Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

dang lanh dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.97 KB, 26 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA UỶ NHIỆM VÀ ĐẠI DIỆN</b>


<i><b>Sự ủy nhiệm và hoạt động tập thể</b></i>


Quốc hội hoạch định chính sách về những lĩnh vực có nhiều vấn đề đang
phát sinh. Ngân sách của liên bang giành cho chức năng giám sát của Quốc hội đã
tăng từ chưa đầy một triệu USD năm 1789 lên tới hơn một tỷ đô la hiện nay. Tuy
nhiên, các vấn đề thuộc về tổ chức, vấn đề mà đã gây khó khăn cho các thành viên
của quốc hội thứ 101 thì cũng giống như những vấn đề đã gây khó khăn cho các
thành viên của quốc hội đầu tiên. Có rất ít vấn đề được hoàn thành tốt trong quốc
hội mà lại không qua hoạt động tập thể. Nhưng như đã bộc lộ trong các tài liệu bao
quát về lựa chọn xã hội - hoặc qua cách liếc nhanh vào những quy định của con
người - hoạt động tập thể đầy rẫy những khó khăn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

một nỗ lực nào bỏ ra để cung cấp hàng hoá này. Sự lựa chọn cá nhân hợp lý tạo ra
kết quả tập thể bất hợp lý.


Hoạt động tập thể có thể cịn bị cản trở bởi thiếu sự phối hợp (Farrell và
Saloner 1985,1987; Crawford và Haller 1988). Đối lập với nghịch lý tù nhân, là
nghịch lý có những chiến lược quan trọng mang lại sự cân bằng kém hiệu quả
trong khi những tình huống khác buộc cộng đồng phải đối mặt với sự cân bằng có
hiệu quả gấp bội. Các thành viên của cộng đồng khơng biết rõ ràng những gì thuộc
về chiến lược mà các thành viên khác theo đuổi, và vì vậy sự phối hợp có thể sẽ
chẳng bao giờ đạt được kết quả. Một vấn đề phối hợp đơn giản diễn ra khi hai
chiếc ô tô cùng đồng thời tiến vào bãi đỗ. Khơng có người lái xe nào quan tâm cụ
thể tới việc ai sẽ vào trước; cả hai lái xe này đều không nghĩ tới việc tránh sự đụng
độ. Tuy nhiên cái xảy ra thường xuyên là sự căng thẳng thần kinh lúc khởi động
thất bại và sự dừng lại đột ngột khi những người lái xe lái tạo ra con đường riêng
của mình vượt qua những ngã tư. Thậm chí nếu mọi người trong cộng đồng đều có
lợi từ những gì được lựa chọn thơng qua việc xem xét, thì vấn đề phối hợp cịn tệ
hơn khi việc lựa chọn khác nhau sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn cho một số thành
viên có liên quan so với những người khác.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

1977; Rikẻ 1986). Về mặt lý thuyết, những cử tri có thể bảo vệ chính mình thốt
khỏi sự vận động chương trình nghị sự thơng qua hành động có tính chiến lược của
bản thân họ, nhưng các quy trình bầu cử đích thực được sử dụng ở quốc hội và hầu
hết các cơ quan lập pháp khác đều cho phép vận động chương trình nghị sự, thậm
chí cả trong chiến lược bầu cử (Orderhook và Schawrtz 1987). Vận động chương
trình nghị sự có thể đem lại những lựa chọn mà ưu thế của một thiểu số nhỏ các
thành viên làm tổn hại tới đa số. Điều này không chỉ dẫn đến thất bại của hoạt
động tập thể mà có thể cịn đe dọa đến sự tiếp tục tồn tại của chính cộng đồng.


Theo các học giả về quyền tài sản, giải pháp tốt nhất đối với các vấn đề của
hoạt động tập thể là hạn chế tối đa những sự cố của chúng. Những việc được hoàn
thành tốt là do loại bỏ được càng nhiều càng tốt những hoạt động con người trong
lĩnh vực thị trường. Adam Smith từ rất lâu đã lập luận rằng lợi ích của cộng đồng
sẽ được nhận ra tốt hơn thông qua giao dịch thị trường hơn là thơng qua kế hoạch
của thậm chí hầu hết các nhà lập kế hoạch mẫu mực. Nhiều lợi ích xã hội có thể
cịn có được từ hình thức đơn giản của sự nhường nhịn (Axelord 1984). Nhưng ở
đây có nhiều hạn chế đối với kết quả đạt được thông qua thương mại và hợp tác tự
nguyện; hoạt động thiếu sự phối hợp và tính tổ chức sẽ chỉ tạo nên một cộng đồng
ở trình độ như vậy thơi. Ở hầu hết các trường hợp, lợi ích của hoạt động tập thể
được nhận ra thông qua tổ chức. Xét về mặt tổ chức thì hoạt động tập thể là hoạt
động phối hợp có hiệu quả nhất, nghịch lý tù nhân cũng được khắc phục và các
quyết định xã hội có tính ổn định chắc chắn đạt kết quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

