Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.77 KB, 22 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Bản thân tơi sẽ trình bày tổng hợp một số kinh nghiệm về phương pháp
đặt câu hỏi trong giảng dạy văn - thơ. Tơi kì vọng qua bài sáng kiến này, một
số đóng góp nhỏ bé của tơi sẽ góp phần làm phong phú hơn cho các giờ dạy
văn, đồng thời giúp các em học sinh có tính tích cực tự giác hơn trong học
tập. Giúp các em lĩnh hội được kiến thức một cách dễ dàng, dễ hiểu.
Như chúng ta đã biết là một giáo viên đứng lớp trực tiếp dạy môn Ngữ văn
lớp 7, tôi thấm nhuần tư tưởng nói trên để vận dụng vào bài giảng của mình và
tổng hợp một số ý kiến về một vài:“Kinh nghiệm về phương pháp đặt câu hỏi
trong giảng dạy văn và thơ trong chương trình ngữ văn 7 học kì I’’ . Để các
em hiểu sâu, rộng hơn và nhận thức, thể hiện được sự tưởng tượng đa dạng và
phong phú.

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1


1.1 Cơ sở lí luận:
Q trình dạy học trên lớp là một hình thức lao động thực sự. Để có một
giờ học tốt đạt hiệu suất cao đòi hỏi người giáo viên phải dồn hết tâm trí và tâm
sức để làm việc và đây cũng là mục đích tất yếu của người lao động. Nâng cao
hiệu suất giờ dạy là mục đích nguyện vọng của mỗi giáo viên.
1.2 Cơ sở thực tiễn:
Trong nhà trường THCS, môn văn là một trong những môn chiếm tỉ lệ cao
trong số các tiết học, là mơn vừa có nội dung nghệ thuật vừa có nội dung khoa
học như bất kì bộ mơn văn hóa nào khác. Có thể nói mơn văn là mơn quyết định
một phần lớn con đường đi đến thành công của mỗi học sinh. Khơng phải ngẫu
nhiên trong các kì thi tốt nghiệp hay Đại học, mơn văn ln có mặt. Do vậy “dạy
văn thực chất là dạy cách làm người”
Thực tế cho thấy, học sinh THCS hiện nay nói chung chưa thực sự hứng


thú với nhiều bài giảng văn, thậm chí cịn khơng thích học văn. Lỗi này có phần
khơng nhỏ là do các thầy cô chưa khơi dậy được hứng thú cho các em, tình trạng
này khơng chỉ xảy ra ở một lớp, một trường mà rất nhiều trường. Điều đó khơng
chỉ ảnh hưởng đến kết quả học tập của riêng môn Ngữ văn mà của tất cả các
môn học khác.
Xuất phát từ vị trí, bản chất của bộ môn, từ thực tiễn giảng dạy và học tập
môn Ngữ văn trong nhà trường THCS, trong nhiều năm gần đây, việc dạy văn và
học văn đã có nhiều cải biến. Hầu hết các trường đã và đang áp dụng phương
pháp dạy văn mới của giáo sư Phan trọng Luận – một trong những phương pháp
nhằm nâng cao hiệu suất trong giờ giảng dạy văn, đó là phương pháp “Đặt hệ
thống câu hỏi”.
Tất cả những nhận định trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài nghiên cứu là:
“Kinh nghiệm về phương pháp đặt câu hỏi trong giờ giảng dạy văn và thơ
trong chương trình Ngữ văn 7 học kì I”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua báo cáo tơi muốn góp một số ý kiến nho nhỏ vào việc cải tiến phương
pháp giảng dạy văn, để“giờ văn trở thành giờ hấp dẫn, sôi nổi, đầy hứng thú và
đem lại những hiệu quả tốt” với học sinh .
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2


Xuất phát từ nhận thức trên ta thấy: Việc giảng văn trong nhà trường
THCS muốn có hiệu suất cao thì giáo viên cần phải soạn thảo một hệ thống các câu
hỏi thật tối ưu. Hệ thống câu hỏi này sẽ chi phối chủ yếu tới thành cơng của bài
giảng. Đó là hệ thống những câu hỏi chính xác, rõ ràng mang màu sắc văn học, có
khả năng khơi gợi những tình cảm xúc động thẩm mĩ với học sinh. Vì vậy để
nghiên cứu đề tài này tôi tập trung vào đối tượng chủ yếu là hệ thống câu hỏi trong
các giờ giảng văn, dựa trên nền tảng chủ yếu là những kinh nghiệm và phương pháp
của các thầy cô giáo.

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành báo cáo này, đúng với đối tượng nghiên cứu trên, Tôi tập
trung khảo sát qua hai tác phẩm tiêu biểu cho hai thể loại. Đó là truyện ngắn “Cuộc
chia tay của những con búp bê” (Khánh Hoài) và bài thơ “Tiếng gà trưa” (Xuân
Quỳnh) trong chương trình Ngữ văn 7 học kì I.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề tài này, tôi hướng đến một số nhiệm vụ cơ bản là trình bày
tổng hợp những kinh nghiệm của các thầy cô giáo dạy Ngữ văn trường PTDTBT
THCS Giáp Trung về phương pháp đặt câu hỏi trong các giờ giảng dạy văn và thơ.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hồn thành báo cáo này, tơi đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu như:
- Phương pháp so sánh hệ thống
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp thống kê…và nhiều phương pháp khác.

PHẦN 2: NỘI DUNG
3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA THỰC TIỄN
Trong các giờ giảng văn, các câu hỏi đàm thoại về một bài văn, một tác
phẩm văn học được phân loại theo các hình thức khác nhau: có thể dựa vào tiến
trình lên lớp, theo yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng, theo nội dung hay tính chất
các câu hỏi. Tuy nhiên, các câu hỏi đàm thoại, phát vấn cần đảm bảo một số tiêu
chuẩn khoa học nhất định:
- Ngồi tính chất rõ ràng, chính xác cịn cần phải có màu sắc văn chương,
có khả năng khơi gợi tình cảm xúc động thẩm mĩ cho học sinh.
- Các câu hỏi không tùy tiện mà phải được xây dựng thành hệ thống logic.

