Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Tích hợp tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng trong dạy học phần công dân với đạo đức trong chương trình giáo dục công dân lớp 10 qua khảo sát thực tiễn trường thpt thanh bình 1, tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.49 KB, 123 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN HẬU

TÍCH HỢP TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG DẠY HỌC PHẦN
“CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” TRONG CHƢƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC CƠNG DÂN LỚP 10
(Qua khảo sát thực tiễn trƣờng THPT Thanh Bình 1, tỉnh Đồng Tháp)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

ĐỒNG THÁP- 2010


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VĂN HẬU

TÍCH HỢP TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG DẠY HỌC PHẦN
“CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” TRONG CHƢƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC CƠNG DÂN LỚP 10
( Qua khảo sát thực tiễn trƣờng THPT Thanh Bình 1, tỉnh Đồng Tháp)


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MƠN CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÁI SƠN

ĐỒNG THÁP-2010


3

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả luận văn xin được nói lời cảm ơn chân thành tới
thầy giáo TS Nguyễn Thái Sơn – người đã hướng dẫn tận tình để tác giả hồn
thành tốt cơng trình khoa học của mình.
Tác giả luận văn xin được trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy
giáo – cô giáo trong khoa Giáo dục chính trị trường Đại học Vinh, các thầy cô giáo trong khoa Sau đại học của trường Đại học Vinh và trường Đại học
Đồng Tháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình làm luận văn khoa học
của tác giả.
Tác giả xin chân thành cám ơn đến Ban giám hiệu trường THPT Thanh
Bình 1, Tổ Sử-Địa-GDCD trường THPT Thanh Bình 1 đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tác giả hoàn thành luận văn khoa học.
Để hoàn thành cơng trình khoa học của mình, tác giả cịn nhận được sự
giúp đỡ tận tình của gia đình, thầy cơ trường THPT Thanh Bình 1 và bạn bè.
Xin chân thành cám ơn !

Tác giả: Nguyễn Văn Hậu



4

BẢNG QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT

GDCD: Giáo dục công dân
NXB: Nhà xuất bản
MC: Người dẫn chương trình
THPT: Trung học phổ thông


5

MỤC LỤC 1

Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài....................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài...................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................5
6. Đóng góp của luận văn..................................................................................6
7. Kết cấu của luận văn.....................................................................................6
NỘI DUNG……………………………………...............…………………...7
CHƢƠNG 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
TÍCH HỢP TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
1.1.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ............7
1.1.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh………………………………………………………….…………........7
1.1.2.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng……….10
1.2. Sự cần thiết của việc tích hợp tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh Trƣờng THPT
Thanh Bình 1 - Đồng Tháp hiện nay…………..…………………….…....26
1.2.1 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả dạy học mơn
GDCD nói chung và phần “Cơng dân với đạo đức nói riêng”…..….…….26


6

1.2.2. Xuất phát từ yêu cầu thực hiện cuộc vận động và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh……………….……...………..…………..…29
1.2.3. Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay…...…….……………...…...31
1.3 Thực trạng dạy học môn giáo dục cơng dân lớp 10, ở trƣờng THPT
Thanh Bình 1- Đồng Tháp……………..……………………………...….34
1.3.1. Vài nét về Trường THPT Thanh Bình 1- Đồng Tháp……………34
1.3.2 Thực trạng dạy học môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Thanh Bình 1
–Đồng Tháp…………………………………............................…..….… 43
CHƢƠNG 2. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TÍCH HỢP TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG DẠY
HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” TRONG CHƢƠNG
TRÌNH GDCD LỚP 10, TẠI TRƢỜNG THPT THANH BÌNH 1 –
ĐỒNG THÁP.
2.1 Phƣơng hƣớng tích hợp tƣ tƣờng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
trong dạy học phần “ Công dân với đạo dức” trong chƣơng trình GDCD
lớp 10, tại trƣờng THPT Thanh Bình 1 – Đồng Tháp…………….…....54
2.1.1. Xây dựng các chuẩn mực cơ bản về tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ

Chí Minh……………………………………………………...……..…...…54
2.1.2. Qua tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức", nhằm giáo dục học sinh trở thành
người kế thừa xã hội chủ nghĩa vừa hồng” vừa “chuyên”........................56
2.1.3.Qua tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong dạy
học phần “Cơng dân với đạo đức" trong chương trình GDCD lớp 10, nhằm
giáo dục cho học sinh trở thành con ngoan, trò giỏ…..……..………….…60