về tổ chức đã định nghĩa: tổ chức là một hệ thống trùng lắp hoặc là một mạng lưới
quan hệ chủ/đại diện (Tirole. P.181). Sự uỷ quyền của người chủ cho các đại diện
là chìa khóa của sự phân cơng lao động và phát triển ngành nghề. Lợi ích lớn sẽ
tăng nếu những nhiệm vụ được giao cho những người được đào tạo, có tài và có
thiên hướng để thực hiện chúng. Khi toàn bộ những yêu cầu trên được đưa ra và
thực hiện sẽ cho phép các công ty thu được lợi nhuận, nền kinh tế phát triển và nhà


nước thực hiện được chức năng quản lý.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong những mối quan hệ như thế, người đại diện tìm cách để tối đa hố
những vấn đề từ phía mình đối với những giới hạn và khuyến khích do người chủ
đưa ra. Ngược lại, người chủ tìm cách để thiết lập mối quan hệ với người đại diện
sao cho kết quả thu được thông qua những nỗ lực của người đại diện là cao nhất và
quyết định lựa chọn sự uỷ thác lần thứ nhất. Sau đó sẽ xảy ra một cuộc xung đột tất
yếu về lợi ích của cả hai bên. Trong lĩnh vực kinh tế, xung đột này thường là về
những công sức mà người đại diện đã giành cho cơng việc. Trong lĩnh vực chính
trị, xung đột thường là về đường lối hành động của người đại diện để theo đuổi
mục đích. Chẳng hạn, chương trình nghị sự hoạch định chính sách của các quan
chức hành chính có thể bất đồng với sự khơng thiện cảm của các quan chức được
tuyển cử, là những người giám sát họ (Pertschuk 1982). Kết quả của xung đột về
lợi ích này là người chủ luôn luôn phải chịu một sự suy giảm nào đó về lợi ích của
mình. Thứ nhất, người chủ phải chịu sự tổn thất của việc đại diện do hành vi đại
diện gây ra mà nếu là người khác sẽ phục vụ tốt hơn lợi ích này. Thứ hai, người
chủ phải chịu phí tổn lớn cho những nỗ lực để làm giảm bớt những tổn thất của
việc đại diện. Những tổn thất đại diện có thể lớn hơn những lợi ích có thể thu được
nhờ hoạt động tập thể, hoạt động mà trong trường hợp đó khơng có sự ủy quyền.


Hành vi mang tính cơ hội đó xuất phát từ gốc rễ của vấn đề đại diện là
khơng có cách nào giới hạn được quan hệ chủ/ đại diện. Những cá nhân tham gia
vào các giao dịch thị trường có những khuyến khích tương tự để hành động theo
lối kém phần thanh cao (Kintner 1978). Tuy nhiên ở những hồn cảnh nhất định,
những khuyến khích đó hiện diện ở quan hệ chủ /đại diện sẽ tạo một mơi trường
thích hợp đặc biệt cho chủ nghĩa cơ hội. Ở đây có tình trạng hành động bị ẩn khuất,
thơng tin bị che giấu và những hình thức dễ bị người đứng đứng đầu lạm dụng có
tính chiến lược mà chúng ta đã đề cập đến như là nghịch lý của Madison.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Trong sự đa dạng của quan hệ đại diện, người đại diện vốn có hoặc có được


những thông tin mà đối với người chủ là không sẵn có hoặc là phải chi phí rất lớn
mới có được. Người đại diện có những khuyến khích để sử dụng những thông tin
này một cách bài bản hoặc đơn giản giữ nó trong im lặng - một tình huống liên
quan tới vấn đề phát giác sự thực hoặc sự khuyến khích khơng thích đáng. Trong
một cơng ty, cơng nhân có những thơng tin mà thơng tin đó khơng sẵn có đối với
giám đốc, chẳng hạn như thơng tin về dây chuyền sản xuất có thể chạy nhanh ở
mức nào trước khi làm hợp giao kèo số lượng sản phẩm. Tuy nhiên họ sẽ không để
lộ thông tin này bởi vì họ khơng thích phải làm việc với một tốc độ quá nhanh. Một
loại thông tin khác là thông tin mà người đại diện thường có và người chủ khơng
có đó là kiểu thơng tin về người đại diện (chẳng hạn những thông tin về người đại
diện như là làm việc chăm chỉ hay lười biếng, có tài hay khơng tài, ngại rủi ro hay
biết chấp nhận rủi ro). Vấn đề đa dạng của những thông tin bị che giấu này được đề
cập tới như là một tập hợp khơng thuận, chống đối.


Tình trạng mà người đại diện có được những thơng tin mà thơng tin đó
khơng sẵn có đối với người chủ là phổ biến trong hoạch định chính sách cơng. Cơ
sở lập luận của Niskanent (1971) về vấn đề tại sao giới quan chức chính phủ lại có
được mức ngân sách cao nhất của mình, là vì các quan chức đã giữ kín được những
thơng tin về chi phí vận chuyển dịch vụ, đó là những thơng tin mà các nhà chính trị
được tuyển cử khơng có. Qua các cuộc điều tra, các uỷ ban quốc hội không phát
hiện được những thông tin mà những thông tin đó khơng có sẵn đối với các thành
viên của quốc hội. Tương tự, mỗi cá nhân thành viên quốc hội có những thơng tin
tốt hơn người lãnh đạo đảng quốc hội, vì ủng hộ hoặc khơng ủng hộ vị trí của đảng
có thể gây cho họ những rắc rối khi trở về nhà (Sin Clair 1983).