Có thể có nhiều cách diễn đạt ( diễn dịch hay quy nạp) nhưng đều nhằm cung
cấp cho hoc sinh một hệ thống những kiến thức vững chắc.
- Các câu hỏi đặt ra nhìn chung phải căn cứ vào nội dung và hình thức
nghệ thuật của tác phẩm nhằm làm cho học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản.
- Ngoài ra cũng có thể có những loại câu hỏi nằm ngồi nội dung và nghệ
thuật tác phẩm nhưng nhằm mục đích giúp học sinh hiểu sâu hơn ý nghĩa tác
phẩm.
Trong giờ giảng văn sẽ có rất nhiều câu hỏi đa dạng và phong phú, nhưng ta
cũng có thể qui các câu hỏi đó thành hai loại cụ thể sau:
- Câu hỏi gợi mở cụ thể
- Câu hỏi tổng quát khái quát
Trong quá trình giảng dạy, loại câu hỏi tổng hợp chủ yếu nhằm tìm hiểu
tác phẩm có tính chất nghiên cứu văn học.
Loại câu hỏi cụ thể nhằm khơi gợi hoạt động tự bộc lộ và đồng sáng tạo
của học sinh. Những câu hỏi loại này có thể ở một số dạng sau:
- Em hãy tưởng tượng…
- Nếu vẽ tranh minh họa thì em sẽ vẽ như thế nào? Chú ý những nét gì?
- Nếu có một người sắm vai ( X ) trên sân khấu, em sẽ dặn dò họ như thế
nào?
- Trong tác phẩm em thích nhất chi tiết nào? Đoạn văn? Câu văn nào?
Nhân vật nào? Vì sao?
- Nếu đặt lại tên cho tác phẩm em sẽ đặt như thế nào?...

4


Đó là những dạng câu hỏi rất lí thú nhưng không phải bài nào cũng áp
dụng được. Muốn bài dạy có hiệu quả cao, hệ thống câu hỏi phải có sự liên kết
hài hòa giữa thầy và trò và với nội dung bài học. Đặc biệt người thầy phải hết
sức thận trọng tránh tình trạng lan man, làm sai lạc thông tin.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trước đây, trong các giờ giảng văn, người thầy thường chỉ hỏi khoảng bốn
đến năm câu hỏi, dường như đã quá quen thuộc với học sinh là: Em hãy nêu đại
ý? Bố cục ? chủ đề của tác phẩm?
Giờ đây, việc tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm và bộc lộ nhân
cách sẽ không thể thực hiện được với một số lượng câu hỏi và với cách hỏi như
vậy! Vậy thì, vấn đề đặt ra là: cần hỏi những gì? hỏi như thế nào? hỏi ra làm
sao? trong giờ giảng văn. Vấn đề này đã có nhiều ý kiến bàn luận. Song cho đến
hơm nay nó vẫn cịn là vấn đề cần tiếp tục làm sáng rõ.
Phương pháp giảng văn mới có chú trọng hỏi nhiều hơn. Song làm thế nào
để tránh lạm dụng, hỏi quá nhiều, và lan man vụn vặt? Trong thực tế giảng dạy ở
nhiều trường THCS, nhiều giáo viên thí nghiệm kiểu giờ dạy đàm thoại, phát
vấn, gợi mở bằng một hệ thống câu hỏi, nhưng hình như người dạy ln ln
cảm thấy thất bại chờ sẵn bên mình, học sinh hoạt động rất nhiều nhưng hiệu quả
đem lại khơng đáng kể.
Ngun nhân chính là do chất lượng các câu hỏi. Theo ý kiến cá nhân tôi,
trong các giờ giảng văn, bằng phương pháp gợi mở, qua hệ thống các câu hỏi
người giáo viên tổ chức các hoạt động nhóm, đưa ra các câu hỏi gợi ý, tranh
ảnh... song song giữa thầy và trò để từng bước đi sâu khám phá tác phẩm.
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP
1. NỘI DUNG
Từ cơ sở lý thuyết và sáng kiến như trên, trong chương này tơi xin trình
bày việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm đó trong thực tiễn giảng dạy hai tác
phẩm tiêu biểu cho hai thể loại, đó là truyện ngắn “Cuộc chia tay của những
con búp bê” (Khánh Hoài) và bài “Qua Đèo Ngang” (Bà Huyện Thanh Quan)
trong chương trình Ngữ văn lớp 7 tập 1.
1.1 TRUYỆN NGẮN “CUỘC CHIA TAY CỦA NHỮNG CON BÚP BÊ ”
CỦA KHÁNH HOÀI.
Để giúp học sinh nắm được:
5



