Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tìm hiểu 03 vụ việc có tranh chấp về quyền tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.75 KB, 18 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM SỐ 1
Môn: Luật Dân sự Việt Nam – module 2

ĐỀ SỐ 2
Tìm hiểu 03 vụ việc có tranh chấp về quyền tài sản được dùng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

NHÓM
LỚP

: 01
: N 09 – TL 3


Hà Nội, 2011

A. ‘/MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ ngày càng
phức tạp hơn, các mâu thuẩn tranh chấp cũng tăng theo. Đặc biệt các tranh chấp về
giao dịch dân sự. Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào
sự tự giác của các bên, nhưng trong thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia giao
dịch đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình.
Nhằm nâng cao trách nhiệm của các bên trong thực hiện nghĩa vụ dân sự, pháp luật
cho phép các bên có thể thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp
đồng cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Đối tượng của các biện pháp bảo
đảm là những lợi ích vật chất và thường là một tài sản (vật có thực, tiền, giấy tờ trị
giá được bằng tiền và các quyền tài sản hoặc là một công việc phải làm). Nhận thức
được tầm quan trọng của việc sử dụng các biện pháp bảo đảm trong giao dịch dân


sự, nhóm chúng em xin chọn đề tài 02 liên quan đến một trong những đối tượng
được dùng trong các biện pháp bảo đảm là quyền tài sản: “Tìm hiểu 03 vụ việc có
tranh chấp về quyền tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Yêu cầu : Tóm tắt nội dung vụ việc (chỉ rõ nơi xảy ra sự kiện, chủ thể của quan
hệ và những vấn đề tranh chấp); Tòa án đã giải quyết tranh chấp đó hay tranh chấp
đó chưa được tòa án giải quyết? Nội dung giải quyết của Tòa án? Kết luận của Tòa
án? Bình luận của nhóm về việc áp dụng pháp luật và quyêt định của Toà án? Nếu
vụ việc chưa được giải quyết tại Tòa án nhân dân thì nhóm của anh chị hãy trình bày
ý kiến giải quyết của mình.
B. NỘI DUNG
I. Vụ việc thứ nhất:
Nguyên đơn:
Ông Nguyễn Quang Thuật, sinh năm 1964; trú tại nhà số 217 Lê Duẩn, thành
phố Hà Nội.
Bị đơn:
2


1. Ông Soudent Thavixay, sinh năm 1947, Quốc tịch Thái Lan và Lào;
2. Bà Nguyễn Thị Tuyết Hoa (vợ ông Soudent Thavixay) sinh năm 1976;
Đều trú tại nhà số 12-22-34 Lô I, phường Cống Vị nay là nhà số 16, ngõ 71,
phố Linh Lang, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; ủy quyền cho
ông Vũ Quang Huy đại diện (văn bản ủy quyền ngày 22-12-2004).
1. Tóm tắt nội dung vụ việc:
● Theo đơn khởi kiện đề ngày 01-11-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án,
Nguyên đơn ông Nguyễn Quang Thuật trình bày:
Năm 1990, ông và ông Soudent Thavixay có quen biết nhau qua kinh doanh, từ
đó quan hệ giữa hai người trở nên thân thiết như anh em. Từ năm 1995, ông Soudent
rất cần vốn kinh doanh bất động sản và đầu tư một số dự án lớn nên muốn ông cùng
hùn vốn đầu tư, nhưng ông chưa đồng ý. Ông Thuật đã huy động vốn để cho ơng

Soudent vay nhiều lần, có lần ơng Soudent viết giấy nhận tiền, có lần khơng. Để xác
nhận, tổng hợp các khoản nợ trong nhiều lần vay, ngày 18-8-2000 tại nhà riêng của
vợ chồng ông Soudent, ông Soudent và ông lập “Giấy vay nợ” có nội dung: vợ
chồng ông Soudent có vay của ơng tổng cộng là 19.200.000.000 đồng và 550.000 đơ
la Mỹ (USD); cam đoan sẽ hồn trả đầy đủ số tiền đã vay trước ngày 30-10-2000;
ông Soudent thay mặt bà Hoa ký trước mặt ông; vợ chồng ông Soudent và ông thống
nhất hủy bỏ tất cả các giấy vay nợ từ trước và lấy “Giấy vay nợ” này là duy nhất có
giá trị thanh tốn.
Đến ngày 18-11-2000, ông đã nhiều lần yêu cầu trả tiền, nhưng ông Soudent
chưa trả tiền nên đã ký “Cam kết trả nợ” và gán căn nhà số 68 Mai Hắc Đế, Hà Nội
cho ông và hứa sẽ làm thủ tục sang tên căn nhà đó cho ơng. Sau đó, ơng Thuật sửa
chữa nhà và dọn đến đây ở, nhưng vợ chồng ông Soudent không sang tên nhà cho
ông và phủ nhận việc gán nợ ngôi nhà 68 Mai Hắc Đế. Ngày 01-8-2003, ông
Soudent khởi kiện đòi nhà 68 Mai Hắc Đế với lý do ông là người ở nhờ nhà của vợ
chồng ông Soudent.
Việc vay nợ của vợ chồng ông Soudent trong thời gian dài (từ năm 1995 đến
năm 2000) đã thể hiện trong “Giấy vay nợ” và “Cam kết trả nợ”, nhưng vợ chồng
ơng Soudent chưa trả nợ. Vì vậy, ơng u cầu Tịa án buộc vợ chồng ơng Soudent
phải trả cho ông số nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật; đồng thời, đề nghị kê
biên, phát mãi một số tài sản hiện có của vợ chồng ơng Soudent như: nhà số 68 Mai
Hắc Đế, Hà Nội; nhà số I12, I22, I34 phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội để
bảo đảm cho quá trình xét xử và thi hành án.
3