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đốc công ty thực hiện có vì lợi ích tốt nhất của họ hay không. Các cử tri không thể
nhận biết hết được liệu hoạt động của các đại biểu được lựa chọn - những người
đại diện của họ - có vì lợi ích tốt nhất của họ khơng. Hành động bị che giấu là cực
kỳ khó nhìn thấy trước khi hoạt động của người đại diện chỉ quyết định một phần
kết quả, như trong trường hợp sản xuất của một đội hoặc quyết định của một uỷ


ban, hoặc khi kết quả được quyết định một phần bởi cơ may. Trong những trường
hợp như thế, người chủ không thể luận ra được chính xác hoạt động của người đại
diện, thậm chí ngay cả khi có thể quan sát được kết quả.


<i><b>Nghịch lý của Madison</b></i>


Tranh cải cho việc phân chia quyền lực định rõ trong Hiến pháp mới,
Madison viết trong tác phẩm <i>'người ủng hộ quyền lực của liên bang 51'</i>: "trong
khuôn khổ của một nhà nước bị điều khiển bởi hết người này đến người khác thì
cái khó khăn nhất là phải trước hết làm cho nhà nước kiểm soát được sự quản lý và
sau đó bắt buộc nhà nước phải tự kiểm sốt được chính nó". Các thành viên của
cơng ước Hiến pháp đều tán thưởng mạnh mẽ quan sát của Madison, bất kể quan
điểm của họ về ấn phẩm đã được soạn ra một cách cơ bản như thế nào. Họ đều
nhận thấy rằng theo đạo luật của liên đoàn, Nhà nước liên bang đã khơng được uỷ
quyền đủ mức để hồn thành tốt nhiều việc như thế. Nhưng họ cũng sợ rằng một
nhà nước đủ quyền lực để quản lý có hiệu quả sẽ tất yếu đủ quyền lực để đè nén
họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

hết sức quan trọng khi người đại diện trong lĩnh vực này ở vị trí lãnh đạo. Nghịch
lý của Madison không phải là kết quả của việc người đại diện sử dụng những hành
động bị ẩn khuất hay những thơng tin bị giữ kín, mặc dù những cái này chắc chắn
sẽ làm cho vấn đề xấu đi. Đúng hơn, nghịch lý này xuất phát từ việc người đại diện
khai thác vị trí thuận lợi có tính chiến lược mà họ được đặt vào.


Trong khi tìm cách giải quyết những vấn đề của hoạt động tập thể, các thành
viên của cộng đồng phải có khả năng tiên đốn trước được sự uỷ quyền của mình
cho một đại diện cao nhất. Nếu khơng họ có thể nhận ra rằng thà để cho các vấn đề
của họ tiếp tục tồn tại hơn là chung sống cùng với những giải pháp mà người đại
diện của họ đã đạt được.



<i><b>Người chủ tập thể và người đại diện tập thể</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

như đội sản xuất hay một ủy ban, thì khả năng và sở thích của một người khơng thể
được đánh giá một cách tách biệt riêng lẻ, mà thay vào đó người chủ cần phải xem xét
xem người đại diện mới sẽ hợp tác với các thành viên đang hiện có của đội hoặc của
uỷ ban như thế nào.


Phân biệt giữa các vấn đề của người chủ tập thể và người đại diện là những
vấn đề cụ thể của người chủ và người đại diện. Một người đại diện cố gắng phục
vụ người chủ thật nhiều thường nhận thấy rằng, bất kỳ hoạt động nào anh ta có thể
mang lại lợi ích cho người chủ này đều làm thiệt hại tới người chủ khác. Như Moe
(1984) đã quan sát, các cơ quan đại diện của liên bang bị nhấn chìm bởi các áp lực
đối lập nhau từ chính các thành viên của họ, tổng thống, toà án, khách hàng nhóm
lợi ích cũng như vài uỷ ban quốc hội và các uỷ ban cấp dưới. Thứ hai, khi có
nhiều đại diện thì điều có thể xảy ra là họ sẽ âm mưu chống lại người chủ (Tirole
1986). Điều này có thể xảy ra theo một số cách, chẳng hạn một công nhân, người
làm gián đoạn dây chuyền sản xuất chắc chắn chỉ bị phê phán từ người cơng nhân
làm cùng với mình. Bản chất của lý thuyết "tam giác sắt” hoặc của "nhà nước cấp
dưới" về chính sách cơng là sự thơng đồng giữa hai bộ phận của những người đại
diện - cơ quan đại diện liên bang và các uỷ ban quốc hội mà vẻ bề ngồi quốc hội
là người kiểm sốt chúng - làm suy yếu sự hưng thịnh của cơng chúng nói chung
(người chủ tối cao nhất) hơn là thúc đẩy nó phát triển.