- Thấy được những tình cảm chân thành, sâu nặng của hai anh em
trong truyện. Cảm nhận được nỗi đau đớn xót xa của những bạn nhỏ chẳng
may rơi vào hồn cảnh gia đình bất hạnh. Biết thơng cảm và chia sẻ với
những người bạn có hồn cảnh khó khăn và bất hạnh.
- Cảm nhận được cái hay của truyện là ở cách kể rất chân thành và cảm
động. Trong khi giảng dạy truyện ngắn, chúng ta có thể sử dụng hệ thống các
câu hỏi gợi mở cụ thể và các câu hỏi khái quát tổng hợp sau:
1.1.2. Để giảng dạy phần tóm tắt, chúng ta có thể gợi dẫn học sinh các câu hỏi
như:
CH: Từ “Chia tay” trong nhan đề có ý nghĩa là gì? ( Câu hỏi gợi mở cụ thể )
TL: Từ “Chia tay” là động từ, rời nhau, mỗi người một nơi, cắt đứt quan hệ tình
cảm, thường là tình yêu, tình vợ chồng.
CH: Em hiểu gì về nhan đề "cuộc chia tay của những con búp bê" ? ( Câu hỏi
gợi mở cụ thể )
TL: Búp bê là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng cũng có tình cảm giống con
người. Vậy mà trong chuyện này chúng lại phải chia tay nhau.
CH: Truyện ngắn có mấy nhân vật? Nhân vật nào là nhân vật chính? (Câu hỏi
gợi mở cụ thể )
HS: Truyện ngắn có bốn nhân vật. Thủy và Thành là nhân vật chính.
CH: Trong tác phẩm có bao nhiêu sự việc, tình tiết chính? ( Câu hỏi gợi mở cụ
thể)
HS: Các tình tiết chính là:
- Tâm trạng của hai anh em Thành và Thủy trong đêm trước và sáng hôm sau khi
mẹ giục chia đồ chơi.
- Thành đưa Thủy đến lớp chào chia tay cô giáo và các bạn.
- Cuộc chia tay đột ngột ở nhà.
Trên cơ sở những gợi ý này, học sinh sẽ tự tóm tắt được câu chuyện.
1.1.3 Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu hai anh em và những cuộc chia tay,

giáo viên có thể nêu câu hỏi gợi mở và tổng hợp sau:
CH: Thành và thủy được minh họa bằng những cuộc chia tay nào?( Câu hỏi gợi
mở cụ thể )

6


HS: 3Cuộc chia tay đó là chia tay đồ chơi, chia tay thầy cô và bạn bè, chia tay
nhau.
a.Hai anh em Thành, Thuỷ chia đồ chơi
* Hoàn cảnh chia đồ chơi
CH: Búp bê có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống của hai anh em Thành
Thuỷ?
( Câu hỏi gợi mở cụ thể )
TL : Búp bê là đồ chơi thân thiết, gắn liền với tuổi thơ của hai anh em, hai
con Vệ sĩ và Em nhỏ luôn ở bên nhau chẳng khác nào anh em Thành, Thủy.
CH: Hai anh em chia đồ chơi trong hoàn cảnh nào? ( Câu hỏi khái quát nâng
cao)
TL: Bố mẹ ly dị, hai anh em phải xa nhau. Búp bê cũng phải chia đôi theo
lệnh của mẹ.
*Tâm trạng hai anh em
CH: Tìm những chi tiết biểu hiện tâm trạng của hai anh em khi chia đồ chơi?
(Câu hỏi gợi mở cụ thể)
TL:
+ Thuỷ: Mắt tuyệt vọng, buồn thăm thẳm, khóc nhiều, Thuỷ như người mất
hồn
+ Thành:Cắn chặt mơi để tiếng khóc khơng bật to, nước mắt cứ tuôn ra như
suối, ướt đẫm cả gối và hai cánh tay áo."Sao tai hoạ giáng xuống đầu anh em
tơi nặng nề như thế này!"
CH: Em có nhận xét gì về tâm trạng của Thành - Thủy? (Câu hỏi tổng hợp nâng

cao)
TL: Tâm trạng buồn khổ, đau xót, bất lực.
CH:Tâm trạng của hai anh em giúp người đọc cảm nhận điều gì trong khi cuộc
sống xung quanh vẫn tươi đẹp? (Câu hỏi khái quát nâng cao)
TL: Người đọc hiểu được nỗi đau, sự mất mát đổ vỡ quá lớn khi gia đình tan
vỡ trong khi cuộc sống xung quanh vẫn tươi đẹp. Chúng ta xót thương hai em
nhỏ không được chung sống yêu thương trong một mái ấm gia đình.
CH: Trong nỗi bất hạnh tuyệt vọng đó thì kỉ niệm nào đã hiện về ? (Câu hỏi gợi
mở cụ thể)
7


TL:Kỷ niệm hồi học lớp 5 hiện về:
+ Em mang kim chỉ ra sân vận động vá áo cho anh
+ Anh giúp em học bài, đón em, hai anh em năm tay nhau vừa đi vừa
trò chuyện.
+ Em bắt con Vệ sĩ gác cho anh ngủ
CH: Qua những chi tiết đó em thấy tình cảm hai anh em như thế nào? (Câu hỏi
khái quát tổng hợp nâng cao )
TL: Hai anh em luôn quan tâm, gần gũi, thương yêu nhau vô hạn, luôn thông
cảm, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau
CH: Lời nói và hành động của Thủy khi thấy anh chia hai con búp bê Vệ Sĩ và
Em Nhỏ ra hai bên có gì mâu thuẫn? Theo em, có cách nào giải quyết mâu thuẫn
này không? (Câu hỏi tổng hợp nâng cao )
TL: Mâu thuẫn ở chỗ một mặt Thủy rất giận dữ không muốn chia rẽ hai con búp
bê, nhưng mặt khác em lại rất thương Thành, sợ đêm khơng có con Vệ Sĩ canh
giấc ngủ cho anh. Để giải quyết mâu thuẫn này chỉ cịn cách gia đình Thủy,
Thành phải đồn tụ thì hai anh em mới khơng phải chia tay nhau.
CH: Em sẽ làm gì khi bạn em rơi vào hoàn cảnh như Thành - Thuỷ? (Câu hỏi
tổng họp nâng cao)