● Bị đơn là ông Soudent Thavixay và bà Nguyễn Thị Tuyết Hoa (do ông Vũ
Quang Huy đại diện theo ủy quyền) trình bày:
“Giấy vay nợ” ghi ngày 18-8-2000, nhưng ngày đó ơng khơng có mặt ở Việt
Nam. Ơng Thuật cho rằng, ông đã dùng con dấu của Công ty BKS, nhưng ông
không biết công ty này. Trong thời gian làm Giám đốc Công ty Liên doanh khách

sạn Hạ Long Dream, do thường xuyên đi công tác xa nên ông Soudent đã ký khống
vào một số giấy tờ để nhân viên chủ động dùng trong cơng việc. Ơng Thuật là nhân
viên của Công ty, đã lợi dụng một số giấy tờ ký khống của ông để điền nội dung
không đúng sự thật rằng ông đã vay nợ ông Thuật.
Cùng với thủ đoạn như trên, ông Thuật đã làm giấy “Cam kết trả nợ” đề ngày
18-11-2000 nhằm chiếm đoạt căn nhà 68 Mai Hắc Đế của vợ chồng ông. Việc ông
Thuật vu khống cho vợ chồng ông cam đoan trả nợ là rất rõ, đó là: cam kết trả nợ
được làm ngày 18-11-2000, trong khi đó đến ngày 05-11-2001 thì vợ chồng ông mới
được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà này, nên vợ chồng ông không thể mang
tài sản chưa thuộc sở hữu của mình để gán nợ cho ông Thuật.
Ông Thuật là nhân viên cũ trong Công ty liên doanh khách sạn Hạ Long Dream,
vì tình cảm nên ông đã cưu mang ông Thuật và nhận vào Công ty làm việc; lúc đó
ơng Thuật khơng có nhà ở; trước năm 2000 ông Thuật lấy đâu ra một lượng tiền lớn
như vậy để cho ơng vay. Ơng Thuật có mâu thuẫn với vợ chồng ơng trong vụ địi nhà
số 68 Mai Hắc Đế, do bị xử thua kiện nên đã tìm cách tạo dựng tài liệu khơng có thật
để chiếm đoạt tài sản của vợ chồng ông, hành vi của ơng Thuật có dấu hiệu của tội
phạm hình sự. Ông yêu cầu xác định nguồn gốc số tiền mà ông Thuật có để cho ông
vay; giám định “Giấy vay nợ” và “Cam kết trả nợ”, xác minh Công ty BKS có thật
khơng. Đồng thời, vợ chồng ơng bác bỏ tồn bộ u cầu của ơng Thuật.
2. Quyết định của Tòa án:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 37/2005/DSST ngày 05-8-2005, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu đòi tiền cho vay của ông Thuật đối với ông Soudent và bà
Hoa; buộc vợ chồng ơng Soudent và bà Hoa phải thanh tốn cho ông Thuật số tiền
19.200.000.000 đồng và 550.000 đô la Mỹ (USD) tương đương 8.706.500.000 đồng.
Và khoản lãi được tính bằng 19.200.000.000 đồng x 56 tháng x 0,3% =
3.335.600.000 đồng. Tổng cộng số tiền ông Soudent và bà Hoa phải thanh tốn cho
ơng Thuật là 31.132.100.000 đồng.
4



- Kể từ ngày xét xử sơ thẩm 05-8-2005, ông Soudent và bà Hoa không được dịch
chuyển mua bán diện tích nhà 68 Mai Hắc Đế để đảm bảo việc thi hành án.
Ngồi ra, bản án cịn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 08-8-2005, ơng Soudent kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản
án sơ thẩm với lý do Tịa án buộc ơng phải trả tiền theo “Giấy vay nợ” giả mạo.
Ngày 15-8-2005, ông Thuật kháng cáo, yêu cầu áp dụng biện pháp phong tỏa
đối với ngơi nhà 12-22-334 lơ I Cống Vị, Ba Đình, Hà Nội của ông Soudent và bà
Hoa để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 86/2006DST ngày 20-4-2006, Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định:
- Chấp nhận u cầu địi tiền vay của ơng Thuật đối với ông Soudent và bà Hoa
do ông Vũ Quang Huy đại diện.
- Buộc vợ chồng ông Soudent và bà Hoa do ơng Huy đại diện phải thanh thốn
trả nợ cho ông Thuật số tiền 19.200.000.000 đồng và 550.000 đô la Mỹ (USD) tương
đương 8.706.500.000 đồng và khoản lãi được tính bằng 19.200.000.000 đồng x 56
tháng x 0,3% = 3.225.600.000 đồng. Tổng cộng số tiền ông Soudent và bà Hoa phải
thanh tốn cho ơng Thuật là 31.132.100.000 đồng.
- Kể từ ngày xét xử sơ thẩm 05-8-2005, ông Soudent và bà Hoa khơng được
chuyển dịch mua bán diện tích nhà 68 Mai Hắc Đế, Hà Nội và kể từ ngày xét xử phúc
thẩm (20-4-2006) ông Soudent và bà Hoa không được chuyển dịch mua bán diện tích
ngơi nhà số 12,22,34, lơ I, phường Cống Vị, Ba Đình, Hà Nội để đảm bảo việc thi
hành án.
Ngồi ra, bản án cịn quyết định về án phí.
Tại quyết định kháng nghị số 236/2007/KN-DS ngày 28-12-2007, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 86/2006/DSPT
ngày 20-4-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc
thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm số 37/2005/DSST ngày 05-8-2005 của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét

