Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Đặc điểm nội dung nghệ thuật thơ chữ hán cao bá quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.59 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ BÁ AN

ĐặC ĐIểM NộI DUNG NGHệ THUậT
THƠ CHữ HáN CAO Bá QU¸T

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

VINH - 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ BÁ AN

ĐặC ĐIểM NộI DUNG NGHệ THUậT
THƠ CHữ HáN CAO Bá QUáT

Chuyên ngành: Lý LUậN VĂN HọC
MÃ số: 60.22.32

LUN VN THC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. LÊ THỜI TÂN

VINH - 2010




LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của
TS. Lê Thời Tân trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo, các
GS, PGS, TS Khoa Ngữ Văn, Khoa Đào tạo Sau Đại học - Trường Đại Học
Vinh; Lãnh đạo UBND huyện Như Xuân - Thanh hóa, Ban Giám đốc Trung
tâm GDTX Như Xuân - Thanh Hóa đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong
suốt q trình học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn gia đình và người thân, cảm ơn sự động viên, khích lệ của
bạn bè và đồng nghiệp.
Vinh, tháng 12 năm 2010
Tác giả

Lê Bá An


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài...................................................................................... 1

2.

Đối tƣợng ................................................................................................. 1

3.


Mục đích nghiên cứu................................................................................ 1

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................... 2

5.

Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 2

6.

Cấu trúc luận văn ................................................................................... 13

Chƣơng 1. CON NGƢỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG
CAO BÁ QUÁT ......................................................................... 14
1.1.

Một số phận nhà nho đặc biệt ................................................................ 14

1.2.

Một sự nghiệp văn chƣơng lớn .............................................................. 18

Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT ... 22
2.1.

Ngơn chí: Thay đời đổi thế, hiến thân cho nghiệp lớn .......................... 22


2.2.

Thuật hồi: Niềm riêng tình đời............................................................. 41

2.3.

Kí sự: Cuộc sống dân tình và sự thực mục sở thị .................................. 60

Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THƠ CHỮ
HÁN CAO BÁ QUÁT ............................................................... 74
3.1.

Quan điểm của Cao Bá Quát về nghệ thuật ........................................... 74

3.2.

Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát ...... 77

3.2.1. Không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát ....................... 77
3.2.2. Thời gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát .......................... 86
3.3.

Các nhóm thi tứ và các thể thơ căn bản trong thơ chữ Hán Cao
Bá Quát .................................................................................................. 91


3.3.1. Các nhóm thi tứ ...................................................................................... 91
3.3.2. Các thể thơ ............................................................................................. 92
3.3.2.1. Thơ cổ thể ................................................................................. 93
3.3.2.2. Thơ luật ..................................................................................... 95

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 100


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cao Bá Quát là một nhà nho có số phận đặc biệt - “loạn thần tặc
tử” của thời đại phong kiến. Thơ ông bộc lộ tài năng đặc biệt và chí hƣớng
mƣu đồ thay triều đổi đại.
1.2. Từ trƣớc tới nay, Nguyễn Du đƣợc coi là ngƣời viết thơ chữ Hán nhiều
nhất trong văn học trung đại (Nguyễn Du có 249 bài). Thống kê khảo cứu sáng tác
thơ chữ Hán Cao Bá Quát cho tới nay dù thất tán đi nhiều nhƣng số lƣợng cịn
lại vẫn là rất lớn - gần nghìn rƣỡi bài. Một di sản thơ ca lớn nhƣ vậy đủ để
cho ta hình dung đƣợc một phong cách tác gia, khái quát đƣợc một số các đặc
điểm tiêu biểu trên các phƣơng diện nội dung chủ đề và hình thức nghệ thuật.
1.3. Điều đáng mừng là di sản thơ chữ Hán Cao Bá Quát cho đến nay
đã đƣợc sƣu biên và xuất bản tập trung. Các dịp kỉ niệm ngày mất ngày sinh
và hội thảo chuyên đề đƣợc tổ chức khá quy mơ tạo điều kiện cho việc tìm
hiểu tiếp xúc ngày càng sâu rộng hơn đối với tác gia này. Cao Bá Qt cũng
là tác gia có thơ trích giảng trong chƣơng trình trung học.
Đây chính là những lí do khiến chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên
cứu này.
2. Đối tƣợng
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: Các đặc điểm nội dung và đặc
điểm hình thức nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Phạm vi tƣ liệu khảo sát dựa vào thơ chữ Hán Cao Bá Quát đƣợc in rải
rác ở các tập và hiện nay đã có tổng tập.
3. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm chỉ ra các đặc điểm nội dung
nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Từ đó góp phần làm rõ những đóng góp
của Cao Bá Quát đối với tiến trình văn học Việt Nam.