TL: Cảm thông với số phận bất hạnh của bạn. Em sẽ động viên, chia sẻ và
giúp bạn để bạn vượt qua nỗi bất hạnh đó.
b. Hai anh em đến trường chia tay cô giáo và bạn bè
CH: Em hãy tìm chi tiết miêu tả cuộc chia tay của Thuỷ với lớp học? (Câu hỏi
gợi mở cụ thể)
TL: - Im lặng, đăm đăm nhìn khắp sân trường
- Khóc thút thít
- Em khơng được đi học nữa
- Ra chợ bán hoa quả
- Cô giáo tái mặt, nước mắt giàn giụa
CH: Tại sao khi đến trường học, Thủy lại bật lên khóc thút thít ?(Câu hỏi gợi mở
cụ thể)
TL: Thủy thậý mình bất hạnh, em đau đớn vì gia đình tan nát, nuối tiếc những kỷ
niệm ấu thơ, những ngày hạnh phúc được sống với cha mẹ, được cắp sách đến
8


trường cùng các bạn. ánh mắt đau đớn, tiếng khóc nức nở như khắc sâu vào lòng
người đọc.
CH: Chi tiết nào trong cuộc chia tay làm cơ giáo bàng hồng? Chi tiết nào nào
làm em cảm động nhất? Vì sao? (Câu hỏi gợi mở cụ thể)
TL: Thủy cho biết: Em sẽ không được đi học nữa, do nhà bà ngoại xa trường
quá, nên "mẹ bảo sẽ sắm cho em một thúng hoa quả để ra chợ ngồi bán". Chi
tiết cảm động nhất là cô giáo Tâm tặng cho Thủy quyển vở và cây bút máy
nắp vàng và cũng có thể là chi tiết sau khi nghe Thủy cho biết không được đi
học nữa. Cô Tâm thốt lên: "Trời ơi! cô giáo tái mặt và nước mắt giàn giụa"
CH: Tại sao khi dắt em ra khỏi trường, Thành lại kinh ngạc thấy mọi người
vẫn đi lại bình thường và nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật? (Câu hỏi
tổng họp nâng cao)
TL: Cảm nhận được sự bất hạnh của hai anh em. Cảm nhận được sự cơ đơn

của mình trước sự vơ tình của người và cảnh.
CH: Em có nhận xét gì về cách miêu tả tâm lý nhân vật ở đoạn truyện này?
(Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Tác giả miêu tả diễn biến tâm lý rất chính xác, nó làm tăng nỗi buồn sâu
thẳm, trạng thái tuyệt vọng, bơ vơ, lạc lõng của nhân vật trong truyện.
c. Hai anh em Thành - Thuỷ lúc chia tay
CH: Cuộc chia tay diễn ra như thế nào? (Câu hỏi khái quát tổng hợp)
TL: Rất đột ngột
CH:Tâm trạng của Thành - Thuỷ diễn tả qua chi tiết nào trong đoạn văn? (Câu
hỏi gợi mở cụ thể)
TL:Thủy-> như người mất hồn, mặt tái xanh, nhường búp bê, khóc nức nở,
dặn dị.
Thành-> khóc nấc, mếu máo.
CH: Kết thúc truyện Thủy đã lựa chọn cách giải quyết như thế nào cho vấn đề
chia tay của những con búp bê? (Câu hỏi gợi mở cụ thể)
TL: Thuỷ trả lại anh con Vệ sĩ, nhường anh con Em Nhỏ để chúng không bao
giờ xa nhau
CH: Cách giải quyết như vậy gợi lên trong em suy nghĩ và tình cảm gì?(Câu
hỏi tổng hợp nâng cao)
9


TL: Lòng thương cảm với Thuỷ, một em bé giàu lòng vị tha, vừa thương anh,
thương cả những con búp bê, thà mình chịu chia lìa chứ khơng để búp bê phải
chia tay, thà mình chịu thiệt thịi để anh có con Vệ Sĩ canh giấc ngủ đêm đêm.
CH: Nhan đề câu chuyện "Cuộc chia tay của những con búp bê" xong những
con búp bê có phải chia tay khơng? Ai phải chia tay? Thủy để con Em Nhỏ
cạnh con Vệ sĩ nhằm gửi gắm điều gì? (Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Thực chất hai con búp bê Vệ Sĩ và Em Nhỏ không phải chia tay nhau đây là
một cách tạo tình huống bất ngờ, hấp dẫn lại phù hợp với tâm lí trẻ em rất thích

chơi búp bê. Thành và Thủy phải chia tay nhau. Ước mơ không phải xa anh,
được cùng anh chung sống dưới một mái ấm gia đình.
CH: Truyện ngắn này có thể có những nhan đề nào khác nữa không? (Câu hỏi
khái quát tổng hợp nâng cao)
Câu hỏi này giúp học sinh hiểu sâu hơn về truyện ngắn. Vì nhan đề thường bộc
lộ chủ đề tác phẩm. Cũng có thể có những tác phẩm không thể đặt tên khác
được.
TL: Một số nhan đề khác như: "Hai anh em"," Những cuộc chia tay".......
Trên đây là hệ thống câu hỏi gợi mở cụ thể và tổng hợp khái quát giúp học sinh
tìm hiểu và nắm vững kiến thức cơ bản của truyện ngắn “Cuộc chia tay của
những con búp bê” trong tiết 3,4 (Theo phân phối chương trình)
1.2. BÀI THƠ “QUA ĐÈO NGANG” CỦA BÀ HUYỆN THANH QUAN
Hình dung được cảnh tượng Đèo Ngang, tâm trạng cô đơn của Bà
Huyện Thanh Quan lúc qua đèo- nỗi buồn, cô đơn, nhớ nước, thương nhà
thăm tẳm như thấm cả vào cảnh vật trong lời thơ trang nghiêm, đài cát. Nghệ
thuật tả cảnh, tả tình độc đáo trong văn bản. Chúng ta có thể sử dụng hệ thống
các câu hỏi cụ thể gợi mở và câu hỏi khái quát tổng hợp để hướng học sinh
tìm hiểu bài thơ.
1.2.1. Tìm hiểu hai câu đề:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
CH: Theo em, ở hai câu này, điểm nhìn của tác giả tập trung ở không gian nào?
( Câu hỏi gợi mở cụ thể )
TL: Điểm nhìn là Đèo Ngang.
CH: Cảnh Đèo Ngang được gợi tả vào thời điểm nào?( Câu hỏi gợi mở cụ thể )
10