<i><b>Khắc phục những vấn đề của đại diện</b></i>


Những tổn thất của đại điện có thể được hạn chế, nhưng chỉ thông qua việc
thực hiện những biện pháp mà bản thân chúng cũng phải có chi phí. Có 4 loại giải
pháp như thế: (1) thiết kế hợp đồng, (2) cơ chế thẩm tra và lựa chọn, (3) kiểm tra
và báo cáo và (4) sự kiềm chế về mặt thể chế.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Bất kỳ một hợp đồng nào giữa người chủ và người đại diện cũng phải thoả
mãn sự tham gia có giới hạn. Thù lao của người đại diện tối thiểu phải bằng những
chi phí cơ hội của anh ta, nhưng phải ít hơn lợi ích ít ỏi mà người chủ thu được nhờ
hoạt động của người đại diện. Nếu như điều kiện này không được đáp ứng, bên này
hoặc bên kia sẽ không khá hơn khi tham gia vào mối quan hệ đó và họ sẽ từ chối
tham gia. Giả sử rằng giới hạn tham gia được thoả mãn, mục đích của người chủ là
giao nhiệm vụ, và quy định rõ các điều khoản thù lao tương ứng theo cách mà
người đại diện có động cơ phục vụ tốt nhất lợi ích của người chủ. Những hợp đồng
như thế có thể quy định rõ những phần thưởng hoặc hình phạt đặc biệt khi người
đại diện có khả năng làm những việc cực kỳ nguy hại đối với người chủ. Trong
một số trường hợp, đặc biệt khi rất khó phát hiện người đại diện khơng tn thủ đúng chỉ
đạo của người chủ thì hình phạt để bắt buộc sự tn thủ cũng cịn xa mới lớn hơn lợi
ích mà người chủ thu được nhờ sự phục tùng (Holmstrom 1979).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

thang ngày càng nhanh. Trong năm 1982, bệnh viện đã giành được sự chấp thuận
của quốc hội cho một hệ thống mới mà với hệ thống này bệnh viện đã nhận được
một khoản tiền cố định giành cho chữa bệnh dựa vào lời chuẩn đốn có liên quan
đến nhóm (DRG), là nhóm bệnh nhân được chỉ định. Theo đúng thứ tự ngắn hạn,
hệ thống bắt đầu trải qua "sự luồn lót của DRG": người Mỹ già cả đã khơng chống
nổi những bệnh tật có chi phí đắt đỏ ngày càng tăng mà những bệnh tật đó thường
được chuẩn đốn chỉ bằng cơng nghệ y học tiên tiến nhất (và rất đắt).


Vấn đề lợi ích khơng thích đáng trong các điều khoản thù lao có thể được
giảm nhẹ bằng cách giành cho các đại diện có quyền yêu sách cuối cùng về kết quả
đầu ra. Chẳng hạn, khoản thù lao nhận được nhờ các hoạt động phối hợp thường
dưới dạng chia sẻ lợi nhuận hoặc những khoản tiền thưởng khác gắn liền với sự
tiến triển của công ty. Một ví dụ khác về kiểu thoả thuận này là chia sẻ hoa lợi.
Thay vì phải trả một khoản tiền thuê đất nhất định, các chủ đất đã cho người thuê
trả bằng phần trăm số hoa màu thu được. Hợp đồng thù lao kiểu này cũng có thể áp
dụng cho các khu vực công. Trong những thế kỷ trước, Vua Pháp và các Quốc


vương châu Âu đã thu được nhiều nguồn lợi từ "thuế nơng dân". Đó là vì những
người được trao cho quyền thu thuế ở một khu vực cụ thể lâu đến chừng nào họ
còn nộp một lượng tiền thu được vượt trên số đã thoả thuận cho quốc vương. Nhà
nước của Ohio đã thực sự áp dụng phương pháp này trong việc thu các nguồn lợi
vào cuối thời kỳ nội chiến. Quốc gia và thành phố được phép thuê "người điều tra
thuế", người được trao quyền để tìm ra những tài sản có thể đánh thuế nhưng bị
che giấu (thường là cổ phần và tiền gửi ngân hàng) và được trả thù lao tính theo tỷ
lệ phần trăm của mức vượt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

động cơ khơng thích đáng. Trong lĩnh vực chính sách cơng, việc giành cho người
đại diện yêu sách cuối cùng về sản phẩm đầu ra có thể gây ra những hậu quả xấu
riêng biệt. Một sinh viên được hưởng lợi có thể phỏng đốn tại sao thể chế về thuế
nơng nghiệp khơng cịn được ưu đãi như trước. Thậm chí nếu u sách đó là động
cơ để thúc đẩy các công chức nhà nước làm việc thì phần lớn đầu ra của một chính
sách quan trọng hầu như không thể đo lường được. Chẳng hạn, làm thế nào mà
quân đội được ban cho những lợi ích khuyến khích mà những lợi ích đó lại phụ
thuộc vào việc liệu họ đã có một năm tốt hay không.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Cơ chế thử nghiệm và lựa chọn</i>