2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tơi sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu
chính sau:
- Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu
- Phƣơng pháp khảo sát - thống kê
- Phƣơng pháp tổng hợp - phân tích
- Phƣơng pháp phối hợp các tri thức khoa học liên ngành.
Tất cả các phƣơng pháp trên đƣợc quán triệt trong quan điểm lịch sử để
soi chiếu vấn đề. Qua đó, thấy đƣợc cái riêng của tác giả để đánh giá nhận xét
một cách đúng đắn.
5. Lịch sử vấn đề
Cao Bá Qt là nhà thơ tài năng, có khí phách lớn của Văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Cao Bá Quát để lại một sự nghiệp văn chƣơng đồ
sộ đƣợc nhiều ngƣời đánh giá cao. Tiếc một điều rằng khi ông bị nhà Nguyễn
xem là “loạn thần tặc tử” và kết án tru di tam tộc, thơ văn ông bị cấm đoán
hoặc bị thủ tiêu đi nhiều. Nhƣng đến nay di sản vẫn cịn rất lớn (hơn nghìn
rƣỡi bài) và chỉ đến đƣợc bạn đọc một phần nhỏ. Cao Bá Quát là một nhà thơ
lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam. Có thể nói, việc nghiên cứu thơ
văn Cao Bá Quát tuy đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn nhƣng vẫn chƣa thực
sự tƣơng xứng với sự nghiệp thơ văn ông để lại cho đời.
Thơ chữ Hán là một thành công lớn trong sự nghiệp văn chƣơng của
ơng. Hệ thống hóa và phân tích các đặc điểm nội dung nghệ thuật thơ chữ
Hán Cao Bá Quát là một việc làm cần thiết. Tuy vậy, việc tìm hiểu các đặc
điểm nội dung nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát hiện chỉ mới dừng ở

miêu tả phân tích bƣớc đầu. Các nhà nghiên cứu phê bình chủ yếu mới đƣa ra
một vài nhận định tổng quát. Vì vậy, việc tìm hiểu “Đặc điểm nội dung nghệ
thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát” vẫn là một công việc có nhiều triển vọng.


3
Đánh giá về thơ chữ Hán Cao Bá Quát, trên trang web http://www.
vietvan.vn Trần Trung viết “Chu Thần - Cao Bá Quát, một hiện tƣợng hiếm
quý trong thơ trung đại. Mà, có lẽ cho đến nay, ngƣời đời vẫn chƣa đánh giá
một cách sâu sắc, đích thực.... về ơng - nhất là mảng thơ Hán tự. Nếu gọi ra
điệu hồn riêng trong thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, có thể khái quát trong
mấy chữ này chăng: Một hồn thơ phóng khống, đơn hậu và cũng đầy kiêu
hãnh, sâu sắc” [46]. Từ trƣớc tới nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về
con ngƣời, cuộc đời cũng nhƣ sự nghiệp văn chƣơng của Cao Bá Quát. Tuy
nhiên, trong quá trình nghiên cứu về ơng, cịn gặp phải một số khó khăn, đó là
tác phẩm mất mát nhiều. Vì vậy khó có thể nhận định một cách tồn diện, mà
khơng tránh khỏi sự thiên lệch. Hơn nữa một số tác phẩm của ơng chƣa rõ
thời gian sáng tác. Đó là chƣa kể đến việc chép sai, chép sót, chép nhầm của
ngƣời này thành ngƣời khác. Hiện nay, các cơng trình nghiên cứu về Cao Bá
Quát, có thể nói cơ bản Cao Bá Quát đƣợc tiếp cận nghiên cứu từ nhiều góc
độ văn học, sử học, triết học, và ở mỗi bình diện đều có những đóng góp đáng
ghi nhận là khẳng định đƣợc Cao Bá Quát - một nhân vật lịch sử kiệt xuất,
một tài năng văn học lỗi lạc…
Tất nhiên, với tầm vóc một Cao Bá Quát đƣợc khẳng định nhƣ vậy,
nghiên cứu về Cao Bá Quát vẫn còn là những nghiên cứu có tính chất bƣớc
đầu. Riêng về phƣơng diện văn học, chủ yếu là những cơng trình xoay quanh
cuộc đời thăng trầm với con đƣờng khoa cử công danh của Cao Bá Quát, đến
tài thơ lỗi lạc, đến chí khí cứng cỏi, tinh thần phảng kháng quyết liệt, cái nhìn
hiện thực sắc sảo, tiến bộ của ơng về hiện thực đƣơng thời. Nó đƣợc thể hiện
rất rõ trong sự nghiệp thơ văn của ơng. Vì thế, các nhà nghiên cứu chỉ mới tập

trung khai thác những vấn đề này. Để xác lập vai trò của Cao Bá Quát trong
tiến trình lịch sử văn học dân tộc với tƣ cách là một tác gia có những đóng
góp quan trọng trong tiến trình này. Đó cũng là những vấn đề chúng tôi quan