xử sơ thẩm lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị số
236/2007/KN-DS ngày 28-12-2007 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và căn cứ
5


vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự
để đưa ra quyết định:
- Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 86/2006/DSPTngày 20-4-2006 của Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 37/2005/DSST
ngày 05-8-2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp hợp
đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Quang Thuật với bị đơn là ông
Soudent Thavixay và bà Nguyễn Thị Hoa.
- Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.
3. Bình luận về cách giải quyết của Tịa án và phương hướng giải quyết của
nhóm:
Quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, yêu cầu xét xử sơ thẩm lại
của Tòa án tại phiên tịa giám đơc thẩm là hồn tồn chính xác. Vì chưa có đủ cơ sở
để kết luận có việc vay tài sản giữa bị đơn và nguyên đơn như Tòa án các cấp đã xác
định. Trước hết là chưa có giám định chữ ký của ơng Soudent tại giấy cam kết trả
nợ; Tòa án cũng chưa xác minh nguồn tiền ông Thuật cho vay là từ đâu; con dấu
BKS là của cơng ty nào? Ơng Soudent khơng thừa nhận là đã ký tại Phiếu chuyển
tiền đề ngày 21-8-2000. Bà Hoa không liên quan đến việc vay nợ, nhưng Tòa án lại
lấy tài sản chung của vợ chồng để thi hành án là không đúng.
“Giấy vay nợ” đề ngày 18-8-2000, nhưng vào ngày này ơng Soudent khơng có
mặt tại Việt Nam (tại công văn số 80/P2 ngày 11-3-2005, Cục Quản lý Xuất nhập
cảnh Bộ Công an đã xác nhận ông Soudent xuất cảnh khỏi Việt Nam ngày 15-8-2000
và nhập cảnh vào Việt Nam ngày 27-8-2000). Ông Thuật cho rằng ông Soudent ký

giấy vay nợ sau khi đi nước ngoài về, còn ngày 18-8-2000 ghi trên giấy vay nợ là để
tính liên tục về thời gian (làm trịn ngày tính nợ); nhưng ơng Thuật khơng xuất trình
được chứng cứ để chứng minh lý giải này là có căn cứ. Ngồi ra cịn khơng có người
làm chứng, con dấu được đóng trên chữ ký chưa được xác định là của công ty nào.
Trong q trình Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội và Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội giải quyết vụ đòi nhà số 68 Mai Hắc Đế giữa bà Hoa,
ông Soudent với ông Thuật, ơng Thuật khơng xuất trình “Cam kết trả nợ” để u cầu
Tịa án buộc vợ chồng ơng Soudent giao nhà này như đã cam kết, mà vẫn cho rằng
vợ chồng ông Soudent cho ông Thuật căn nhà số 68 Mai Hắc Đế. Trong q trình
giải quyết vụ án ơng Soudent yêu cầu giám định chữ ký của ông Soudent trong phiếu
chuyển tiền ngày 21-8-2000 tại Ngân hàng ANZ (Phiếu này do ơng Thuật xuất trình
6


để chứng minh ngày 21-8-2000 ơng Soudent có mặt tại Việt Nam), xác định con dấu
trên “Giấy vay nợ” là con dấu Cơng ty nào; nhưng Tịa án cấp sơ thẩm và Tịa án cấp
phúc thẩm khơng tiến hành xác minh làm rõ. Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào “Giấy vay
nợ” đề ngày 18-8-2000. “Cam kết trả nợ” đề ngày 18-11-2000 và chữ ký của ông
Soudent trên Phiếu chuyển tiền ngày 21-8-2000 thì chưa đủ cơ sở cho rằng có việc
ơng Thuật cho vợ chồng ơng Soudent vay 19.200.000.000 đồng và 550.000 USD.
Về nguồn gốc số tiền cho vợ chồng ơng Soudent vay, ơng Thuật trình bày rằng
do vợ chồng ông Thuật dành dụm được và huy động vốn từ người thân ơng Thuật
(trong đó, mẹ ơng Thuật để lại cho ông hơn 300 cây vàng và hơn 100.000.000 đồng,
bà Nguyễn Thị Châu và ông Nguyễn Hữu Ngọc ở nước ngồi chuyển tiền về cho
ơng gần 500.000 USD và 5.000.000.000 đồng), cịn bà Hương xác nhận là ơng Thuật
vay 3.700.000.000 đồng, khoảng 25.000 USD và vàng. Việc vay tiền và chuyển
ngoại tệ từ nước ngoài về với số lượng lớn như vậy, nhưng ơng Thuật lại khơng xuất
trình được tài liệu chứng cứ chứng minh; trong khi đó, trong q trình tố tụng, ơng
Soudent u cầu xác minh nguồn gốc số tiền nêu trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và
Tịa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ được.