7

2.2. Các giải pháp nhằm tích hợp tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng trong dạy học phần “cơng dân với đạo đức” trong chƣơng trình
GDCDlớp 10……………….………………………………….…..……..…62
2.2.1. Tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng phù hợp với
nội dung bài học trong dạy học phần “cơng dân với đạo đức” trong chương
trình GDCDlớp 10 tại trường THPT Thanh Bình 1 - Đồng Tháp……..…62
2.2.2. Tổ chức cho học sinh thảo luận tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng phù hợp với nội dung bài học trong giảng dạy phần
“công dân với đạo đức” trong chương trình GDCDlớp 10 tại trường THPT
Thanh Bình 1 - Đồng Tháp……….…………………………...…….…..…84
2.2.3. Tổ chức thi tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
vào trong buổi ngoại khố nội dung mơn học ở lớp 10…………..….……95
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ……………….……………...……...... ….106
1.KẾT LUẬN………………………………...………...………...……….106
2.KIẾN NGHị…………….………..…….……………......……..………..107
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………..………….…………....…………..109


8


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài, là người thầy vĩ đại của
dân tộc Việt Nam, dù đã đi xa nhưng Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta
một di sản tinh thần vô cùng to lớn, những giá trị tư tưởng vô giá, đặc biệt là
tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời Người là tấm gương sáng cho toàn
Đảng, toàn dân ta nguyện phấn đầu suốt đời học tập và noi theo. Hiện nay khi
đất nước ta đang trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ
động hội nhập quốc tế, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là hết sức quan
trọng. Vì tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại, là tài sản tinh thần vô
giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học
tập và noi theo. Vì vậy tồn Đảng, tồn dân ta suốt đời học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 06 - CT/TW về tổ chức
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Mục
đích của cuộc vận động là làm cho tồn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về
những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn
luyện và làm theo tấm gương đạo đức của Người; đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, trong đó có học sinh các trường
THPT.


9

Trong tình hình hội nhập quốc tế ngày nay, sự giao thoa giữa các nền

văn hoá ngày càng được mở rộng. Hội nhập kinh tế ngồi mặt tích cực to lớn
đó cho đất nước, bên cạnh đó cịn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta
cần quan tâm, bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế còn
đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự
do tư sản, làm xói mịn những giá trị đạo đức, thuần phong m tục của dân
tộc. Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh hiện nay có tình trạng suy
thối về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão
lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Học sinh vi phạm
đạo đức ngày càng nhiều, khiến dư luận xã hội lo lắng, ngành giáo dục phải
đau đầu về tình trạng học sinh vơ lễ với thầy cơ giáo, nói tục, trộm cắp, bạo
lực học đường, tham gia vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật xảy ra ngày
càng nhiều, mức độ vi phạm ngày một nghiêm trọng hơn. Trường THPT
Thanh Bình 1, tỉnh Đồng Tháp khơng đứng ngồi thực trạng trên.
Trước tình hình đó, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ cấp
bách, đặc biệt, giáo dục tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là hết sức
cần thiết và đúng đắn nhằm làm cho thế hệ tr v a “hồng” v a “chuyên”,
xứng đáng là người trụ cột thật sự của nước nhà. Điều đó địi h i phải có các
cơng trình khoa học đi sâu vào nghiên cứu để bồi dưỡng giáo dục đạo đức cho
học sinh là nhiệm vụ cấp thiết. Hơn ai hết, là một người giáo viên giảng dạy
môn Giáo dục công dân ở một trường THPT trên quê hương mà mình được
sinh ra và lớn lên, tôi nhận thức r trách nhiệm đặt lên vai của bản thân là
phải xây dựng giải pháp giáo dục đúng đắn, khoa học để nâng cao hơn nữa
chất lượng mơn học nói chung và chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho
học sinh của trường nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Với lí do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: Tích hợp tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng trong dạy học phần “Công dân với đạo đức"