4
tâm theo đuổi với mong ƣớc có những đóng góp thiết thực trong việc nghiên
cứu một trong những tác gia độc đáo nhất trong lịch sử văn học dân tộc.
Cao Bá Quát là nhân vật lịch sử và là một tác gia văn học lớn, từ trƣớc
tới nay, Cao Bá Quát đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm, nghiên cứu, giới thiệu.
Thời kỳ trƣớc năm 1975, có lẽ do tình hình học thuật nói chung có phần thiếu
ổn định do những tác động chính trị xã hội bấy giờ nên việc nghiên cứu Cao
Bá Quát, cũng nhƣ nhiều tác gia văn học khác gặp nhiều khó khăn. Về văn
học sử cũng chỉ có vài cơng trình nhƣ Việt Nam văn học sử trích yếu (1949)
của Nghiêm Toản, Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỷ thứ XIX (1951) của
Nguyễn Tƣờng Phƣợng và Bùi Hữu Sủng, trong đó cơng trình của Nghiêm
Toản hầu nhƣ khơng nhắc gì đến Cao Bá Qt, còn Nguyễn Tƣờng Phƣợng
và Bùi Hữu Sủng xếp Cao Bá Quát vào “khuynh hƣớng hƣởng lạc” [30, 42],
với cách nhìn nhận khơng có gì mới so với một số nhận định có từ trƣớc đấy.
Thời kỳ 1954 - 1975, đất nƣớc bị chia cắt nhƣng nhìn chung ở cả hai
miền, sinh hoạt học thuật đều có bƣớc ổn định, Cao Bá Quát đƣợc quan tâm
nghiên cứu giới thiệu, ở miền Nam có phần sớm hơn. Một trong những
nguyên nhân ở miền Nam Cao Bá Quát đƣợc quan tâm sớm hơn, theo chúng
tơi, vì ơng là tác giả đƣợc giảng dạy ở bậc trung học và có trong chƣơng trình
thi tú tài. Từ sau 1955, gắn với yêu cầu trên, ở miền Nam hàng loạt những
cơng trình khảo luận, luận đề về Cao Bá Quát phục vụ cho luyện thi tú ra đời,
tiêu biểu nhƣ “Luận đề về Cao Bá Quát” (1957) của Nguyễn Duy Diễn, “Cao
Bá Quát, thân thế - văn chƣơng luận đề” (1958) của Bằng Phong và Nguyễn
Duy Diễn, “Khảo luận về Cao Bá Quát” (1959) của Doãn Quốc Sỹ và Việt
Tử, “Giảng luận về Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ” (1959) của Lam Giang,

„Khảo luận thi văn Cao Bá Quát” (1959) và “Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ”
(1960) của Thuần Phong … những bộ văn sử đáng chú ý của giai đoạn này
nhƣ Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên, quyển 2, (1963) của Phạm Thế