Một chính sách thuê người làm trước và định mức thù lao sau chẳng làm
được việc gì để xác định được tập hợp không thuận như đã được thảo luận ở trên.
Việc đưa ra một mức thù lao trước chỉ thu hút những ứng cử viên mà chi phí nghề
nghiệp của họ thấp hơn mức đưa ra. Tuy nhiên, đây khơng phải là sự phân tích phê
bình có hại, vì có một số việc có thể tác động đến tập hợp không thuận đơn giản
bằng cách thay đổi những điều khoản của hợp đồng thù lao. Vấn đề đáng chú ý hơn
là những thơng tin lộ ra trong chính hoạt động nghề nghiệp của người đại diện, có
giá trị như nó vốn có, có thể phải chi phí cực kỳ đắt mới có được. Spence (1974) đã
chi tiết hố một vài lý do tại sao lại phải chi phí lớn như vậy để lựa ra được người
đại diện tốt sau khi họ đã được thuê và tại sao phải chi phí cho cả người chủ và


người đại diện để đầu tư thời gian và sức lực cho việc tránh sự phối hợp không tốt
ở bước đầu tiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Trong bối cảnh chia sẻ lợi nhuận làm giảm thiểu những tổn thất đại diện và
những chi phí đại diện, cả hai bên sẽ khôn ngoan hơn nếu người chủ có khả năng
nhận biết được những người có kỹ năng và tài năng thích hợp cùng với những tích
cách cá nhân có thiên hướng cho sự hình thành quan hệ chủ /đại diện. Đầu tư bắt
buộc càng nhiều hơn trong việc quyết định thuê người thì cơ chế thẩm định và lựa
chọn càng trở nên quan trọng hơn. Vì vậy, lập luận của Spence áp dụng thậm chí
nhiều hơn cho lao động ở khu vực công hơn là khu vực tư. Các thành viên quốc hội
được bổ nhiệm vào các uỷ ban không trải qua một thời gian thử nghiệm để xem họ
hồn thành cơng việc như thế nào. Những nhân viên của Bộ nội vụ vì những mục
đích thực tế không thể bị sa thải. Và như Tổng thống đương nhiệm đã chỉ ra trong
cuộc chạy đua để ứng cử lại rằng, các văn phịng nhà Trắng khơng có chỗ cho đào
tạo việc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

hạn như sự xuất hiện đúng giờ cho cuộc phỏng vấn việc làm, sự xuất hiện với
trang phục gọn gàng và thể hiện sự nhiệt thành với công việc.


Cam kết tuyển dụng cũng là một hình thức quan trọng trong lĩnh vực chính
trị. Các ứng cử viên quốc hội, người mà đã làm việc ở các cơ quan được tuyển cử
trước đây thì khả năng được tuyển chọn là cao hơn những người chưa qua cơng
việc. Lý do chính của điều này là ở chỗ, sự hiện diện thành công trước đây của họ
là cái tham gia có hiệu quả, nó chứng tỏ họ là những ứng cử viên có chất lượng cao
(Jacobson và Kernell 1981). Các đảng trong quốc hội cũng có xu hướng khơng đề
cử những người "trong sạch" vào uỷ ban phân bổ ngân sách của hạ viện. Theo
Fenno (1966) là vì những người trong sạch đã khơng ở bên ngoài nhiều đủ để
chứng minh rằng họ là một kiểu người chung thuỷ, là mẫu người làm việc theo
kiểu truyền thống ở uỷ ban - chăm chỉ, được kính trọng và bất kể hệ tư tưởng nào
họ yêu thích miễn là họ đáp ứng được yêu cầu của đảng.



<i>Yêu cầu kiểm tra và báo cáo</i>


Kể từ khi người chủ và người đại diện bước vào mối quan hệ thì cách dễ làm
nhất để loại bỏ những điều kiện cho những hoạt động và thông tin bị che giấu
dường như là thiết lập những quy định yêu cầu người đại diện phải báo cáo tất cả
những thơng tin có liên quan mà họ có được, và bất kể hoạt động nào mà họ thực
hiện. Cuối cùng, những thông tin bị che giấu khơng cịn là bí mật nữa nếu như anh
làm cho người đại diện bộc lộ ra. Trên cơ sở những thông tin mà người đại diện
cung cấp, người chủ có thể ràng buộc thù lao của người đại diện một cách trực tiếp
với cách làm việc thực sự của anh ta. Như trước đây, trong bối cảnh hai bên chia sẻ
lợi ích có được từ sự cắt giảm những tổn thất và chi phí đại dịên, thì cả người chủ
và người đại diện đã tham gia một cách khơn ngoan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

có chí phí này, người cung cấp thông tin sẽ không giành thời gian và sức lực cho
nhiệm vụ mà đáng lẽ phải được thực hiện. Thay vì yêu cầu người đại diện báo cáo
tất cả những thơng tin có liên quan, báo cáo của họ nên ở mức tổng hợp
(coursification) (Demski và Sppington 1987). Điều không may là công việc điều
chỉnh rất khó, người chủ có thể hoặc là đói thơng tin, hoặc và thường xảy ra hơn là
bị chìm ngập bởi q nhiều thơng tin. Hàng trăm triệu đô la đã được đầu tư hàng
năm cho việc thiết kế hệ thống thông tin quản lý đã chứng tỏ cái khó của vấn đề.