Ngồi ra, “Giấy vay nợ” có ghi vợ chồng ơng Soudent dùng số tiền vay của ông
Thuật để mua sắm, tạo dựng nhà cửa và gửi Ngân hàng Vietcombank để chờ đầu tư
dự án, nhưng bà Hoa không ký vào “Giấy vay nợ” này; đồng thời, cũng chưa có tài
liệu nào thể hiện vợ chồng ông Soudent vay tiền cùa ông Thuật sử dụng vào mục
đích chung của gia đình, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc
bà Hoa có trách nhiệm cùng với ơng Soudent trả nợ cho ông Thuật là không đúng.
Từ những phân tích trên, cần hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nêu trên
để xét xử sơ thẩm lại, theo hướng thu thập thêm chứng cứ để làm rõ nội dung nêu
trên, nếu ơng Thuật khơng xuất trình được thêm chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi
kiện của mình thì phải bác u cầu của ơng Thuật.
II. Vụ việc thứ 2: tại huyện Yên Thành – tỉnh Nghệ An
Nguyên đơn: anh Phạm Quang Bình – 33 tuổi; trú tại Khối 1, thị trấn Yên
Thành – tỉnh Nghệ An.
Bị đơn: anh Ngơ Văn Sỹ, 36 tuổi; trú tại xóm Văn Thiên, xã Văn Thành, huyện
Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

7


Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị Phương, 28 tuổi, Khối 3
thị trấn Yên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
1. Tóm tắt nội dung sự việc:
Ngày 3/6/2008, anh Phạm Quang Bình có làm hợp đồng vay tiền với anh Ngô
Văn Sỹ để làm vốn mở đại lí. Số tiền vay là 490.000.000 đ. Hai bên thỏa thuận mức
lãi suất, hạn trả là ngày 3/6/2010. Trong hợp đồng, anh Sỹ có ghi dùng mãnh đất
diện tích 150 m2 tại Ngã ba cầu Bùng – thị trấn Diễn Châu (thuộc quyền quản lý và
sử dụng của anh Sỹ) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ trước anh Bình. Đến hạn
trả, do làm ăn bn bán không được thuận lợi nên anh Sỹ đã không trả được khoản
nợ trên cho anh Bình.
Ngày 25/7/20010, anh Bình làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện

Yên Thành giải quyết buộc anh Sỹ phải thưc hiện nghĩa vụ trả nợ.
Ngày 4/8/2010, Tòa án nhân dân huyện Yên Thành đã thụ lý giải quyết vụ việc.
Trước đó, ngày 2/6/2010, anh Sỹ đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đối với mãnh đất 150m 2 nói trên cho chị Nguyễn Thị Phương. Hợp đồng
này được chị Phương đưa đi cơng chứng, chứng thực ngày 25/8/2010; sau đó được
gửi đến phịng tài ngun và mơi trường huyện n Thành để thực hiện việc đăng ký
quyền sử dụng đất.
Ngày 27/8/2010, anh Bình đã gửi đơn u cầu Tịa án nhân dân huyện Yên
Thành áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm dừng việc đăng ký đối với hợp
đồng chuyển nhượng nói trên, đồng thời anh Bình trình bày về việc mảnh đất đó đã
được anh Sỹ ghi trong hợp đồng vay tiền là dùng để bảo đảm cho việc trả nợ của anh
Sỹ.
2. Quyết định của Tòa án:
Theo u cầu của anh Bình, ngày 29/8/2010, Tịa án đã ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời với nội dung: Cấm anh Ngô Văn Sỹ chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói trên để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Sau khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, phịng tài
ngun mơi trường huyện n Thành đã tạm dừng lại việc đăng ký đối với hợp đồng
chuyển nhượng đất nói trên.
Tại bản án nhân dân sơ thẩm số 87/DSST ngày 15/9/2010, Tòa án nhân dân
huyện Yên Thành đã quyết định buộc anh Ngô Văn Sỹ phải thanh tốn cho B số tiền
đã vay anh Phạm Quang Bình, đồng thời tuyên bố không công nhận giao dịch bảo
8