5
Ngũ, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1967) của Thanh Lãng đều xét Cao Bá
Quát nhƣ một tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX.
Đồng thời đó là hàng loạt bài viết về Cao Bá Qt trên các tạp chí có tiếng
đƣơng thời nhƣ Văn hoá nguyệt san, Bách khoa thời đại, Văn học, Nghệ thuật,
Sáng tạo, Giáo dục phổ thơng. Nhìn chung thƣ mục nghiên cứu về Cao Bá
Quát trong giai đoạn này là dồi dào, nhƣng đáng tiếc là những đóng góp thật sự
về Cao Bá Quát cả về phƣơng diện lịch sử lẫn văn học vẫn chƣa có là bao.
Về phƣơng diện tiểu sử Cao Bá Quát, các tác giả khơng cung cấp thêm
gì mới, hầu hết họ đều dựa vào cuốn Cao Bá Quát danh nhân truyện ký
(1940) của Trúc Khê, một quyển danh nhân truyện ký có xu hƣớng tiểu sử
hoá giai thoại, để làm căn cứ nhận định, đánh giá về Cao Bá Quát. Có ngƣời
nhƣ Lam Giang đặt vấn đề rất nghiêm túc về việc phê phán tài liệu nhƣng
trong tập khảo luận của mình, ơng lại sử dụng rất nhiều giai thoại để xác định
Cao Bá Quát là một “danh sĩ phong lƣu”, một “cuồng sĩ” [12, 25]. Phạm Thế
Ngũ trong bộ văn học sử của mình cũng khơng tránh đƣợc vết mịn này. Điều
đó phản ánh những hạn chế nhất định về quan điểm và phƣơng pháp nghiên
cứu. Phần lớn các tác giả vẫn chịu ảnh hƣởng cách nhìn nhận về Cao Bá Qt
có từ trƣớc 1945, tách con ngƣời hành động và sáng tác thơ văn thành hai
hiện tƣợng riêng biệt, nhƣ Phạm Văn Sơn quan niệm “văn thơ là một chuyện,
hành động lại là một chuyện khác” [33, 430] và gần nhƣ lặp lại nguyên ý
tƣởng của Lê Thanh từ năm 1940 trong bài “Hậu tự” sau cuốn Cao Bá Quát
danh nhân truyện ký của Trúc Khê. Phạm Văn Sơn viết tiếp: “Ơng có làm
loạn chăng nữa thì việc này chỉ là một việc nhỏ trong nhiều việc nhỏ khác mà
thôi” [34, 432]. Bằng Phong và Nguyễn Duy Diễn cũng viết: “Ấy thế mà vì

nhìn nhầm cái tài từ chƣơng văn nghệ sang cái tài kinh bang tế thế, Cao Bá
Quát đã thất bại thảm thƣơng trong cuộc khởi nghĩa” [32, 142]. Quan điểm và
phƣơng pháp tƣ tƣởng nhƣ trên dẫn đến việc khơng chú ý đúng mức đến tính


6
tƣ tƣởng của văn thơ Cao Bá Quát, thực tế các tác giả khơng tránh đƣợc cái
nhìn phiến diện về thơ văn ông, cuộc đời ông. Về văn chƣơng, ai cũng nhất trí
Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng, độc đáo, nhƣng họ chủ yếu đi vào khía
cạnh ngông nghênh, tài tử của Cao Bá Quát, và dĩ nhiên các giai thoại văn học
về tài ứng đối chơi chữ của ông lại đƣợc xem nhƣ những minh hoạ đắc địa.
Tính phiến diện cũng thể hiện khá rõ ở sự lúng túng trong việc cố gắng xếp
Cao Bá Quát vào một khuynh hƣớng nào đó: lý tƣởng, tình cảm, hoặc kiêu
hãnh, nhàn hạ, hƣởng lạc, hoặc bi quan, yếm thế… Ở một số cơng trình, các
tác giả cố gắng hƣớng đến một cái nhìn tồn diện nhƣng thực ra cũng không
tránh đƣợc sự lắp ghép từ những mảng, những mảnh rời vụn có tính chất bề
ngồi, chẳng hạn nhƣ cách viết của Lam Giang mà chúng tôi đã nêu, hoặc nhƣ
của Phạm Thế Ngũ khi nêu ra mấy khía cạnh tƣ tƣởng Chu Thần qua di văn
chữ Nôm: 1. Kiêu ngạo cố cùng; 2. Trào đời phẫn uất; 3. Lãng mạn thanh cao;
4. Hành lạc yếm thế [27, 551]. Về cuộc đời, tƣ tƣởng và hành động Cao Bá
Quát, các tác giả đều tập trung lý giải, đánh giá con đƣờng và tính chất của
hành động chống triều đình của Cao Bá Quát. Hầu nhƣ ai cũng chú ý đến bối
cảnh của thời đại Cao Bá Quát, nhƣng rất tiếc vẫn thiếu một quan điểm biện
chứng lịch sử trong mối quan hệ giữa thơ văn với con ngƣời Cao Bá Qt để
nhìn nhận đánh giá. Chung quy có hai hƣớng nhận định chính: một là coi Cao
Bá Quát là ngƣời có tài lỗi lạc đến mức ngơng nghênh lại không đƣợc trọng
dụng nên sinh ra chán nản, bực tức và “khởi loạn” (Hà Nhƣ Chi, Nguyễn
Anh, Thái Bạch …); hai là coi Cao Bá Quát là một nhà cách mạng, coi cuộc
dấy binh ở Mỹ Lƣơng là khởi nghĩa (Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Duy Diễn,
Doãn Quốc Sỹ và Việt Tử,…). Cả hai hƣớng nhận định đều có phần bất cập.