Tuy nhiên, trở ngại nặng nề đối với việc yêu cầu báo cáo như đã từng được
đưa ra, đó là vấn đề phát giác sự thật và những lợi ích khơng thích đáng. Người
đại diện có những lợi ích để tơ hồng sự việc, để làm các báo cáo phản ánh thiên vị
về bản thân, hoặc bộc lộ những thơng tin theo kiểu có tính chiến lược khác nào đó.
Một nhân viên có thể phát hiện ra rằng, những năng lượng, kỹ năng và sự sáng tạo
được đề cập trong bản báo cáo về sự tiến triển hàng tuần của mình sẽ mang lại
nhiều kết quả hậu hĩnh hơn là làm việc một cách thực sự. Thậm chí nếu người đại
diện bằng cách nào đó có thể bắt buộc phải trung thực khi báo cáo thì người chủ sẽ


vẫn khơng biết những cái mà người người đại diện khơng báo cáo. Vì những lý do
đó, người chủ bổ sung vào yêu cầu này cái mà McCubbins và Schwartz (1984) đã
đặt biệt danh là "cảnh sát tuần tra" những sơ xuất - đó là kiểm toán, điều tra và
những phương pháp kiểm tra trực tiếp khác. Để có hiệu quả, chính sách kiểm tra
nên được áp dụng một cách bất thường để bảo đảm được yếu tố ngẫu nhiên, bất
ngờ (Kanodia 1985). Kiểm tra trực tiếp có thể tiêu tốn nhiều thời gian và sức lực
của người chủ. Bất kỳ ai đã làm việc ở nhà máy đều có thể nhận thấy một thực tế là
việc giám sát liên tục sẽ hạ thấp giá trị và có thể ăn mịn tinh thần của người giám
sát và người bị giám sát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

cá nhân này có thể được hưởng lợi từ hoạt động của người đại diện, chẳng hạn như
khi một nhân viên cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhân danh người chủ của cơng
ty, hoặc khi các cơng chức hành chính chuyển lợi ích cho các thành viên của khu
vực bầu cử nhân danh các thành viên của quốc hội hoặc của tổng thống, Vì nhóm
ảnh hưởng thứ ba này có những lợi ích để theo dõi và tác động đến hoạt động của
người đại diện, cho nên xuất hiện những cơ hội cho việc giám sát đầy tiềm năng,
chí phí ít và đáng tin cậy hơn "cảnh sát tuần tra". Thay vì kiểm tra mẫu hoạt động
của người đại diện (hoặc một cách điển hình hơn những bản báo cáo của người đại
diện về hoạt động của họ) để tìm kiếm những hoạt động không phù hợp và những
thông tin không đúng, người chủ sẽ có được những thơng tin từ nhóm ảnh hưởng
thứ ba. Điều này McCubbins và Schwartz đưa ra như là sự giám sát của "chuông
cứu hoả".


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Thông thường, người chủ theo dõi hoạt động của người đại diện dễ hơn là
nhóm thứ ba theo dõi. Trong những trường hợp như thế, người chủ có thể cung cấp
cho nhóm thứ ba những phương tiện và khuyến khích để thu thập thơng tin và báo
cáo với anh ta. Một ví dụ có tính phổ biến là một cơng ty đã ghi vào phía sau của
những xe tải của họ số 800 là số mà những người lái xe mơ tơ có thể gọi đến để
thơng báo việc lái xe ẩu của người điều khiển xe. Năm 1874 Nhà nước liên bang đã
giành 25% lượng tiền thu được từ phạt và tước đoạt tài sản cho những người đã


thông báo về sự định giá gian lận của các quan chức hải quan (Studenski và Srooss
1952, tr. 170). Ngày nay một vài cơ quan đại diện của nhà nước liên bang bao gồm
Bộ quốc phòng, Cục thuế quốc tế, Ủy ban an ninh và trao đổi đã áp dụng những
biện pháp tương tự bằng cách lắp đặt những đường dây nóng giả (lừa đảo) và
quảng cáo những phần thưởng giành cho những người "huýt sáo theo còi". Mặc dù
những chương trình như thế có một loạt những vấn đề thuộc về vận hành, nhưng
tác dụng ngăn cản của nó là đáng kể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

thoát khỏi sự chỉ đạo mà nhóm cử tri nịng cốt nhận thấy có thể chống lại. Điều này
làm cho các cơ quan đại diện rất khó ảnh hưởng có chiến lược đến các quyết định
của quốc hội thơng qua việc trình bầy những chuyện đã rồi, đó là một chính sách
mới gắn với những người ủng hộ đã được vận động.


<i>Những kiềm chế về mặt thể chế</i>


Phần lớn những áp dụng về cấu trúc chủ/ đại diện trong lĩnh vực kinh tế nổi
bật lên vấn đề người chủ tìm cách làm cho người đại diện bỏ ra nhiều nỗ lực hơn.
Giả sử là người đại diện làm việc càng chăm chỉ thì càng làm ra nhiều sản phẩm.
Nhưng người đại diện thường ở vị thế làm hại cho chủ nhiều hơn là đơn giản giữ
lại những nỗ lực. Việc biển thủ, buôn bán nội bộ, tham nhũng cơng sở, lạm dụng
quyền lực là tồn bộ những bằng chứng rõ ràng về thực tế này. Bất kể lúc nào
người đại diện cũng có thể có những hành động làm huỷ hoại nghiêm trọng lợi ích
của người chủ. Trong khi người chủ cần phải ngăn cản một cách đơn phương khả
năng người đại diện theo đuổi những kiểu hoạt động như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

chấp thuận của một uỷ ban đặc biệt của trường và sự thơng qua của người có trách
nhiệm quản lý.


