5. Tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước về kinh doanh bảo hiểm
Xây dựng hệ thống quản lý, giám sát từ xa hiệu quả; tăng cường thực hiện quản lý,
giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu giám sát và việc thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật.
Chuẩn hóa trình độ đội ngũ cán bộ của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo
hiểm, bố trí số lượng cán bộ đủ để đáp ứng sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Xây
dựng cơ chế thu hút và đãi ngộ cán bộ hợp lý, đặc biệt là các cán bộ làm việc trong các lĩnh
vực đặc thù như tính toán bảo hiểm.
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam phải đóng vai trò trung tâm và là cầu nối thực sự giữa
các DNBH với cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm và các cơ quan giám sát thị trường.
Chủ động nắm bắt thông tin cả trong và ngoài nước liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm để từ
đó có những khuyến cáo kịp thời đối với các DNBH và cơ quan quản lý Nhà nước về bảo
hiểm trong việc: lựa chọn đối tác chiến lược tin cậy; giám sát thị trường, năng lực tài
chính, khả năng thanh toán của các DNBH và mối quan hệ giữa các DNBH trong nước với
các DNBH nước ngoài trong hoạt động tái bảo hiểm…
Cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm cần tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hoá Luật
Kinh doanh bảo hiểm bằng các văn bản hướng dẫn cụ thể phù hợp với cam kết WTO.
Đồng thời phải có những chính sách linh hoạt, mềm dẻo trước diễn biến của cuộc khủng
hoảng và sự tác động của nó đến thị trường bảo hiểm Việt Nam. Cần sớm đưa ra những
cảnh báo kinh tế có liên quan đến thị trường và hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kiên
quyết xử lý các trường hợp lợi dụng tình hình kinh tế – xã hội đang gặp khó khăn để chiếm
dụng vốn lẫn nhau và thực hiện các hành vi trục lợi bảo hiểm.
Cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động
tài chính có liên quan. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng đổ vỡ có tính dây
chuyền giữa các ngành có liên quan nhiều đến lĩnh vực bảo hiểm, như ngân hàng, tài chính,
chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Bởi vì mối liên kết giữa các ngành này chủ yếu
liên quan đến lĩnh vực đầu tư vốn, cho nên sẽ luôn có những rủi ro tiềm ẩn khó lường.
Ngoài ra, phải luôn theo dõi chặt chẽ những diễn biến của thị trường tài chính và thị
trường bảo hiểm thế giới để có những thông tin dự báo cần thiết cho các DNBH Việt Nam.
Điều này sẽ giúp các DNBH Việt Nam đưa ra những quyết sách đúng và kịp thời liên quan
đến hoạt động tái bảo hiểm và hoạt động đầu tư tài chính. Giải pháp này cần phải được
phối hợp thực hiện giữa cơ quan quản lý Nhà nước về bảo hiểm, Hiệp hội bảo hiểm Việt
Nam và các cơ quan khác có liên quan như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công An, Bộ
Thông tin và Truyền thông v.v…
6. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm
Xây dựng lộ trình và phương án đàm phán trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đối với
từng Hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương nhằm đảm bảo lợi ích của Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo nguyên tắc cam kết ngang bằng
(không vượt quá) các cam kết đã có của Việt Nam trong WTO.
Tăng cường theo dõi, giám sát thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, đánh giá tác động
của việc hội nhập và kịp thời điều chỉnh cơ chế, chính sách hợp lý, hạn chế tối đa các tác
động tiêu cực của quá trình này.
Chủ động, tích cực tham gia Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm Đông Nam Á và
Hiệp hội quốc tế của các cơ quan quản lý bảo hiểm; rà soát, đánh giá việc tuân thủ các
nguyên tắc về quản lý, giám sát do Hiệp hội quốc tế của các cơ quan quản lý bảo hiểm đề
ra, trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh doanh bảo hiểm nhằm
tuân thủ hoàn toàn 50% số lượng các nguyên tắc này.
Đa dạng hóa nội dung, hình thức và các đối tác hợp tác quốc tế, gắn hợp tác quốc tế
với yêu cầu công tác quản lý, giám sát thị trường bảo hiểm; nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm từ các đối tác quốc
tế.
7. Điều kiện khác
a. Điều kiện kinh tế là cơ sở phát triển BH Nhân thọ
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, liên tục trong suốt các năm qua, với mức
tăng trưởng GDP năm 2004 là 7,75% và năm 2005 khoảng trên 8%, thu nhập bình quân
đầu người luôn được cải thiện trong những năm gần đây, lạm phát được duy trì ở mức thấp
dưới 10%, đời sống của dân cư không ngừng được cải thiện... Người dân đã bắt đầu có tích
lũy và yên tâm sử dụng tiền tích lũy này để đầu tư trở lại nền kinh tế trong đó bảo hiểm
nhân thọ là một trong những kênh đầu tư Vốn được người dân lựa chọn. Đây chính là
những yếu tố rất quan trọng và là cơ sở cho sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ trong giai
đoạn này cũng như những năm về sau.