Hƣớng thứ hai có chú ý đến tƣ tƣởng “cách mạng” qua lý tƣởng “Nghiêu
Thuấn”, “Võ Thang” của ông, nhƣng lập luận cịn thiếu thuyết phục vì chƣa
quan tâm đúng mức; hoặc chƣa có điều kiện để nghiên cứu có tính hệ thống


7
nhân sinh quan tích cực của Cao Bá Quát dẫn đến hành động khởi nghĩa của
ơng. Thêm vào đó, cái nhìn của các tác giả theo hƣớng này cũng thiếu tính
lịch sử khi lý giải nguyên nhân các cuộc khởi nghĩa hoặc “dấy loạn” trong
thời đại phong kiến ở Việt Nam.
Trong q trình đánh giá, chúng ta khơng thể bỏ qua những khó khăn
thực sự, trƣớc hết về mặt tƣ liệu rất phức tạp nhƣ mọi ngƣời đều biết, và cũng
nhiều cơng trình khảo luận chỉ nhằm đáp ứng những yêu cầu cụ thể là phổ
biến kiến thức, luyện thi… nên cũng khơng vƣợt q đƣợc tính chất giảng
bình, sơ lƣợc. Tuy vậy về tổng quan, có thể nói quá trình nghiên cứu, giới
thiệu về Cao Bá Quát ở miền Nam trƣớc 1975 có những đóng góp nhất định.
Vấn đề Cao Bá Quát đƣợc đặt ra liên tục và có tính thời sự. Về mặt tƣ liệu thơ
văn Cao Bá Qt, ngồi những bản dịch có từ trƣớc Cách mạng tháng Tám,
một số tác giả các cơng trình khảo luận đã dịch và giới thiệu thêm những tác
phẩm khác của ơng. Về phƣơng diện này có cơng trình Cao Chu Thần thi tập
trích dịch (1971) của Sa Minh Tạ Khúc Khải - một cơng trình dịch thuật khá
cơng phu gồm 234 tác phẩm vừa văn xuôi, vừa thơ. Tiếc rằng vấn đề công tác
văn bản không đƣợc dịch giả đặt ra nên cơng trình này chƣa hồn tồn đáp
ứng sự mong đợi của độc giả. Dù sao, cơ sở tài liệu này đã hơn hẳn so với
trƣớc, tuy nhiên, sau Tạ Thúc Khải khơng có ai đặt vấn đề nghiên cứu về Cao
Bá Quát.
Miền Bắc thời kỳ 1954 - 1975, cùng với cơng trình Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam (1960), có thể nói bài viết của Nguyễn Huệ Chi - “Tìm hiểu
nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát” (1961) đã đánh dấu một
hƣớng nghiên cứu mới trên quan điểm mác xít. Đấy là sự khắc phục cái nhìn

cịn phiến diện từ trƣớc để trên quan điểm mới “xác định đƣợc mối liên hệ
vốn rất chặt chẽ giữa thơ văn Cao Bá Quát và cuộc đời chìm nổi của ơng”, để
tìm hiểu “tƣ tƣởng thống nhất đã chi phối các quá trình khác nhau của cuộc


8
đời ông” [3, 22]. Quan điểm nghiên cứu này vừa khoa học vừa có ý thức tích
cực trong việc thúc đẩy quá trình nghiên cứu, xử lý tƣ liệu thơ văn Cao Bá
Quát. Điều đó thể hiện rõ qua các bài viết của Tảo Trang - “Một số tài liệu về
thơ văn Cao Bá Quát” (1963), Chu Thiên - “Cao Bá Quát và cuộc khởi nghĩa
Mỹ Lƣơng” (1963), Hoa Bằng - “Cao Bá Quát với cuộc khởi nghĩa chống
triều Nguyễn” (1854 - 1856), Vũ Khiêu - “Đọc Cao Bá Quát nhân 160 năm
ngày sinh của nhà thơ” (1969), bài nói chuyện của Xuân Diệu - “Đọc thơ Cao
Bá Quát” (1971) nhân dịp kỷ niệm 160 năm ngày sinh Cao Bá Quát và lần thứ
100 ngày sinh Trần Tế Xƣơng… Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đã rất thận
trọng trong việc sử dụng tƣ liệu thơ văn Cao Bá Quát, nhất là đối với các giai
thoại, và xuất phát từ thơ văn Cao Bá Quát, mặc dù khó tránh khỏi vài trƣờng
hợp cịn vƣớng mắc, để tìm hiểu nhiều khía cạnh tâm hồn, tƣ tƣởng của Cao
Bá Quát, khẳng định sự nổi dậy của Cao Bá Quát là “cuộc khởi nghĩa trăm
phần trăm” (Hoa Bằng). Có thể nói, lần đầu tiên Cao Bá Qt đƣợc nhìn nhận
đúng tầm vóc với tƣ cách là một nhân vật lịch sử, và lần đầu tiên đƣợc hiện
diện chân thực, sinh động là một con ngƣời “thành thật trong cuộc đời”, “biết
yêu, biết ghét đúng mức” (Nguyễn Huệ Chi), là con ngƣời “chí khí và tâm
huyết” (Xuân Diệu), là nhà thơ có quan niệm văn học đúng đắn và có những
đóng góp mới mẻ trong lịch sử văn học dân tộc. Năm 1970 đánh dấu một
bƣớc tiến mới trong việc nghiên cứu, xử lý và công bố tƣ liệu thơ văn Cao Bá
Quát với công trình Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, gồm 156 bài, một cơng trình
tập thể, đƣợc biên dịch cơng phu cùng với lời giới thiệu 40 trang của Vũ
Khiêu đánh giá cao Cao Bá Quát trên nhiều phƣơng diện. Giáo sƣ Nguyễn
Lộc xác định: “Chính nhờ giới thiệu rộng rãi thơ chữ Hán của Cao Bá Quát