Như Madison đã quan sát, tham vọng được kiềm chế tốt nhất bằng tham
vọng - những người đại diện được xếp ở những vị trí chống lại nhau nên có những


lợi ích bù lại. Điều này được thực hiện tốt nhất thông qua việc hình thành thù lao
cho người đại diện phụ thuộc vào nhiều tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn như có thể
thưởng cho giám đốc vì sản xuất tăng nhưng thưởng cho người kiềm chế vì chi phí
giảm. Những kiềm chế cũng có thể áp dụng trong thu thập thơng tin. Thay vì phải
bỏ nhiều nỗ lực để có được những nguồn thơng tin khơng thiên vị, người chủ có
thể làm tốt hơn để có được những bản thơng báo thiên vị từ các đại diện khác nhau,
những đại diện mà có xung đột về lợi ích. Quan điểm cho rằng việc tố tụng nên
thuộc về đối thủ đúng hơn là thuộc về cơ quan nhà nước là dựa trên cùng một
lôgic. Ngược lại, những kiềm chế sẽ bị vô hiệu hố khi lợi ích của những người đại
diện khơng cịn ở tình trạng xung đột.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

hữu dụng mà người chủ rút ra từ hiện trạng đồng thời cũng làm tăng thêm những
mối nguy hiểm do những hoạt động đại diện khơng thích hợp gây ra.


<i><b>Quan hệ chủ/ đại diện và tính thiếu ổn định trong việc thừa kế</b></i>


Tại sao một số phương pháp kiềm chế tổn thất đại diện được chọn và một số
khác lại không được lựa chọn? Trong nhiều trường hợp đó là vấn đề thuộc về tính
khả thi của chúng, những đặc điểm nào đó của hồn cảnh sẽ ngăn cản những
phương pháp khác. Chẳng hạn một giáo sư được giao cho một chức vụ, một thẩm
phán được bổ nhiệm hoặc một thành viên của quốc hội được chỉ định vào một uỷ
ban thì việc bãi nhiệm họ hoặc là thay đổi hợp đồng thù lao là rất khó. Trong
trường hợp này người chủ phải dựa chủ yếu và các quy trình thử nghiệm và lựa
chọn. Sự giám sát của chuông cứu hoả được lựa chọn chỉ khi có nhóm ảnh hưởng
thứ ba với những lợi ích và số tiền cần thiết để thơng báo những hoạt động mà họ
nhận thấy không thoả đáng. Thứ hai, chi phí đắt đỏ của những biện pháp kiểm soát
đại diện ám chỉ rằng, chúng nên được chọn chỉ khi chứng minh được sự cắt giảm
những tổn thất đại diện do chúng đem lại là đủ lớn. Cụ thể, chi phí cơ hội gắn liền
với kiềm về mặt chế thể chế bắt buộc rằng chúng nên được thiết lập chỉ khi những
tổn thất tiềm ẩn của hoạt động đại diện khơng thích hợp là rất lớn. Khi chi phí của


cơ chế kiểm sốt đại diện là q cao, người chủ nên bỏ hoàn toàn việc ủy quyền.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

chỉnh. Vì vậy, sự giống nhau có thể quan sát được giữa các cách sắp đặt thể chế
hiện tại, chẳng hạn như hệ thống cấp bậc trong công ty, chia sẻ chi phí và kết quả
thu được trong thuê đất hoặc các uỷ ban trong ngành lập pháp..., là kết quả của một
hệ thống cạnh tranh, lựa chọn, cách mạng với tiêu chí "tồn tại được". (P.31). Trong
lĩnh vực kinh tế, tiêu chí tồn tại được là sự phát triển thị trường. Những cải cách
mang lợi nhuận kinh tế quan trọng, chẳng hạn như quy mô kinh tế, việc chuyển
những rủi ro tới những người sẵn sàng đương đầu với nó, hoặc là việc giảm chi phí
giao dịch (phần lớn là tổn thất đại diện)... sẽ tồn tại và được nhân lên (Davis và
North 1971).


Tuy nhiên trong lĩnh vực lập pháp, lập luận của Alchian dường như có vấn
đề. Đáng lẽ lựa chọn các hình thức có khả năng làm việc tốt thơng qua cạnh tranh
thị trường thì ở đây lại thay bằng sự thiếu ổn định và không thể dự báo trước của
lựa chọn xã hội. Trong khi đặt ra bất kỳ một lựa chọn thực tế nào, thì luật thắng cử
của đa số hoặc bất kỳ một quy trình ra quyết định xã hội nào khác đều là vô nghĩa;
bất kỳ cái được lựa chọn nào đều có thể bị đánh bại bởi những cái có thể lựa chọn
khác. Nếu như những lựa chọn cân bằng, ổn định xuất hiện chúng phải do những
hạn chế tác động theo cách mà ở đó những lựa chọn được đặt ra để chống đối nhau
(Shepsle 1979). Nhưng nếu như những nhà ra quyết định tự chọn cách sắp đặt này
- cách người ta đã làm ở ngành lập pháp theo luật của đa số, dân chủ, chẳng hạn
như quốc hội Mỹ - và họ đã có tri thức về cái mà những lựa chọn chính sách, sự
sắp đặt cụ thể sẽ tạo ra thì việc lựa chọn sắp đặt thể chế sẽ kế thừa tính thiếu ổn
định hiện có trong sự lựa chọn các kết quả đầu ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Rõ ràng việc bỏ phiếu trước chọn quy trình sử dụng sẽ quay vịng theo cùng một
kiểu để bỏ phiếu cho chính những cái được lựa chọn.