TL: Thời điểm : buổi chiều tà, bóng xế tà
CH: Thời điểm đó gợi cho các em một cảm giác như thế nào? ( Câu hỏi khái

quát tổng hợp)
TL: Cảm giác buồn, vắng lặng.
CH: Cảnh Đèo Ngang được gợi tả qua những hình ảnh nào?( Câu hỏi gợi mở cụ
thể)
TL: Cảnh Đèo Ngang: cỏ, cây, đá, lá, hoa. (cỏ cây chen đá, lá chen hoa).
CH: Em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả của tác giả?Tác dụng việc sử dụng
biện pháp nghệ thuật đó? ( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Nghệ thuật: điệp từ: “Chen”( Chen được hiểu theo nghĩa lẫn vào nhau,
xâm lẫn nhau không ra hàng lối). Điệp từ chen 2 lần gợi sức sống của cỏ cây
ở một nơi chật hẹp, cằn cỗi.
CH: Như vậy, phần đề của bài thơ đã gợi hình ảnh một Đèo Ngang như thế nào?
( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Cảnh rậm rạp, hoang sơ, vắng lặng, buồn.
1.2.2 Tìm hiểu hai câu thực
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
CH: Cảnh tượng Đèo Ngang bổ sung thêm những chi tiết nào trong cảnh?
( Câu hỏi gợi mở cụ thể )
TL: Có thêm sự sống của con người: “Tiều vài chú, chợ mấy nhà”→ đảo ngữ
gợi cho ta thấy dáng vẻ nhỏ nhoi , heo hút của con người giữa núi rừng rậm
rạp, sự thưa thớt của những ngôi nhà ven sông.
CH: Theo em có gì độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của tác giả? Tác dụng?
( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Tác giả sử dụng từ láy: lom khom, lác đác đảo lên trước, đặt ở vị trí đầu
câu làm vị ngữ tạo cho người đọc có thể hiểu:
+ Diễn ra văn xi thì hai câu này sẽ là
Vài chú tiều lom khom ở dưới núi
C

V


TR

Mấy nhà chợ lác đác ở bên sông
11


C

V

TR

+ Ngữ pháp đảo đặc biệt trong thơ sẽ biến thành trật tự
Lom khom dưới núi tiều vài chú
V

TR

C

Lác đác bên sơng chợ mấy nhà
V

TR

C

Phép đối, từ tượng hình, đảo ngữ  gợi tả hình dáng vất vả, nhỏ nhoi
thưa thớt của con người giữa núi rừng rậm rạp, bao la, sự thưa thớt của những

ngôi nhà ven sông,…
CH: Như vậy, phần thực của bài thơ đã tả thực, sự sống ở Đèo Ngang, nhưng đó
là một sự sống như thế nào ?( Câu hỏi khái quát tổng hợp nâng cao)
TL: Ở đây với một sự sống ít ỏi, thưa thớt, hoang sơ, cảnh tượng bao la bát
ngát.
CH: Hai câu thực của bài thơ tuy tả cảnh nhưng cũng đã hé mở về tâm trạng của
nhà thơ. Theo em đó là tâm trạng gì?( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Tâm trạng buồn man mác trước cảnh vật hoang sơ, thưa thớt, vắng lặng,
xa lạ, thiếu sức sống. Sự sống ít ỏi, thưa thớt trước khơng gian bao la.
1.2.3. Tìm hiểu hai câu luận.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
CH: Nội dung hai câu luận có gì khác với bốn câu thơ đầu?( Câu hỏi tổng hợp
nâng cao)
TL: 2 câu thơ đi vào bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con người
CH: Trong bài thơ thất ngơn bát cú thì hai câu luận có cấu trúc đối nhau. Em hãy
chỉ ra các biểu hiện của phép đối ấy về ý, thanh điệu ?( Câu hỏi gợi mở ).
TL:Về ý: nhớ nước - thương nhà.
Về thanh điệu: TT BB BTT. BB TT TBB
CH: Ngoài phép đối thì 2 câu thơ cịn sử dụng biện pháp tu từ gì?( Câu hỏi khái
quát nâng cao)
12


TL: Biện pháp tu từ ẩn dụ: Tác giả mượn âm thanh tiếng chim để bày tỏ lòng
người.
CH: Âm thanh đó gợi cho tác giả có tâm trạng gì?( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Âm thanh tiếng chim cuốc cuốc gợi sự hoang vắng, khắc khoải da
diết.Tâm trạng nhớ quê hương, nhớ nước, nhớ nhà.
CH: Hai câu luận đã đi vào bày tỏ nỗi lịng của con người, đó là nỗi lịng gì?

( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Nỗi nhớ nước, thương nhà của tác giả khi đứng trước Đèo Ngang hoang
sơ.
=>Nỗi buồn nhớ nhà, nhớ về quá khứ đất nước.
? Em có nhận xét gì về biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ ? ( Câu
hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Nghệ thuật : ẩn du- tượng trưng: Dùng chuyện con quốc kêu nhỏ máu vì
mất nước, thương nước, nhớ nước đối với tiếng gia gia, nhà nhà đã trở thành
điển tích khơng mấy xa lạ đối với các nhà thơ trung đại. Ngoài ra cịn sử dụng
phép đối và chơi chữ.
1.2.4. Tìm hiểu hai câu kết
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
CH:' Hai câu cuối, toàn cảnh Đèo Ngang hiện lên qua những từ ngữ, hình ảnh
nào ?( Câu hỏi gợi mở cụ thể )
TL: Cảnh Đèo Ngang : trời, non, nước
? Em hình dung về một khơng gian như thế nào qua những từ ngữ ấy?( Câu hỏi
khái quát nâng cao)
TL: Không gian mênh mông, xa vắng con người nhỏ bé, lẻ loi đối diện với cả
vũ trụ bao la, rộng lớn.
CH: Giữa khơng gian ấy thì con người lặng lẽ một mình đối diện với nỗi cơ
đơn qua lời thơ: Một mảnh tình riêng ta với ta. Em hiểu như thế nào là “tình
riêng ta với ta”?(Câu hỏi đối chiếu so sánh)
TL: “Mảnh tình riêng ta với ta”=>Nỗi buồn, nỗi cơ đơn, khơng có ai chia sẻ,
con người nhỏ bé đơn chiếc, ơm một mảnh tình riêng trước cả trời mây non