nhƣ thế, nên việc đánh giá nhà thơ trong giới nghiên cứu cũng nhƣ đông đảo
cơng chúng mới ngày càng đƣợc chính xác” [22, 349]. Sáu năm sau, quyển
sách đƣợc tái bản có bổ sung, đây cũng chỉ là cơng trình bƣớc đầu về tƣ liệu
thơ văn Cao Bá Quát.


9
Tình hình nghiên cứu về Cao Bá Quát sau năm 1975, trong điều kiện
nƣớc nhà thống nhất, Cao Bá Quát đƣợc nghiên cứu có quy mơ hơn, nhất
qn về quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu đã đƣợc gợi mở ở miền Bắc
trƣớc đó. Những cơng trình văn học sử cũng có những bƣớc tiến đáng kể
trong việc nghiên cứu có tính tồn diện về Cao Bá Qt, tiêu biểu nhƣ cơng
trình “Văn học sử” của tập thể tác giả Đại học Sƣ phạm (1978), của Nguyễn
Lộc (1978), của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1980). Điểm chung ở
các cơng trình văn học sử này là tác giả đã tiếp tục hƣớng nghiên cứu có từ
trƣớc qua các bài viết của Nguyễn Huệ Chi (1961) và lời giới thiệu của Vũ
Khiêu trong tập Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (1970), đã đi sâu thêm vào những
khía cạnh phong phú của con ngƣời và thơ văn Cao Bá Quát. Đặc biệt là
Nguyễn Lộc đã dành một số trang thích đáng, trong khn khổ của một cơng
trình lịch sử văn học, để nghiên cứu về nghệ thuật thơ của Cao Bá Quát một
cách có hệ thống từ quan niệm văn học đến những đặc điểm về phong cách
nghệ thuật của ông. Đây là đóng góp mới xét trong lịch sử nghiên cứu Cao Bá
Qt đến lúc đó. Về cơng trình chuyên biệt, không kể Tác phẩm Cao Bá Quát
(1982) của Nguyễn Nghiệp - một tác phẩm danh nhân truyện ký nhƣng có
nhiều đóng góp vì đƣợc viết nghiêm túc, đáng kể cịn có cơng trình Cao Bá
Qt, con người và tư tưởng (1980) của Nguyễn Tài Thƣ. Là nhà nghiên cứu
lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, trong cơng trình này, Nguyễn Tài Thƣ “chỉ nghiên
cứu về con ngƣời và tƣ tƣởng của Cao Bá Quát” [41, 6]. Nhƣng nghiên cứu
con ngƣời và tƣ tƣởng Cao Bá Quát qua thơ văn, Nguyễn Tài Thƣ cũng đã có
những đóng góp quan trọng trong lịch sử nghiên cứu Cao Bá Quát trên bình

diện sử học, văn học, vì nhƣ ơng cũng xác định “giải quyết đƣợc nó sẽ có điều
kiện sáng tỏ những vấn đề khác của Cao Bá Quát” [42, 7]. Quan niệm phƣơng
pháp nghệ thuật của Cao Bá Quát có nguồn gốc ở phƣơng pháp tƣ duy chung
của ông, tác giả Nguyễn Tài Thƣ cũng đã chú trọng đi vào nghiên cứu đặc