10


trong chương trình GDCD lớp 10 (Qua khảo sát thực tiễn trường THPT
Thanh Bình 1).
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua Đảng ta rất quan tâm đến việc chăm lo giáo dục
đạo đức cho tồn Đảng, tồn dân, trong đó có thanh niên, học sinh. Vì vậy
Đảng có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về việc chăm lo giáo dục đạo đức như: Chỉ
thị số 06 - CT/TW của Bộ Chính Trị khóa X về tổ chức cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 11-HD/TTVH,
ngày 06 tháng 12 năm 2006 của Ban Tư tưởng, Văn hóa Trung ương “Về
hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 06 của Bộ chính trị”; Tài liệu học tập trong
cuộc vận động “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương khóa VII
“Về cơng tác thanh niên với tình hình mới”; Tài liệu phục vụ cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Ban Tư tưởng –
Văn hoá Trung ương “Một số lời dạy và mẫu chuyện về tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”; Tài liệu học tập chủ đề năm 2010 cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Ban Tuyên giáo Trung ương về
“Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự
trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”; Chỉ thị số 2516/CI/BGD
& ĐT ngày 18 tháng 5 năm 2007, “Về thực hiện cuộc vận động và Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”…Những nội dung của Nghị
quyết, Chỉ thị và các tài liệu học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh đã đề cập đến nội dung, nhiệm vụ và giải pháp trong việc giáo dục tư
tưởng đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và học sinh, sinh viên. Ngồi
ra cịn có các cơng trình khoa học nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
như: “Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (2010), Nhà xuất bản


11


Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, của Tiến sĩ Phạm Văn Khánh; “Văn hố đạo
đức Hồ Chí Minh” (2009), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội của Tiến
sĩ Thành Duy; trong quyển “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí
Minh cịn sống mãi” (2008), Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội; bên đó
Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội (2005) cũng đã cho xuất bản cuốn
“Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo đạo đức cách mạng, phong cách
tư duy khoa học Hồ Chí Minh”; “Hồ Chí Minh nói về đạo đức cách mạng” và
một số cơng trình khoa học khác cũng đã nghiên cứu về tư tưởng đạo đức
cách mạng của Hồ Chí Minh, các giải pháp giáo dục tư tưởng đạo đức đến
toàn Đảng, toàn dân ta xã hội hiện nay. Mặc dù có nhiều cơng trình khoa học
đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, nhưng chưa có
cơng trình khoa học nào nghiên cứu việc tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vào dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình lớp 10 ở trường
THPT Thanh Bình 1, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng,
qua đó xây dựng giải pháp để tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng vào trong dạy học phần “Công dân với đạo đức" trong chương trình
giáo dục cơng dân lớp 10, góp phần bồi dưỡng, giáo dục nhân cách, lối sống,
trách nhiệm của công dân cho học sinh trường THPT Thanh Bình 1 - Đồng
Tháp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích về những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng và sự cần thiết trong việc tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng vào dạy học phần “Cơng dân với đạo đức” ở chương trình
GDCD lớp 10.


12


Khảo sát về tình hình dạy và học mơn GDCD của học sinh trường
THPT Thanh Bình 1 - Đồng Tháp.
Một số giải pháp để tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng vào dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10
ở trường THPT Thanh Bình 1.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng như: trung
với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; thương yêu,
quý trọng con người và có tinh thần quốc tế trong sáng.
Tìm hiểu về tình hình đạo đức của học sinh và thực trạng dạy học môn
GDCD ở trường THPT Thanh Bình 1.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: nghiên cứu thực trạng dạy học môn GDCD và tình
hình đạo đức của học sinh trường THPT Thanh Bình 1 – Đồng Tháp, t năm
học 2005- 2010.
Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu thực trạng dạy học môn GDCD
và tình hình đạo đức của học sinh qua khảo sát thực tiễn ở trường THPT
Thanh Bình 1 – Đồng Tháp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh, đề tài tuân thủ quan điểm của giáo dục của Đảng về
phương hướng nghiên cứu, tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng trong giảng dạy môn giáo dục công dân.
Để thực hiện đề tài, tác giả thực hiện một số phương pháp nghiên cứu
sau: phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp lịch sử, phương pháp


13


logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu trắc
nghiệm...
6. Đóng góp luận văn
Đề tài góp phần hệ thống hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng để tích hợp trong dạy học phần “Công dân
với đạo đức” ở chương trình GDCD lớp 10.
Qua đề tài nghiên cứu giúp cho nhà trường có sự đánh giá đúng mức về
thực trạng đạo đức của học sinh; thực trạng dạy học mơn GDCD và những
ngun nhân của thực trạng đó ở trường THPT Thanh Bình 1- tỉnh Đồng
Tháp. Qua đó xây dựng những giải pháp khoa học, hiệu quả trong việc tích
hợp tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong dạy học phần “Công
dân với đạo đức” trong chương trình giáo dục cơng dân lớp 10, góp phần vào
việc bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho các em học sinh trở thành con ngoan,
trị gi i, là cơng dân tốt trong xã hội.
Đề tài cịn góp phần thực hiện Chỉ thị số 06 - CT/TW Bộ Chính Trị về
tổ chức cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” cho học sinh trường THPT Thanh Bình 1.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn được trình bày trong 02 chương.