đảm ghi trong hợp đồng vay tiền giữa anh Ngỗ Văn Sỹ và anh Phạm Quang Bình,
với lý do vi phạm về hình thức. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ngày
5/12/2010, anh Bình làm đơn yêu cầu thi hành án.
Ngày 9/12/2010, Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành đã ra quyết định
trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho B với lý do: người thi hành án là anh Ngơ Văn Sỹ

khơng có tài sản để thi hành.
Ngày 26/2/2011, anh Phạm Quang Bình có đơn khởi kiện gửi tới Tịa án với nội
dung “Không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký giữa anh
Ngô Văn Sỹ và chị Nguyễn Thị Phương”.
Hiện tại vụ án dân sự đang trong quá trình xem xét, giải quyết.
3. Nhận xét cách giải quyết vụ việc của Tòa án:
Trong vụ án trên, chúng ta thấy anh Ngô Văn Sỹ vay tiền của anh Phạm Quang
Bình bằng một hợp đồng vay tài sản, mà tài sản vay ở đây là tiền. Rõ ràng hai bên đã
thỏa thuận hạn trả nhưng người vay là anh Sỹ đã khơng thực hiện nghĩa vụ thanh
tốn nợ khi đến hạn ghi trong hợp đồng. Do đó, anh Bình hồn tồn được khởi kiện
ra Tịa án, u cầu Tịa án bảo vệ quyền lợi cho mình. Hơn nữa, theo qui định của
pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản thì tại Điều 474 BLDS 2005 đã qui định về
nghĩa vụ trả nợ của bên vay, theo đó “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi
đến hạn…”.

Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Yên Thành thụ lý giải quyết vụ
việc và tại bản án sơ thẩm Tịa án buộc A phải thanh tốn cho B số tiền đã vay là
hoàn toàn hợp lý và đúng pháp luật. Đồng thời tuyên bố không công nhận biện pháp
bảo đảm ghi trong hợp đồng vay tiền của anh Bình và anh Sỹ với lý do vi phạm về
hình thức là hồn tồn đúng. Bởi vì, biện pháp bảo đảm thế chấp quyền sử dụng đất
là một trong các trường hợp mà pháp luật quy định phải thực hiện đăng ký giao dịch
bảo đảm, đồng thời theo quy định của pháp luật về đất đai (khoản 1 Điều 130 Luật
đất đai năm 2003): “Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải có
chứng nhận của cơng chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận
của cơng chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi có đất”.

Về việc Tịa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
đối với anh Sỹ:

9


Theo qui định tại Điều 120 BLTTDS thì Tịa án có quyền áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, trong đó có biện pháp “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với
tài sản đang tranh chấp.” (khoản 7), “phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ”
(khoản 11), và “Cấm và buộc đương sự thực hiện những hành vi nhất định” (Khoản
10).
Điều 109 BLTTDS quy định: “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho
thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch
quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác.”
Điều 114 BLTTDS qui định: “Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp
dụng nếu trong q trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài
sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
hoặc bảo đảm cho việc thi hành án.”
Điều 115 BTTDS qui định: “Cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định
được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy đương sự hoặc
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất
định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết.”
Như vậy, trong vụ án này, Tòa án nhân dân huyện Yên Thành ra quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với anh Ngô Văn Sỹ với nội dung cấm A
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói trên để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ trả nợ là hợp lí và đúng với qui định của pháp luật.
4. Cách giải quyết vụ án của nhóm:
Thứ nhất, việc anh Phạm Quang Bình có đơn u cầu Tịa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời và đã được Tòa án chấp thuận, tuy nhiên, trong trường hợp này,
tại BLTTDS có qui định: Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp
khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền, kim khí q, đá q hoặc giấy tờ có giá

do Tòa án ấn định nhưng phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa
vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
từ phía người có quyền u cầu. Và theo qui định tại Điều 120 BLTTDS thì anh
Bình cũng là đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ này (người đưa ra yêu cầu áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp “cấm chuyển dịch quyền về tài sản
đối với tài sản đang tranh chấp” phải thực hiện biện pháp bảo đảm).
10


Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27 tháng 4 năm
2005 của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao thì “nghĩa vụ tài sản” là nghĩa
vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba do việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không đúng. Cịn “người có nghĩa vụ phải thực hiện” là người có yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khơng đúng.
Như vậy, trong trường hợp này Tịa án nhân dân huyện Yên Thành cần áp dụng
qui định trên của pháp luật để yêu cầu anh Bình gửi một khoản tiền, kim khí q, đá
q hoặc giấy tờ có giá do toàn án ấn định tương đương để đảm bảo “nghĩa vụ tài
sản” (nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho người bị áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba do việc yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời khơng đúng). Bởi vì, đây là qui định bắt buộc của pháp luật
tố tụng dân sự, cho dù việc anh Bình yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong trường hợp này là hợp lý, không trái pháp luật.
Thứ hai, Vì anh Sỹ và chị Phương chưa hoàn thành việc chuyển giao quyền sử
dụng đối với mảnh đất nói trên nên về mặt pháp lý, mảnh đất đó vẫn thuộc quyền sử
dụng của anh Sỹ; bởi vì theo qui định tại Điều 692 BLDS: “Việc chuyển quyền sử
dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật về đất đai”. Mặc dù, biện pháp bảo đảm mà anh Sỹ và anh Bình thỏa thuận
trong hợp đồng vay tiền đã vi phạm hình thức, khơng được Tịa án nhân dân huyện