10
trƣng thơ Cao Bá Quát trên bình diện phong cách tƣ tƣởng, sắc thái tình cảm
và ngơn ngữ hình tƣợng. Về phƣơng diện tƣ tƣởng, Nguyễn Tài Thƣ đã cố
gắng xác lập đóng góp của Cao Bá Quát trong sự phát triển của lịch sử dân
tộc, tập trung ở khía cạnh là nhà tƣ tƣởng của phong trào nông dân, có quan
niệm tiến bộ về lịch sử và nhân sinh… Nhiều vấn đề trong chun luận này có
lẽ cịn phải bàn luận thêm, nhƣng nhìn chung, đặt Cao Bá Quát trong tiến
trình lịch sử tƣ tƣởng của dân tộc để xác định những nét riêng, những đóng
góp mới của Cao Bá Quát là cách làm khoa học, có ý nghĩa phƣơng pháp luận
cho nghiên cứu toàn diện Cao Bá Quát.
Các cơng trình khác rất đáng chú ý dù khơng phải là cơng trình chun
biệt về Cao Bá Qt, đó là cơng trình Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam
(1995) của Trần Ngọc Vƣơng. Một Cao Bá Quát - tài tử, đã đƣợc nói đến khá
nhiều ở miền Nam trƣớc 1975 nhƣng với cái nhìn hời hợt, phiến diện. Trần
Đình Hƣợu trƣớc đó và Trần Ngọc Vƣơng trong cơng trình này đã xác lập
đƣợc cái nhìn khoa học trên cơ sở khảo sát các tác giả, trong đó có Cao Bá
Qt, để nêu ra những đặc trƣng có tính loại hình học của một kiểu tác giả
giai đoạn văn học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Từ góc nhìn này, Trần
Ngọc Vƣơng đã ghi nhận “Nguyễn Du và Cao Bá Quát có lẽ là hai tác giả tiêu
biểu nhất” cho loại hình nhà Nho “coi tài năng, trƣớc hết là tài năng văn học,
là thƣớc đo quan trọng” [48, 109] và họ “chỉ có thể lƣu lại tên tuổi mình nhƣ
và chỉ nhƣ những nhà thơ xuất sắc” [49, 110]. Đây là hƣớng tiếp cận đầy triển
vọng cho phép đi sâu hơn vào việc nghiên cứu Cao Bá Quát trên nhiều bình
diện mà trƣớc hết là một Cao Bá Quát với tƣ cách là một tác gia văn học có

tính tiêu biểu cho một loại hình, một khuynh hƣớng văn học đặc sắc trong lịch
sử văn học Việt Nam trung đại.
Năm 2005, Ngơ Thị Anh trong khóa luận tốt nghiệp có tên Hình tượng
con người “dưới đáy” trong sáng tác của Cao Bá Quát (Khoa Ngữ Văn


11
Trƣờng Đại học Vinh), đã tiếp cận và chỉ rõ hình tƣợng con ngƣời dƣới đáy
trong sáng tác của Cao Bá Qt. Khóa luận đã nêu đƣợc hình tƣợng con ngƣời
dƣới đáy trong xã hội thời bấy giờ, và bi kịch dƣới đáy của chính Cao Bá
Qt. Đồng thời khóa luận đã khẳng định nghệ thuật biểu hiện con ngƣời dƣới
đáy, đấy là sự vận dụng thủ pháp tự sự một cách linh hoạt sắc sảo, nghệ thuật
ngôn từ, giọng điệu [1].
Cũng năm 2005, Phạm Thị Hồi Thƣơng trong khóa luận tốt nghiệp với
tên Cảm hứng nhân văn trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát (Khoa Ngữ Văn
Trƣờng Đại học Vinh), đã chỉ ra cảm hứng nhân văn trong thơ chữ Hán của
Cao Bá Quát. Đấy là sự khẳng định mạnh mẽ tài năng và phẩm chất cá nhân,
phê phán xã hội phong kiến thối nát, tình cảm sâu sắc tha thiết đối với gia
đình q hƣơng, lịng đồng cảm mênh mông với những ngƣời dân cùng khổ,
niềm trân trọng đối với những biểu hiện nhân văn trong lối sống Âu Tây [44].
Thật mừng và đáng chú ý là công trình Cao Bá Quát về tác gia và tác
phẩm (2007), do Nguyễn Hữu Sơn và Đặng Thị Hảo tuyển chọn và giới thiệu.
Đây là cơng trình sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu các cơng trình nghiên cứu
về Cao Bá Qt. Cơng trình này sƣu tầm những bài viết về vấn đề tiểu sử và
văn bản, vấn đề Cao Bá Quát trong bối cảnh thời đại và đặc sắc thơ văn Cao
Bá Qt. Đây là cơng trình tổng hợp, giúp cho việc nghiên cứu và tìm hiểu về
Cao Bá Quát đƣợc thuận lợi hơn.
Cao Bá Quát còn đƣợc các nhà nghiên cứu ngoài nƣớc quan tâm. Trong
bộ Văn học Việt Nam - Sơ thảo (1971), nhà Việt Nam học ngƣời Nga N. I.
Niculin đánh giá rất cao Cao Bá Quát và xác định một nét đáng chú ý của Cao