14

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TÍCH HỢP
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
1.1.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức
cách mạng
1.1.1. Nguồn gốc hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh
Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta, tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh có vai trị hết sức quan trọng trong sự nghiệp
đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc M , đem lại độc lập cho nhân dân
ta. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một vũ khí tinh thần to lớn tiếp thêm
sức mạnh cho tồn Đảng, tồn dân ta khơng ngại khó khăn, gian khổ, thậm
chí phải hi sinh đánh bại những k thù hùng mạnh đem lại nền độc lập cho
dân tộc. Vì sao tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có sức mạnh như vậy, đó là tư
tưởng đạo đức cách mạng của Người đã có sự kết tinh truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam và tinh hoa của nhân loại, mà đặc biệt là tư tưởng đạo
đức của Mác, Ăngghen, Lênin.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn t truyền thống đạo
đức của dân tộc ta, bản chất tư tưởng đó được nảy sinh t một con người cụ
thể ở phương Đơng nói chung và ở Việt Nam nói riêng, nơi của một đất nước


15

có lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước hun đúc nên tình yêu quê
hương đất nước, yêu thương con người, niềm khát khao có được độc lập, có
cuộc sống ấm no hạnh phúc, đồng thời cũng khơng chịu cảnh mất nước nhà
tan, k thù giày xéo. Đó là yếu tố cốt l i đầu tiên hình thành nên nền tảng tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó Hồ Chí Minh cịn kế th a
những tư tưởng đạo đức của phương Đông như: Nho giáo, Lão giáo, và kể cả
Phật giáo... đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin. Như Bác
th a nhận, qua nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin đã giúp tư tưởng

của Bác trở nên khoa học hơn, nó hồn chỉnh hơn và tăng thêm sức sống,
đồng thời góp phần đưa chủ nghĩa yêu nước của Người chuyển sang chủ
nghĩa cộng sản. Khi bàn về nguồn gốc của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh,
Phó Giáo sư Tiến sĩ Thành Duy đã viết “Hồ Chí Minh đã vận dụng hầu như
tất cả những phạm trù và mệnh đề tư tưởng đạo đức của quá khứ vào việc xây
dựng hệ thống tư tuởng đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Trên cơ sở hệ
thống tư tưởng đạo đức cũ đã hình thành hàng nghìn năm nay, Người thực
hiện một cuộc cách mạng về đạo đức, t cuộc cách mạng về đạo đức, Người
xây dựng hệ thống đạo đức cách mạng làm biến đổi căn bản những phạm trù
đạo đức quen thuộc trước đây.” [8; 230]. Qua nghiên cứu tư tưởng về đạo đức
cách mạng của Hồ Chí Minh ta thấy được tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã
tiếp thu và kế th a những truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, kế
th a tư tưởng đạo đức của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng đạo đức của MácLênin. Khi nói về học thuyết Nho giáo của Khổng Tử, Người đã ca ngợi sự tu
dưỡng đạo đức của con người trong xã hội, được thể hiện trong tư tưởng đạo
đức Hồ chí Minh về sự tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân như: trung, hiếu,
nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính... Khi nói về tơn giáo Giê-su, Người đánh
giá cao về sự nhân ái cao cả, yêu thương con người. Trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh được thể hiện ở lòng yêu thương con người, đặc biệt là người