Yên Thành công nhận để giải quyết trực tiếp quyền của nguyên đơn, nhưng trong
trường hợp này, Tòa án vẫn phải bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn là anh Phạm
Quang Bình. Đối tượng thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong
trường hợp này lại đang là đối tượng mà Tòa án thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Sỹ và chị Phương
mặc dù đã được cơng chứng chứng thực nhưng Tịa án vẫn có thể tun bố vơ hiệu.
Về chủ thể có quyền gửi đơn u cầu tịa án tun bố hợp đồng chuyển nhượng trên
là vơ hiệu thì với tư cách là bên có quyền lợi liên quan nên theo quy định của pháp
luật thì anh Bình hồn tồn có quyền gửi đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên là vô hiệu. Như vậy, trong trường hợp này, theo
chúng em, Tịa án có thể ra quyết định không công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đã ký và đã được công chứng giữa anh Ngơ Văn Sỹ và chị
Nguyễn Thị Phương”. Có thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bán đấu giá để
giải quyết quyền lợi cho anh Phạm Quang Bình.
11


III. Vụ việc thứ 3: về tranh chấp quyền sử dụng đất đã được thế chấp giữa
ngân hàng công thương Nghệ An (Vietin Bank Nghe An) vs Công ty cổ phần thương
mại Nghệ An.
1. Tóm tắt nội dung vụ việc:
Các bên có liên quan:
- Ngân hàng cơng thương Nghệ An (Vietin Bank Nghe An)
- Công ty cổ phần thương mại Nghệ An
- Cơng ty TNHH Bình Minh (Cơng ty Bình Minh)
Tháng 2/1996, Cơng ty Bình Minh sử dụng Quyết định giao đất số 1638/QĐUB ngày 14/11/1994 của UBND tỉnh Nghệ An và tài sản trên đất của Công ty để thế
chấp vay 1,5 tỷ đồng và 280 nghìn USD tại Ngân hàng Công Thương Nghệ An.
Tuy đất và tài sản trên đất cùng quyết định giao đất đã thế chấp cho ngân hàng
nhưng ngày 5/8/1997 Cơng ty Bình Minh vẫn có Cơng văn số 25 VP/CT đề nghị
UBND tỉnh Nghệ An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Đến

ngày 27/12/1997, UBND tỉnh Nghệ An có quyết định cấp GCNQSDĐ với diện tích
10.000 m2 cho cơng ty tại xã Nghi Kim, huyện Nghi Lộc (nay thuộc thành phố
Vinh).
Sau khi được cấp GCNQSDĐ, ngày 10/1/2001, Cơng ty Bình Minh ký hợp
đồng mua bán tài sản và chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Công ty CPTM với
số tiền 4,65 tỷ đồng.
Đến ngày 4/9/2001, với nhiều lý do, Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An đã thông
báo thu hồi, hủy bỏ Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh và xoá tên doanh nghiệp
trong sổ đăng ký kinh doanh đối với cơng ty Bình Minh.
Mặc dù đã bị xố tên doanh nghiệp, nhưng ngày 5/3/2002, Cơng ty Bình Minh
vẫn có tờ trình số 75/TTr-CT gửi Vietin Bank Nghệ An về việc tự nguyện bàn giao
tài sản để xử lý nợ cho ngân hàng. Ngày 5/6/2003, Vietin Bank Nghệ An ký hợp
đồng bán đấu giá tài sản của cơng ty Bình Minh đang thế chấp để thu hồi nợ. Tuy
nhiên, hợp đồng đã khơng thể thực hiện vì Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản
Nghệ An phát hiện số tài sản này Cơng ty Bình Minh đã chuyển nhượng cho Công ty
CPTM.
Ngày 1/12/2008, UBND tỉnh Nghệ An ban hành quyết định số 5330/QĐUBND.KT về việc thành lập đoàn thanh tra liên ngành (gồm đại diện Sở Tư pháp,
12


Thanh tra tỉnh, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, Sở Tài chính, Sở Tài ngun và Mơi
trường) nhằm kiểm tra, xác minh, kết luận nội dung tranh chấp quyền sử dụng đất và
tài sản giữa Vietin Bank Nghệ An và công ty CPTM.
2. Nội dung giải quyết của đồn Tịa án:
Sau khi đồn thanh tra liên ngành có báo cáo và căn cứ vào các văn bản của
Vietin Bank Nghệ An và của Công ty CPTM cùng các văn bản quy định khác của
pháp luật, UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số 4482/QĐ.UBND.KT về
việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản giữa 2 đơn vị này. Tại điều 2
của Quyết định nêu rõ : “Giao Ngân hàng Công Thương Nghệ An trực tiếp ký hợp
đồng với Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp Nghệ An để tổ