13


nước hoang vắng, lạnh lẽo nơi đỉnh đèo xa lạ trong ánh mắt hồng hơn dần

tắt.
CH: Vậy theo em tình riêng của tác giả là gì?( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Đó là tình thương nhà, nỗi nhớ nước da diết, âm thầm, lặng lẽ của tác giả,
nỗi buồn thầm lặng của nhà thơ.
CH: Em có nhận xét gì về nghệ thuật diễn đạt ý của hai câu thơ cuối? Theo
em phép đối này có giá trị ý nghĩa như thế nào?( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Nghệ thuật tương phản giữa mênh mông trời nước, thăm thẳm núi đèo
với con người nhỏ bé, đơn chiếc, đang ôm một mảnh tình riêng càng làm nổi
bật tâm trạng cơ đơn. Tác giả đã sử dụng phép đối làm nổi bật được nỗi buồn
cô đơn thầm lặng của con người trước cảnh vật.
CH: Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật thường có hai nội dung : cảnh
và tình. Vậy em hãy chỉ các nội dung ấy ở bài thơ này?( Câu hỏi tổng hợp
nâng cao)
TL: Bốn câu đầu: Bức tranh Đèo Ngang tĩnh vắng, hoang sơ, bao la ,buồn …
Bốn câu cuối: Tâm trạng khắc khoải, nhớ nước thương nhà, nỗi buồn
thầm lặng cô đơn của tác giả…
CH: Bốn câu thơ đầu tác giả cho thấy được bức tranh ở Đèo Ngang tĩnh vắng,
hoang sơ, vậy qua đó giúp em hình dung gì về cảnh thiên nhiên ở quê hương
mình?(câu hỏi so sánh gợi mở)
TL: Em thấy quê mình có rất nhiều cảnh đẹp, đồi núi điệp trùng, có dịng
sơng gâm xanh biếc...
CH: Để thiên nhiên cảnh Đèo Ngang có được cảnh hoang sơ như vậy con
người chúng ta cần phải làm gì ?( Câu hỏi tổng hợp nâng cao)
TL: Có ý giữ gìn, bảo vệ quang cảnh thiên nhiên, trồng nhiều cây xanh làm
cho môi trường xanh, sạch, đẹp ở quê hương em.
CH: Nếu được vẽ tranh minh họa cho bài thơ, em sẽ vẽ như thế nào? (Câu hỏi
khái quát tổng hợp nâng cao)
Gợi ý: Loại câu hỏi này nhằm phát huy trí tưởng tượng của học sinh hướng đến
biểu hiện rõ phong thái cùng vẻ đẹp tâm hồn Bác trước buổi chiều tà.
Kết luận: Với hệ thống câu hỏi gợi mở cụ thể và khái quát tổng hợp nâng cao

như trên, chắc chắn bài giảng “ Qua Đèo Ngang” sẽ đạt hiệu quả cao.
14


2. TIẾN TRÌNH THỰC NGHIỆM
(Những u cầu cụ thể)
Tóm lại, với những dạng câu hỏi như đã nêu ở trên, nhất là khi thực hiện
trong q trình giảng dạy, tơi nhận thấy giờ học đã đạt được những hiệu quả
tương đối tốt. Cụ thể:
- Kết quả trước khi thực nghiệm:
Khối 7

Giỏi

114 hs

0

Khá

Trung bình

Yếu

30hs =26,4%

65hs=57%

19hs=16,6%


- Kết quả sau thực nghiệm.
Khối 7

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

114 hs

2hs=1,8%

33hs =28,9%

70hs=61,4%

9hs=7,9%

Học sinh hứng thú, giờ giảng sơi nổi. Các em học sinh được phát huy trí
lực của mình một cách hiệu quả nhất, tiếp thu bài nhanh hơn. Các em được tự do
bày tỏ ý kiến riêng nên rất mạnh dạn và muốn phát biểu.
Bên cạnh những câu hỏi các em có thể trả lời dễ dàng khi chú ý theo dõi
bài, còn những câu hỏi đòi hỏi tư duy của những em học khá, hoặc có câu hỏi
gợi mở của thầy.
Qua bài giảng, với những dạng câu hỏi như vậy, nếu cho các em viết đoạn
văn phát biểu cảm tưởng thì đa số các em đều viết được. Đặc biệt là các em học
sinh học giỏi, khá. Các em đã biết thể hiện những nét riêng, những ý tưởng độc

đáo trong bài viết của mình.
Rõ ràng với hệ thống câu hỏi tưởng tượng trong giờ giảng văn, Người thầy
đã phát huy được năng lực trí tuệ, sự thông minh sáng tạo của học sinh, và nếu
như người thầy coi đó là một cơng việc, một u cầu cơ bản trong công tác giảng
dạy, chắc chắn người giáo viên sẽ thu được kết quả xứng đáng trong quá trình
lên lớp của mình.
Với hệ thống câu hỏi khoa học trong giờ giảng, tôi tự thấy người thầy đã
thực hiện tốt phương pháp gợi mở trong giờ giảng. Phương pháp gợi mở là
phương pháp có khả năng riêng mà các phương pháp khác khó có được. Bằng
15