16

cần lao. Khi nói về Tơn Dật Tiên, Hồ Chí Minh ca ngợi học thuyết Tam dân
của Tôn Dật Tiên, điều đó dễ dàng nhận ra ở tư tưởng Hồ Chí Minh khi sử
dụng khái niệm độc lập, tự do, hạnh phúc để làm mục tiêu xây dựng một xã
hội mới, xã hội mà ở đó ai cũng được tự do, hạnh phúc, khơng có người bóc
lột người, nhất là đối với người lao động. Khi nói về chủ nghĩa Mác, Hồ Chí
Minh ca ngợi tính nhân đạo trong học thuyết của Mác- Lênin. Điều đó cho
thấy tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh có sự kế th a đạo đức
truyền thống của dân tộc Việt Nam, của tư tưởng đạo đức Nho giáo, tinh hoa

văn hóa nhân loại, đặc biệt là Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người viết: “Học thuyết
của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
của Giê-su có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ điều muốn mưu
cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hơm nay họ
cịn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống
chung với nhau rất hoàn m như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm
người học trò nh của các vị ấy” [8; 233]. Qua phân tích trên cho thấy Hồ Chí
Minh đã biết chắt lọc ưu điểm của Khổng Tử ở sức mạnh phát triển cá nhân;
của Phật ở lòng t thiện; của Giê-su ở ước mơ hồn thiện con người; của Tơn
Dật Tiên ở các ý tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc và đặc biệt của phép biện
chứng duy vật, phương pháp luận khoa học và nhân sinh quan của cộng sản
chủ nghĩa.
Như vậy tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được hình
thành và phát triển đó là kết quả của sự hội tụ nhiều tư tưởng đạo đức t cổ
đến kim, t Đông sang Tây, t truyền thống của dân tộc đến tinh hoa của
nhân loại. Cho nên khi nói đến tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là kết quả


17

hội tụ của những quan điểm đạo đức tiến bộ của nhân loại, nhưng ở đây
chúng ta không nên lầm tưởng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là sự cộng
sinh của nhiều tư tưởng đạo đức của nhân loại, mà phải hiểu tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh có sự tiếp thu, kế th a của nhiều tư tưởng đạo đức khác nhau
của dân tộc cũng như của thế giới. Đồng thời, với tư duy độc lập sáng tạo
được rút ra t thực tiễn trong hoạt động cách mạng đã hình thành nên tư
tưởng đạo đức cách mạng của Người. Đó chính là sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh trong việc xây nền đạo đức mới cho đất nước, v a có tính truyền thống

tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, v a có có tính hiện đại, tiến bộ của nhân loại.
1.1.2.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thì phẩm chất đạo đức trung với
nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức quan trọng và bao trùm nhất trong tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân là
phẩm chất đạo đức vốn có t xa xưa của đạo đức truyền thống phương Đơng
nói chung và truyền thống đạo đức của Việt Nam nói riêng. Tư tưởng đạo đức
trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh khơng những kế th a những
giá trị t chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh cịn vượt qua những hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền thống đó,
Người đưa vào nội dung đạo đức mới, phù hợp, rộng lớn hơn và sâu đậm tình
người làm cơ sở xây dựng một nền đạo đức mang tính cách mạng, khoa học,
hình thành nên những phẩm chất đạo đức tiêu biểu cho con người Việt Nam
trong thời đại mới.
Trước kia “Trung” là trung thành tuyệt đối với vua, còn “Hiếu” là hiếu
thảo với cha mẹ. Trong khi quan điểm của Hồ Chí Minh “Trung” là trung với
nước, trung thành với lợi ích quốc gia dân tộc, trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của tồn dân chứ khơng của riêng ai


18

và người dân là người chủ của đất nước “bao nhiêu quyền hạn của dân”, “bao
nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”,
Đảng và chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ không phải “quan của nhân dân
để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. Người chỉ r : “Trong bầu trời khơng có gì q
bằng nhân dân...trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, v vang bằng phục vụ lợi
ích cho nhân dân ” [19; 276], “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách
mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết” [23; 439]. Còn “Hiếu” theo quan

điểm của Hồ Chí Minh là khơng những hiếu thảo với cha mẹ mình mà cịn
hiếu với dân, thương dân và hết lòng phục vụ nhân dân, Người viết: “người
kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu
khơng làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hảng chục triệu bố mẹ
người khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vị. Mình khơng những cứu bố
mẹ mình mà cịn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa...Chữ tình,
chữ hiếu, cũng phải hiểu một cách rộng và hiểu như thế mới là đúng” [18; 6061]; “hiếu là hiếu với nhân dân; ta thương cha mẹ ta, mà còn phải thương cha
mẹ người, phải cho mọi người đều biết thương cha mẹ” [16; 640].
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân
được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Đảng, Nhà nước và trong
t ng hành động, suy nghĩ của cán bộ, của đảng viên và mỗi cơng dân. Đó là
lịng u nước thương dân, chăm lo cho dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
Người viết: “Đảng ta Đảng cách mạng. Ngồi lợi ích của nhân, Đảng ta khơng
có lợi ích gì khác”, “chính sách của Đảng và Chính phủ là hết sức chăm nom
đến đời sống của nhân dân” [18; 572]; “chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan
của Chính phủ t tồn quốc đến các làng, đều là cơng bộc của dân, nghĩa là
phải gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời
kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết
sức làm; Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh; Chúng ta phải yêu dân,