chức bán đầu giá toàn bộ số tài sản và quyền sử dụng 10.000 m2 đất của Cơng ty
TNHH Bình Minh có tại xã Nghi Kim, Tp Vinh đã thế chấp cho Ngân hàng Cơng
Thương Nghệ An theo đúng trình tự quy định của pháp luật để thu hồi nợ cho ngân
hàng Công Thương Nghệ An và thanh toán số tiền mua tài sản, đầu tư xây dựng
thêm của Công ty cổ phần thương mại Nghệ An...”.
Vụ việc tranh chấp kéo dài nhiều năm, lẽ ra các bên liên quan phải cùng nhau
hợp tác để giải quyết dựa trên những điều quy định của văn bản có hiệu lực pháp
luật đó là Quyết định số 4482/QĐ.UBND.KT của UBND tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên,
trong khi VietinBank tích cực hợp tác để đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ việc thì
cơng ty CPTM lại tỏ ra bất hợp tác. Ngay sau khi Quyết định số 4482/QĐUBND.KT có hiệu lực, ngày 9/10/2009, Vietin Bank có văn bản uỷ quyền cho Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá (TTDVBĐG) Nghệ An để thành lập Hội đồng định giá tài
sản QSDĐ và tài sản của Cơng ty Bình Minh. Tuy nhiên, ngày 14/10/2009,
TTDVBĐG tổ chức buổi định giá tài sản của Cơng ty Bình Minh nhưng khơng thành
do Cơng ty CPTM không hợp tác, lãnh đạo công ty không có mặt tại thời điểm định
giá. Ngày 15/10/2009, VietinBank Nghệ An phát văn bản gửi công ty CPTM yêu cầu
giải tỏa kho Bình Minh để tổ chức định giá tài sản nhưng công ty CPTM cũng không
thực hiện. Ngày 19/11/2009, UBND tỉnh Nghệ An nhận được Văn bản số
1830/CTCPTMNA ngày 19/11/2009 của Công ty CPTM về việc đề nghị không bán
đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản kho của cơng ty Bình Minh và đề nghị UBND
tỉnh xem xét lại Quyết định (theo điều 355 BLDS)
Trả lời kiến nghị này của Công ty CPTM, tại Công văn số 8068/UBND.KT
ngày 30/11/2009, UBND tỉnh Nghệ An cho rằng : “Việc Cơng ty cổ phần Thương
mại Nghệ An có Văn bản số 1830/CTCPTMNA ngày 19/11/2009 đề nghị không bán
13


đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản kho Bình Minh tại xã Nghi Kim, Tp Vinh và
xem xét lại quyết định giải quyết tranh chấp số 4482/QĐ.UBND.KT ngày 8/9/2009
của Chủ tịch UBND tỉnh là khơng có căn cứ, thiếu thiện chí trong giải quyết tranh
chấp và mâu thuẫn với chính các ý kiến của mình đã đưa ra trước đó”. Cũng tại

Cơng văn này, UBND tỉnh đã u cầu VietinBank và Công ty CPTM nghiêm túc
thực hiện Quyết định số 4482/QĐ.UBND.KT.
3. Bình luận của nhóm về cách giải quyết của Tòa án:
Vụ việc liên quan đến viếc tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản kho của
công ty Bình Minh giữa ngân hàng Viettin Nghệ An với Cơng ty CPTM Nghệ An.
Trong vụ việc này bên có liên quan là cơng ty Bình Minh đã thực hiện hành vi khơng
hợp pháp đó là bán tài sản đang trong thế chấp cho công ty cổ phần thương mại
Nghê An mà chưa có sự đồng ý của bên nhận thế chấp là ngân hàng Viettin (vi phạm
khoản 4 điều 348 và khoản 4 điều 349 BLDS). Chính vì điều này đã gây nên việc
tranh chấp giữa ngân hàng Viettin với công ty CPTM Nghệ An.
Để giải quyết tranh chấp này UBND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số
4482/QĐ.UBND.KT về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản giữa
2 đơn vị này. Quyết định này của UBND Nghệ An là hợp lí. Theo đó tồn bộ tài sản
thế chấp của cơng ty Bình Minh sẽ được giao cho ngân hàng Viettin để ngân hàng
bán đấu giá (theo điều 355 BLDS) vì cơng ty Bình Minh đã không thực hiện được
việc trả nợ cho ngân hàng và đã có tờ trình số 75/TTr-CT gửi VietinBank Nghệ An
về việc tự nguyện bàn giao tài sản để xử lý nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên công ty
CPTM lại không hợp tác thực hiện Quyết định của UBND tỉnh Nghệ An thể hiện ở
việc công ty không bán đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản kho Bình Minh tại xã
Nghi Kim, Tp Vinh. Việc làm này của công ty CPTM là không đúng bởi theo như
quyết định số 4482/QĐ.UBND.KT của UBND tỉnh Nghệ An công ty CPTM sẽ được
thanh toán số tiền mua tài sản, đầu tư xây dựng thêm của Công ty cổ phần thương
mại Nghệ An. Cách giải quyết của UBND là thỏa đáng với phần tài sản công ty
CPTM đã bỏ ra để mua tài sản của cơng ty Bình Minh. Cơng ty CPTM khơng có
quyền giữ lại tồn bộ tài sản mà cơng ty Bình Minh đã chuyển nhượng vì tài sản đó
đã được công ty BM thế chấp ngân hàng từ trước khi chuyển nhương cho cơng ty
CPTM và có giấy tờ giao cho ngân hàng để xử lí nợ với ngân hàng khi công ty BM
không thể trả nợ cho ngân hàng.
4. Quan điểm và cách giải quyết của nhóm:


14


Thứ nhất, Về mặt pháp lý và cả mặt thực tế, việc cơng ty Bình Minh thế chấp
quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của công ty cho ngân hàng Viettinbank cũng đã
được lập thành văn bản và đưa đi đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng chứng
thực. Do đó, trong trường hợp này cần phải áp dụng quy định của BLDS quy định về
thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, theo đó, tại khoản 1 Điều 325
quy định: “Trong trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký thì việc xác định thứ
tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định theo thứ tự đăng ký”.
Hơn nữa, theo qui định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định 163 về giao dịch bảo đảm thì:
“Trong trường hợp bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp khơng phải
là hàng hố ln chuyển trong q trình sản xuất, kinh doanh mà khơng có sự đồng ý
của bên nhận thế chấp thì bên nhận thế chấp có quyền thu hồi tài sản thế chấp”. Như
vậy, trong trường hợp này, ngân hàng Viettinbank hoàn toàn có quyền thu hồi tài sản
đã thế chấp của cơng ty Bình Minh là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của công
ty này.
Thứ hai, Cũng tại điểm a khoản 1 Điều 20 Nghị định 163 quy định rằng: Trong
trường hợp bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp khơng phải là hàng
hố ln chuyển trong q trình sản xuất, kinh doanh mà khơng có sự đồng ý của
bên nhận thế chấp thì bên nhận thế chấp có quyền thu hồi tài sản thế chấp, nhưng trừ
trường hợp “Việc mua, trao đổi tài sản được thực hiện trước thời điểm đăng ký thế
chấp và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình”. Có nghĩa rằng,
chúng ta đối chiếu với trường hợp này, cơng ty CPTM và cơng ty Bình Minh đã
thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau thời điểm mà cơng ty Bình
Minh đăng ký thế chấp tài sản của mình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do
đó, trong trường hợp này pháp luật trước hết sẽ bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng
Vieettinbank. Có nghĩa rằng tài sản sau khi bán đấu giá thì phải thanh tốn hết khoản
nợ của cơng ty Bình Minh đối với ngân hàng Viettinbank, rồi sau đó mới giải quyết
việc thanh toán số tiền mua tài sản, đầu tư xây dựng thêm của Công ty cổ phần

thương mại Nghệ An.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là phần tìm hiểu của nhóm về 3 vụ việc tranh chấp về quyền tài sản
được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Từ việc tìm hiểu 3 vụ án trên,
chúng em đã hiểu biết thêm về việc áp dụng từ luật ra thực tế về việc dùng quyền tài
sản trong bảo đảm nghĩa vụ dân sự. Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ tuy chỉ mang
tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính nhưng nó thực sự quan trọng . Thông qua các
biện pháp này, bên người có quyền có thể chủ động tiến hành các hành vi của mình
để tác động trực tiếp đên tài sản của bên kia nhằm thỏa mãn quyển của mình khi đến
thời hạn mà bên kia không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của
mình. Và việc sử dụng quyền tài sản để đảm bảo cho giao dịch dân sự ngày càng
nhiều và các tranh chấp liên quan đến nó cũng nhiều lên và càng ngày càng phức
15


tạp. Chính các quy định về quyền tài sản còn nhiều bất cập nên việc áp dụng quy
định tài sản vào giao dịch dân sự còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi có tranh chấp
xảy ra. Từ đó đặt ra vấn đề phải hoàn thiện pháp luật hơn. Chính việc quy định chặt
chẽ về pháp luật sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng hơn, kéo theo đó
làm giảm số lượng các tranh chấp xảy ra.

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………….….…..1
B. NỘI DUNG………………………………………………………………….…1
16


I. Vụ việc thứ nhất…………………………………………………….…...…..1
1. Tóm tắt nội dung vụ việc………………………………………………….2

2. Quyết định của Tịa án………………………………………………....….3
3. Bình luận về cách giải quyết của Tòa án và phương hướng
giải quyết của nhóm……………………………………………………........5
II. Vụ việc thứ 2………………………………………………………..……...6
1. Tóm tắt nội dung sự việc………………………………………………….6
2. Quyết định của Tòa án…………………………………………………….7
3. Nhận xét cách giải quyết vụ việc của Tòa án……………………………..8
4. Cách giải quyết vụ án của nhóm……………………………………….….9
III. Vụ việc thứ 3…………………………………………………………...…11
1. Tóm tắt nội dung vụ việc…………………………………………………11
2. Nội dung giải quyết của đồn Tịa án…………………………………….12
3. Bình luận của nhóm về cách giải quyết của Tịa án…………....………...13
4. Quan điểm và cách giải quyết của nhóm…………………………………13
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………...…14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam. Tập 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009;
17


2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009;
3. Bộ luật dân sự 2005;
4. Bộ luật đất đai 2003;
5. Bộ luật tố tụng dân sự;
6. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm.

18




×