Với đại đa số người dân Việt Nam, bảo hiểm nhân thọ vẫn còn là một lĩnh vực mới
mẻ. Bởi vậy, việc xác định nhu cầu, lựa chọn các sản phẩm bảo hiểm phù hợp cần có sự tư
vấn của những cán bộ am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ và những kỹ năng cần thiết khi tư
vấn bảo hiểm và quan trọng là họ phải thấu hiểu được hoàn cảnh và nhu cầu của khách
hàng. Điều này chính là thách thức rất lớn cho những người làm việc, công tác trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ, nhưng đồng thời cũng là những cơ hội để các công ty bảo hiểm
nhân thọ khám phá, phát triển thị trường. Vì vậy, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp
bảo hiểm cần phải quảng bá cho dân chúng hiểu được ý nghĩa, lợi ích khi tham gia bảo
hiểm nhân thọ. Có như vậy, thị trường bảo hiểm Việt Nam mới có thể được khai thác hiệu
quả.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh và còn rất
nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Theo thống kê, doanh thu phí bảo hiểm hiện nay chỉ
chiếm 1,6% tổng GDP của Việt Nam và năm 2005 đạt khoảng 2,5%. Trong khi đó ở các
nước trong khu vực doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt khoảng 5-6% tổng GDP. Ngoài
ra, với chiến lược hội nhập của nền kinh tế Việt Nam thì việc tham gia bảo hiểm của các
doanh nghiệp đã khơng cịn là khái niệm xa lạ. Người Việt Nam mới chỉ đầu tư bảo hiểm
cho mình 300 USD/người/năm, trong khi người Singapore chi tới 1.200 USD/người/năm
và người Nhật là 3.000 USD/người/năm.
b. Điều kiện văn hóa- xã hội: có nhiều thuận lợi cho BH Nhân thọ phát triểnVề dân số Việt Nam là một quốc gia đông dân trên thế giới. Đến cuối năm 2005, dân số
Việt Nam lên tới hơn 83 triệu người, trong đó người lao động và trẻ em chiếm đa số. Thế
nhưng số người tham gia bảo hiểm nhân thọ mới khoảng 5 triệu người, tỷ lệ dân số tham
gia bảo hiểm nhân thọ mới chỉ khoảng 7%, trong khi tỷ lệ này ở các nước trung bình là 2025%, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì cịn rất ít. Đây chính là tiền đề cho
thấy bảo hiểm nhân thọ còn rất tiềm năng ở Việt Nam. Điều này chứng tỏ thị trường Việt
Nam còn đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp bảo hiểm cơ hội phát triển.
Về văn hóa Việt Nam là một nước ở phương Đông, lại chịu sự ảnh hưởng lớn của
Nho giáo, gia đình và tình cảm ruột thịt luôn được người Việt Nam hết sức coi trọng. Có
thể nói nét đặc trưng văn hóa này của người Việt Nam đã tạo nên một thị trường hết sức
hấp dẫn cho bảo hiểm nhân thọ, bởi bảo hiểm nhân thọ là sự biểu lộ sâu sắc trách nhiệm và
tình thương bao la đối với người thân, gia đình và xã hội. Hơn thế nữa, người Việt Nam
còn có nét đặc trưng về tính cách đó là tiết kiệm, “lo xa” để đảm bảo cuộc sống cho chính
bản thân mình và những người thân trong tương lai. Trong khi đó, bảo hiểm nhân thọ là
một công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề này.
Về giáo dục: người Việt Nam có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo rất lâu đời.
Giáo dục con em luôn được các bậc cha mẹ quan tâm hàng đầu và coi đó là yếu tố đầu tiên
trong trách nhiệm nuôi dạy con em của mình. Cha mẹ ln sẵn sàng hy sinh những quyền
lợi cá nhân của mình để tạo cho con em những điều kiện học tập tốt nhất. Chính bảo hiểm
nhân thọ là một giải pháp kinh tế rất phù hợp cho mục tiêu này, nhất là khi chi phí cho giáo
dục đại học ngày càng tốn kém.
Công nghệ thông tin: Trong lĩnh vực bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng, việc ứng dụng công nghệ thông tin đã cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm vi tính
hóa quá trình dịch vụ, giảm bớt tính cồng kềnh của cơ cấu tổ chức doanh nghiệp bảo hiểm,
đa dạng hóa kênh phân phối và các hình thức dịch vụ, tăng cường dịch vụ khách hàng bằng
các dịch vụ phụ trợ kỹ thuật cao,... Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin tạo ra một thói quen tiêu dùng mới cho khách hàng. Khách hàng ngày càng có
nhu cầu tìm hiểu thơng tin qua các phương tiện thông tin hiện đại như qua: Internet, điện
thoại, emial... được cung cấp các dịch vụ tài chính tổng hợp như: bảo hiểm - đầu tư - thanh
toán... Do vậy, đây là cơ hội để các doanh nghiệp bảo hiểm triệt để ứng dụng thành tựu của
khoa học kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng trong điều
kiện cạnh tranh và hội nhập.
c. Mở cửa và hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho BH Nhân thọ phát triển đi tắt
đón đầu
Mở cửa và hội nhập là xu hướng tất yếu để phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế
giới hiện nay. Việc mở cửa nền kinh tế ở nước ta trong những năm qua đã tạo ra nhiều cơ
hội cho các lĩnh vực, các ngành nghề; trong đó, có lĩnh vực bảo hiểm và bảo hiểm nhân
thọ. Sự tham gia vào thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam của các doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ nước ngoài lớn, có tiềm năng tài chính hùng mạnh, có kinh nghiệm trong
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ như AIA, Prudential..., đã tạo tiền đề cho sự phát triển
nhanh chóng của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam, thúc đẩy thị trường bảo hiểm
phát triển.