19

kính dân thì dân mới u ta, kính ta” [16; 56-57] và ở mỗi cán bộ, đảng viên
phải có bổn phận phục vụ nhân dân, hết lịng gì nhân dân, là sự tin yêu, kính
trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vì nhân dân. Hồ Chí
Minh còn răn dạy và yêu cầu cán bộ, đảng viên: “Việc gì có lợi cho dân thì
gắng sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh" [15; 47]
Hồ Chí Minh khơng chỉ là người xây dựng nên phẩm chất đạo đức
trung với nước, hiếu với dân mà Người còn là tấm gương sáng về lòng tận

trung với nước, tận hiếu với dân. Lòng trung hiếu của người trước sau như
một, được thể hiện r nét nhất đó là hết lịng vì nước, vì dân và hết lịng lo
cho dân. Người viết trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải t biệt thế giới này
tơi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa” [23; 501], cả cuộc đời của Bác khơng lúc nào mà
khơng lo cho dân, vì hạnh phúc của nhân dân. Người viết: “Cả đời tôi chỉ có
một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân.
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xơng pha sự
hiểm nghèo là vì mục đích đó” [15; 240]; “Tơi chỉ có một ham muốn, một
ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành” [15; 161].
Như vậy tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trung với nước hiếu với
dân là tuyệt đối trung thành với với Tổ quốc, với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng và yêu thương nhân dân,
tin dân, phục vụ nhân dân, phải gần dân , dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
1.1.2.2.Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư là mỗt trong những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người, đặc


20

biệt là người cách mạng. Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động
hằng ngày của mỗi người, đặc biệt là của cán bộ, đảng viên.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư gắn liền với nhau và là một biểu
hiện cụ thể của phẩm chất trung với nước, hiếu với dân. Cần, kiệm, liêm
chính, chí cơng vơ tư là những chuẩn mực đạo đức đã tồn tại ở xã hội phong
kiến phương Đơng nói chung, đạo đức truyền thống của Việt Nam nói riêng,

đã được Hồ Chí Minh kế th a có chọn lọc và bổ sung hồn thiện hơn và đảm
tính nhân văn. Người viết “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính nhưng không bao giờ làm mà bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện
làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” [17; 321.
Cần, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là cần cù, siêng năng, chăm chỉ, lao
động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao, khơng lười biếng, khơng ỷ lại,
khơng dựa dẫm vào người khác. Có cần thì có làm việc gì dù khó khăn mấy
cũng làm được. Người viết: “Siêng học thì mau biết; Siêng nghĩ ngợi thì hay
có sáng kiến; Siêng làm thì nhất định thành cơng; Siêng hoạt động thì sức
kho . Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay siêng làm thì hàm siêng
nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước phải cần.
Người siêng năng thì mau tiến bộ; Cả nhà siêng năng thì chắc chắn ấm no; Cả
làng siêng năng thì làng phồn thịnh; Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”
[16; 632]
Cần trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cịn u cầu mỗi con người
trong hoạt động lao động xã hội, khi tham gia các sinh hoạt cộng đồng, địi
h i mỗi người phải có thái độ đúng đối với lao động, lao động tích cực và đạt
hiệu quả cao. Người nói: “Nước ta cịn nghèo. Muốn sung sướng thì phải có
tinh thần tự lực cánh sinh, cần cù lao động. Phải cố gắng sản xuất. Lao động
là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong


21

xã hội ta, khơng có nghề nào thấp kém, chỉ những k lười biếng, ỷ lại mới
đáng xấu hổ” [21; 313]. Người còn cho rằng: mỗi người phải cần, mọi người
đều phải cần, cả nước đều phải cần; làm việc có kế hoạch, tích lũy chun sâu
nghề nghiệp, chun mơn. Thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều; có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Cần cịn là tự lực, tự cường khơng ỷ lại,

dựa dẫm, kiên trì, bền bỉ.
Kiệm, là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, chi dùng của cải, tiền
bạc, khơng xa xỉ, khơng liên hoan lu bù lãng phí thời gian, tiền bạc của cá
nhân, của Nhà nước, của nhân dân. Kiệm khác với bủn xỉn; cái gì đáng chi
phải chi, khơng phơ trương, hình thức. Người nói: “khi khơng nên tiêu xài thì
một đồng thì cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích cho đồng
bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng.
Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ
không phải là kiệm” [16; 637]. Người còn chỉ r phải kiệm đúng lúc, đúng
việc: “Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn
mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất
là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối
khoa học thì tiết kiệm là tích cực, chứ khơng phải là tiêu cực” [17; 485]
Người cịn căn dặn cần, kiệm không tách rời nhau, đi đôi với nhau, có
như thế thì con người phát triển. Người viết: “Cần với kiệm phải đi đôi với
nhau, như hai chân của con người; Cần mà khơng kiệm thì “làm ch ng nào
xào ch ng ấy”,… khơng lại hồn khơng; Kiệm mà khơng cần, thì khơng tăng
thêm, khơng phát triển được ”[ 16; 636].
Liêm, là trong sạch, không tham lam, luôn tôn trọng, giữ gìn của cơng,
của dân, khơng tham ơ, khơng chiếm đoạt dù một đồng xu, hạt thóc của Nhà
nước, của nhân dân, sách nhiễu nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam.
Người viết: “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung


22

sướng. Khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại.
chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ” [16; 252]. Người chỉ r ,
tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên là bất
liêm: “Do bất liêm mà dẫn đến tội ác trộm cắp. Cơng khai bí mật, trực tiếp

hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp” [16; 641]. Hồ Chí Minh cũng đã sớm
cảnh báo về nguy cơ tham nhũng của cán bộ, công chức khi tham gia bộ máy
cơng quyền và Người cịn dặn dị đối với cán bộ phải lấy chữ Liêm làm đầu:
“Những người ở các cơng sở, t làng cho đến Chính phủ Trung ương, đều dễ
tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc kht đục nhân dân... Vì
vậy, những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu” [16; 105]. Hồ
Chí Minh chỉ ra rằng, khơng chỉ có cán bộ, người có chức có quyền mới liêm
mà mọi người phải liêm, cán bộ phải thực hành liêm trước, để làm kiểu mẫu
cho dân. Dân phải biết quyền của mình và kiêm tra, kiểm sốt cán bộ để cán
bộ thực hiện tốt chữ liêm và xử lí nghiêm minh đối với k bất liêm. Người
dạy “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, khơng chịu đút lót, thì “quan”
dù khơng liêm cũng phải hố ra Liêm. Vì vậy dân phải biết quyền hạn của
mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm. Pháp
luật phải thẳng tay tr ng trị những k bất liêm, bất kỳ k ấy ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì” [16; 641].
Chính, nghĩa là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì khơng
đứng đắn, thẳng thắn là tà. Theo tư tưởng của Người trong xã hội có hàng
trăm cơng ngàn việc. Song những cơng việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc
chính và việc tà. Làm việc Chính là người thiện. Làm việc Tà là người ác.
Siêng năng tần tiện, trong sạch là chính, là thiện. lười biếng xa xỉ, tham lam là
Tà, là Ác. Chính bao gồm trong các cơng việc, biểu hiện trong các quan hệ.
Phải thường xuyên tự sửa mình để tăng điều tốt, giảm điều xấu. “Việc thiện


23

dù nh mấy cũng làm. Việc ác dù nh mấy cũng tránh... Mỗi ngày cố làm một
việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình)” [16; 645].
Hồ Chí Minh khơng chỉ giải thích nội dung về Cần, kiệm, liêm, chính
mà Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng Cần, Kiệm, Liêm, Chính có mối quan hệ mật