con đường đàm thoại, phát vấn gợi mở, giáo viên có thể tạo một khơng khí tự do
tư tưởng, bộc lộ những nhận thức thức trực tiếp của mình. Mạch kín của giờ dạy
được thực hiện dể dàng. Những tín hiệu phản hồi được báo lại cho giáo viên kịp
thời khi lên lớp.
Giờ giảng văn, học văn có được khơng khí tâm tình, trao đổi thân mật về
cuộc sống do nhà văn nêu lên. Mối liên hệ giữa nhà văn, giáo viên và học sinh
được hình thành ngay trong lớp học. Đây là điều mà các giờ dạy theo phương
pháp cổ diễn giảng khó thực hiện được. Thế giới học sinh ít xa lạ với giáo viên.
Chính qua phương pháp đàm thoại, phát vấn gợi mở với hệ thống câu hỏi
khoa học, người giáo viên có thể hiểu về con người học sinh một cách cụ thể
hơn. Qua giờ giảng văn, tính cách, phẩm chất, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm của học
sinh được bộc lộ rõ rệt trong quá trình đàm thoại. Năng lực độc lập làm việc, óc
tìm tịi suy nghĩ, thói quen giao tiếp xã hội của học sinh được phát huy một cách
tích cực. Khơng khí thụ động của giờ văn giảm bớt rõ rệt.
Tuy nhiên, khơng có phương pháp nào được coi là “vạn năng”. Mỗi
phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng.
Phương pháp đặt câu hỏi gợi mở có những mặt mạnh trên, nhưng cũng rất
dễ làm cho giờ dạy của những giáo viên trở nên vụn vặt, xé lẻ, khơng khí tình

cảm ln ln có nguy cơ bị phá vỡ. Giờ dạy dễ khơ khan, thiên về trí tuệ. Mặt
khác, việc chuẩn bị giáo án dạy theo hướng này đòi hỏi phải công phu.
Người giáo viên không những phải lo bài giảng, lời nói của mình mà cịn
phải tính đến hoạt động của học sinh. Làm sao cho từng bước việc làm của học
sinh ăn khớp với công việc của người giáo viên. Người giáo viên phải dự tính
trước những bất trắc có thể xảy ra trong q trình lên lớp.
Trong giờ dạy đàm thoại, phát vấn người giáo viên phải tự kiềm chế mình
khỏi một thói quen khá phổ biến là ham thích diễn giảng. Lời diễn giảng của
giáo viên chiếm hết cả thời gian lên lớp.
Phương pháp gợi mở trong giờ giảng văn chủ yếu được thực hiện thông
qua hệ thống câu hỏi tạo điều kiện cho hoạt động song phương giữa giáo viên và
học sinh để từng bước đi khám phá tác phẩm văn học.
Các câu hỏi đàm thoại trong một bài văn, một tác phẩm văn học được
phân loại dựa theo tiến trình lên lớp, theo yêu cầu giáo dục và giáo dưỡng, theo
nội dung hay tính chất các câu hỏi. Tuy nhiên, các câu hỏi đàm thoại cần đảm
bảo một số tiêu chuẩn khoa học nhất định:
16


- Ngồi tính chất rõ ràng, chính xác cịn cần phải có màu sắc văn chương,
có khả năng khơi gợi tình cảm, xúc động thẩm mĩ cho học sinh.
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khn khổ một giờ dạy trên
lớp, vừa có khả năng “gợi vấn đề” suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo cho học sinh.
- Các câu hỏi không tùy tiện mà phải được xây dựng thành hệ thống logic,
có tính tốn, giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chỉnh thể.
Cần có sự kết hợp cân đối giữa loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng hợp gợi
mở vấn đề. Câu hỏi có khi diễn đạt theo lối diễn dịch hay quy nạp nhưng đều
nhằm cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững chắc.
- Các câu hỏi đặt ra nhìn chung phải căn cứ vào nội dung và hình thức
nghệ thuật của tác phẩm nhằm làm cho học sinh nắm chắc kiến thức cơ bản, nắm

chắc bài văn cũng như tiếng nói của nhà văn. Ngồi ra cũng có thể có những câu
hỏi nằm ngoài nội dung và nghệ thuật tác phẩm nhưng nhằm mục đích giúp học
sinh hiểu sâu hơn ý nghĩa tác phẩm.
Với hệ thống câu hỏi, phương pháp gợi mở nói chung có thể sử dụng với
nhiều mức độ khác nhau. Có khi gợi mở là phương pháp duy nhất trong một số
giờ dạy, có khi nó được kết hợp với những phương pháp khác. Phương pháp gợi
mở nói chung nên dùng cho học sinh khá giỏi và cho những bài văn, tác phẩm có
ý nghĩa rộng lớn về tư tưởng nhân sinh, nghệ thuật…
Sử dụng phương pháp nêu là chính trong giờ dạy. Người giáo viên bao giờ
cũng phải tính toán kĩ lưỡng trên sơ sở nắm chắc đặc điểm lớp học, học sinh, u
cầu của chương trình, tính chất của bài văn và sở trường của bản thân nữa. Mọi
phương pháp đều có giá trị tương đối.
Phương pháp khơng quyết định tài năng mà chính tài năng của người giáo
viên quyết định hiệu lực của mọi phương pháp. Người giáo viên để nâng cao
hiệu suất của giờ dạy phải biết tận dụng sức mạnh riêng của mọi phương pháp
thành một hợp lực để đạt kết quả tối ưu cho giờ dạy văn, không loại trừ phương
pháp nào cả, kể cả phương pháp gợi mở nêu vấn đề.
Vấn đề quan trọng là khi sử dụng phương pháp gợi mở nêu vấn đề trong
giảng văn, giáo viên phải tính tốn kĩ lưỡng, đảm bảo cho giờ giảng văn không
bị biến chất, nhằm làm cho học sinh được phát triển cân đối cả về trí tuệ lẫn tâm
hồn. Vì vậy để có một giờ dạy tốt, đạt hiệu suất cao, đòi hỏi có sự sáng tạo rất
lớn của người giáo viên.