Tuy nhiên, bất chấp vấn đề có tính kế thừa, nhiều nhà khoa học chính trị đã


xây dựng những kiểu mẫu lập pháp mà những kiểu mẫu đó giả định sắp đặt những
thiết chế cụ thể, chẳng hạn một hệ thống các uỷ ban có cấu trúc chuẩn, hoặc quyền
xét xử loại trừ nhau như đã đưa ra (quan điểm về vấn đề này xem Krehbiel). Điều
này giống hệt chiến lược phân tích kinh tế, một chiến lược đã phân biệt "vận hành
ngắn hạn" là những công nghệ, thị trường, công ty và những cái tương tự được quy
vào cố định với "vận hành dài hạn" là những đặc điểm mà chúng tự biến đổi. Vấn
đề ở đây là trong ngành lập pháp khơng có nguồn gốc tự nhiên của các "nan giải",
chẳng hạn như một dây chuyền lắp ráp đang hoạt động hoặc hệ thống phân phối.


Các kiểu uỷ quyền và cơ chế kiểm soát đại diện mà chúng ta đã thảo luận
trong chương này chỉ là những hình thức sắp đặt thể chế khác nhau. Trong việc uỷ
quyền hoạch định chính sách cho một đại diện đối lập với một đại diện khác, hoặc
trong việc lựa chọn một kiểu cơ chế kiểm sốt đại diện thay vì nhiều kiểu khác,
Quốc hội có thể sẽ thay đổi bản chất của chính sách mà rốt cuộc sẽ xuất hiện một
cách có dự đốn. Vì vậy, việc lựa chọn uỷ quyền hoặc cơ chế kiểm soát đại diện
dường như sẽ kế thừa đặc tính thiểu ổn định của lựa chọn xã hội nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

đặt hiện có. Trước hết, trong sự sáng tạo của mình về cơ chế kiểm sốt đại diện,
các thành viên của Quốc hội theo đuổi mục đích khách quan mà mục đích này cịn
lâu mới đạt đến và tốt hơn so với cơ chế hiện có cho việc bầu cử những năm tới.
Tuy nhiên sự cải biến này khơng có nghĩa là đảm bảo cho việc lựa chọn một chính
sách cụ thể mà đúng hơn là ngăn cản một chính sách bị rơi rụng và biến mất do
những tổn thất đại diện. Nhiều cấu trúc về hệ thống uỷ ban và các cơ quan đại diện
hành pháp có thể được phân tích và hiểu như là kết quả của những nỗ lực làm giảm
nhẹ hàng loạt các vấn đề của đại diện. Một nguồn gốc ổn định khác về sở thích đối
với những cách sắp xếp thể chế là một thực tế mà hầu hết các thành viên quốc hội
đã đầu tư một lượng thời gian và năng lực cơ bản cho các thể chế vì hiện thời nó
đang được thiết kế. Họ có lợi ích cá nhân trong một kiểu thiết kế cụ thể, chẳng hạn
kiểu hệ thống cấp bậc, hoặc kiểu lựa chọn chủ tịch của đảng chiếm đa số, mà thiết
kế cụ thể đó chỉ chao đảo một chút bởi cách bầu cử năm tới sẽ diễn ra như thế nào.


Sự đầu tư như thế của những người tham gia vào một thể chế thường tăng cường
sự ủng hộ cho việc tiếp tục tồn tại của nó hơn là trái lại làm cho nó có ý nghĩa. Đây
là sự thật của thậm chí hầu hết các thể chế lố bịch. Những người tham gia trong kế
hoạch Ponzi, ngay cả khi họ nhận thức hoàn tồn được những gì đang diễn ra
nhưng vì có những lợi ích rất lớn nên họ vẫn giữ cho chúng tiếp diễn như thế. Thật
khơng may, đây cịn là sự thật của hầu hết các chế độ vô lý và tàn bạo trong lịch
sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>Dễ dàng nhìn thấy tại sao một thành viên hành động mang tính cá nhân lại</i>
<i>có những lợi ích để hợp tác. Để chống lại những ước muốn của lãnh đạo trong</i>
<i>một tình huống mà ở đó hầu hết các thành viên có ý muốn theo lãnh đạo thì địi</i>
<i>hỏi hoạt động phải có tổ chức liên kết các thành viên với mục đích làm cho những</i>
<i>người có tư tưởng chống đối đạt được kết quả tốt hơn. Một cuộc nổi loạn như thế</i>
<i>phải đối mặt với những vấn đề thông thường của hoạt động tập thể, những hoạt</i>
<i>động đó sẽ trở nên xấu hơn do có sự đối lập của lãnh đạo và những người đi theo</i>
<i>trung thành. (tr.48).</i>


Tóm lại, có một số nguồn gốc của cái "nan giải" về sở thích đối với các cơ
chế kiểm soát đại diện và sự sắp sếp thể chế. Kết quả là sự kiên cố về mặt thể chế ít
nhất cũng gây ra phiền tối cho sự phát triển giống như là sự thiếu ổn định về mặt
thể chế.


<i><b>Sự uỷ thác và giả thuyết rời bỏ quyền lực</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×