thiết với nhau, không tách rời và một người không thể thiếu một trong bốn
phẩm chất trên thì chưa thành người đúng nghĩa. Người nói: “Trời có bốn
mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng; Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc;
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính; Thiếu một mùa, thì khơng thành
trời; Thiếu một phương, thì khơng thành đất; Thiếu một đức, thì khơng thành
người” [16; 631].
Chí cơng vơ tư, theo Hồ Chí Minh là một chuẩn mực đạo đức phải được
gắn với cần, kiệm, liêm, chính. Chí cơng là rất mực cơng bằng, cơng tâm, cịn
vơ tư là khơng được có lịng riêng, thiên tư, thiên vị: “tư ân, tư huệ, hoặc tư
thù, tư ốn”. Theo Hồ Chí Minh thì chí cơng vơ tư đối với cán bộ cịn hết lịng
vì dân, lo cho dân được ấm no hạnh phúc, cho dân vui sướng, không nghĩ tư
lợi cho bản thân. Người viết: “khi làm bất cứ việc gì cũng đ ng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lịng mình chỉ biết vì Đảng,
vì Tổ quốc, vì đồng bào” “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” [21; 118].
Người cịn cho rằng muốn thực hiện chí công vô tư phải kiên quyết quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân là k thù
gian xảo, nó khéo dụ dỗ để con người xuống dốc. Nó là thứ vi trùng rất độc
hại. Nó đ ra hàng trăm thứ bệnh như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ơ,
lãng phí, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại ... Người
viết: “Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình,
khơng quan tâm đến lợi ích riêng của tập thể “miễn là mình béo, mặc thiên hạ
gầy”. Nó là mẹ đ cho mọi tính hư nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng,
kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ơ.v.v... Nó là k thù hung ác của đạo đức


24

cách mạng, chủ nghĩa xã hội” [21; 306]. Đây là chuẩn mực của người lãnh
đạo, người “giữ cán cân công lý” khơng được vì lịng riêng mà chà đạp lên
chân lí, mà phải có cơng tâm, cơng đức. Việc gì cũng phải cơng bình, chính

trực, khơng nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Phải trung thành với
Chính phủ, với đồng bào, chớ lên mặt làm quan cách mạng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là đức tính rất quan trọng của
mỗi người, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên. Vì cán bộ, đảng viên là công
bọc của dân và là đầy tớ trung thành tuyệt đối với nhân dân, tức là trung thành
với Tổ quốc, với nhân dân.
1.1.2.3. Yêu thương con người
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh về lịng u thương con người là
một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp của Hồ Chí Minh. Đó chính là
sự kế th a truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại, và cùng với sự trải
nghiệm của bản thân mình qua hoạt động cách mạng của Người.
Tình yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
khơng phải là lịng t bi, bác ái mơ hồ, chung chung, càng khơng phải là lịng
thương người của người đứng trên nhìn xuống. Lịng u thương con người
của Hồ Chí Minh là sự thơng cảm sâu sắc đối với con người, đặc biệt là người
nghèo khổ, những người bị mất quyền dân chủ, những người bị áp bức, bóc
lột, người cần lao.
Trong tồn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
khơng lúc nào không nghĩ đến dân, lo cho dân, lo cho nước. Đó là tư tưởng
xuyên suốt, là đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh chúng ta thấy r sự yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì
nước của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời khơng
có gì q bằng nhân dân, trong thế giới khơng có gì mạnh bằng đồn kết nhân


25

dân, trong xã hội khơng có gì v vang tốt đẹp bằng phục vụ nhân dân” [19;
276]. Tình u đó cịn được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng sự ham muốn tột

bậc là làm cho nước nhà được độc lập, được tự do, mọi người ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh viết: “Tơi chỉ có một ham
muốn, một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành” [15; 161]. Hồ Chí Minh ln ln coi trọng con người, ln q
trọng con người, kính trọng và tin tưởng nhân dân. Người viết: “Chúng ta
phải yêu dân, kính dân thì dân mới u ta, kính ta” [15; 57]. Hồ Chí Minh cịn
ln nhắc nhở cán bộ phải lấy hạnh phúc của nhân dân làm trọng: “Việc gì có
lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [15;
47]. Tình yêu thương của Người còn được thể hiện đối với những người có
sai lầm, khuyết điểm, phải có lịng bao dung của một một con người với con
người, tạo cơ hội cho họ sửa sai khi mắc phải. Bác viết : "Mỗi con người đều
có thiện và ác ở trong lịng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, t hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho
cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ khơng phải đập
cho tơi bời" [23; 558], cịn đối với những người đã lầm đường lạc lối, Hồ Chí
Minh cũng t r sự khoan dung, độ lượng: “Năm ngón tay cũng có ngón
ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục
triệu người, cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều
là dòng d i tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng,
đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lịng ái quốc . Đối với
những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. có


×