17


PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Giảng văn quả là một cơng việc khó khăn và phức tạp. Cái khó khăn của
nghề dạy văn nói chung là: nghề văn địi hỏi phải có “tâm hồn” vừa có hiểu biết,

có tình cảm vừa có kĩ thuật, có khoa học lẫn nghệ thuật. Người giáo viên văn
phải tu dưỡng rèn luyện để có được những điểu kiện tối thiểu nhất định của
người làm cơng tác văn học.
Ngồi ra, người giáo viên văn cịn là nhà sư phạm làm cơng tác văn học
trong nhà trường, là người chiến sĩ trên mặt trận giáo dục. Người giáo viên văn
không thể không tinh thơng nghề nghiệp dạy học. Nghiệp vụ khơng chỉ có
phương pháp. Đành rằng phương pháp thể hiện sức sáng tạo chủ quan của mỗi
người trong hoạt động thực tiễn. Nội dung khoa học của công việc giảng văn liên
quan đến nhiều ngành khoa học, văn học, nghệ thuật, tâm lí, giáo dục ngơn
ngữ…Để có một giờ văn hiệu quả cao, người giáo viên không ngừng phải học
rộng, biết nhiều mà cịn phải có “tâm hồn”, đạo đức đẹp đẽ, khơng những phải
am hiểu nghề sư phạm và còn phải hiểu sâu nhà văn, lao động nhà văn, lao động
nghệ thuật, hiểu người sáng tác lẫn người cảm thụ.
Mọi phương pháp, biện pháp giảng văn có giá trị khoa học cũng chỉ thực
sự có hiệu lực thực tế trong tay người giáo viên có tâm hồn, có tình cảm, có kiến
thức tồn diện về văn học lẫn giáo dục, lại có vốn hiểu biết phong phú về cuộc
sống và con người.
Nhưng bấy nhiêu điều kiện phải trở thành một thứ vốn liếng thực sự của
cá nhân từng người, một thứ bản lĩnh riêng trong nghiên cứu và giảng dạy. Vì: có
bản lĩnh mới độc lập sáng tạo trong công tác được. Cho nên xét đến cùng nỗ lực
chủ quan quyết định sự thành công của bản thân mỗi giáo viên chúng ta trên con
đường đảm nhiệm công việc giảng dạy, một cơng việc vừa có tính khoa học vừa
có tính nghệ thuật sâu sắc.
2. Kiến nghị, đề xuất.
Qua công tác giảng dạy, nghiên cứu và kết quả của công tác giảng dạy,
tơi xin có một số kiến nghị sau:
a) Đối với nhà trường:
18



- Tổ chức buổi học ngoại khóa để các em có dịp quan sát cảnh đẹp: Cánh
đồng, dịng sơng, núi đồi… Sau đó học sinh viết bài thu hoạch cảm nhận vẻ
đẹp quê hương.
- Tổ chức cho học sinh thi viết văn với đề tài: Vẻ đẹp cuộc sống quanh em,
về mái trường, thầy cơ qua hình thức hoạt động báo tường hoặc viết tay.
b) Đối với giáo viên:
- Giao hữu gần gũi để hiểu tâm lý các em hơn.
- Trau dồi vốn tri thức chun mơn của mình.
- Nghiên cứu, tìm tịi tư liệu có liên quan đến mơn học để có phương hướng
dạy học cho học sinh.
- Học hỏi đồng nghiệp, nhiệt tình.
c) Đối với học sinh.
- Khi đọc tài liệu tham khảo tránh sao chép nguyên mẫu.
- Học hỏi bạn, ở thầy, đặc biệt luôn rèn kĩ năng viết văn một cách linh hoạt
hơn.
- Cần có chí tưởng tượng, liên tưởng phong phú.
Trên đây là những suy nghĩ, những ý kiến rất nhỏ của tôi xoay quanh
vấn đề “ nâng cao hiệu quả giờ dạy văn, vài kinh nghiệm nhỏ trong quá trình
đặt câu hỏi trong giờ giảng văn”. Tôi hy vọng nhận được sự chia sẻ kinh
nghiệm cùng những đóng góp nhiệt tình của các thầy cô và ban giám hiệu để
báo cáo này của tôi hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Giáp Trung, ngày 30 tháng 03 năm 2021
Người thực hiện

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
19


HIỆU TRƯỞNG


XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC
TRƯỞNG PHÒNG

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
........................................................................................................................................................
.....................................

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên Ngữ văn 7, Tập 1.
2. Phạm Văn Đồng, Dạy văn là một quá trình rèn luyện tồn diện.
3. Phan Trọng Luận, Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường
4. Nguyễn Văn Đường, Thiết kế dạy học Ngữ văn 7, tập 1.
5. Trần Đình Sử, Phân tích, bình giảng, tác phẩm văn học

21


MỤC LỤC
Lời nói đầu:…………………………………………………………..................1
Phần 1: Đặt vấn đề:……………………………….……………………….……2
1. Lí do chọn đề tài:……………………………………………………….……2
2. Mục đích nghiên cứu:…………………………………………….……..........2
3. Đối tượng nghiên cứu:……...................……………………………….……..3

4. Phạm vi nghiên cứu:..........................……………………………………….…
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:..........................……………………………………..…3
6. Phương pháp nghiên cứu:……………………………………………….…....3
Phần 2: Nội dung:…………………………………………………………….…4
Chương
1:

sở
………………………...4,5



luận

của

thực

tiễn...........................

Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu…………………………………….....5
Chương
3:
Biện
…………………………………….....5

pháp.................................

1. Nội dung..........................................................................................................514

2. Tiến trình thực nghiệm:……………………..................................................1517
Phần 3: Kết luận và kiến nghị……………………………………………...….1819
Đánh
giá
của
hội
học .............................................................................20

đồng

khoa

Tài liệu tham khảo:…………………………………………………………..
…...21
Mục
lục.....................................................................................................................22
22



×