Bá Quát, coi “Cao Bá Quát (1809 - 1855) là một nhân vật có tính chất tƣợng
trƣng thực sự đứng giữa ngƣỡng của một giai đoạn mới trong lịch sử Việt
Nam” [26, 343]. Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp trong Sứ thần Việt Nam
Cao Bá Quát và nhận thức của ông qua chuyến đi công cán “Vùng Hạ Châu”


12
(1996, 1997) đã sử dụng thêm 7 bản dịch mới thơ do Cao Bá Quát làm trong
khi đi “Dƣơng trình hiệu lực” (Phan Đại Doãn dịch) cùng những bài dịch đã
phổ biến để tìm hiểu khá sâu sắc nhận thức của Cao Bá Quát khi tiếp xúc với
“vũ trụ bao la”. Vấn đề khơng mới nhƣng đã giúp có cái nhìn tồn diện hơn
về một bƣớc chuyển quan trọng trong tƣ tƣởng của Cao Bá Quát trong quá
trình tự nhận thức - khám phá của ông.
Đặc biệt một điều rất đáng mừng vào ngày 7/10/2008 tại trung tâm Văn
Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Hội nhà văn Việt Nam và Viện Văn học đã phối
hợp tổ chức Hội thảo khoa học về Cao Bá Quát, nhân kỷ niệm 200 năm ngày
sinh nhà thơ (1808-2008). Tham gia Hội thảo có 14 bản tham luận chủ yếu
tập trung vào 3 chủ đề chính nhƣ sau: 1.Cuộc đời, cốt cách, tƣ tƣởng ngƣời tri
thức Cao Bá Quát có các bản tham luận: “Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứhai cốt cách và thân phận tri thức trong mở đầu triều Nguyễn” (GS. Phong
Lê); “Cao Bá Quát - nhật ký trong đêm thế kỷ” (nhà văn Xuân Cang); “Thực
chất thái độ của Cao Bá Nhạ đối với Ca Bá Quát qua Tự tình khúc và Trần
tình văn” (TS. Đặng Thị Hảo); “Cao Bá Quát - một hành nhân cô độc của văn
học Việt Nam thế kỷ XIX” (ThS. Quách Thu Hiền): 2. Quan niệm văn học
của Cao Bá Quát có các bản tham luận: “Quan niệm văn học của Cao Bá
Quát” (GS. Trần Đình Sử); “Quan niệm văn chƣơng, học thuật của Cao Bá
Quát” (PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn); “Cao Bá Quát viết phê bình, lý luận” (nhà
thơ Ngô Văn Phú); “Cao Bá Quát với hoa mai‟ (nhà thơ Ngô Văn Phú): 3.
Giá trị thơ văn và vị trí Cao Bá Quát trong văn chƣơng và lịch sử có các tham
luận: “Thơ Cao Bá Quát đồng hành cùng chúng ta” (PGS.TS. Phan Văn Các);
“Cao Bá Quát thiên tài kỳ vỹ” (PGS.TS. Mai Quốc Liên); “Từ Thiên Cƣ

Thuyết đến sự thể hiện con ngƣời cá nhân trong thơ Cao Bá Quát” (PGS.TS.
Nguyễn Hữu Sơn); “Cao Bá Quát trong bảo tàng văn học Việt Nam” (TS.
Nguyễn An). Đây là Hội thảo khoa học khẳng định vị trí và vai trị của Cao
Bá Qt trong tiến trình văn học dân tộc.


13
Thật khó có thể bao quát hết đƣợc tƣ liệu nghiên cứu về Cao Bá Quát,
cũng nhƣ những vấn đề các nhà nghiên cứu đã đặt ra và giải quyết. Chúng tơi
chỉ dám xem những điều nêu trên là có tính phác thảo về một bức tranh khá
đa dạng của quá trình nghiên cứu, giới thiệu về Cao Bá Quát từ trƣớc tới nay.
Nhƣ vậy tình hình nghiên cứu về Cao Bá Qt, các cơng trình chủ yếu tập
trung vào vấn đề lịch sử con ngƣời Cao Bá Quát, còn văn chƣơng Cao Bá
Quát chủ yếu tập trung vào việc dịch thuật tác phẩm và vấn đề văn bản. Về
nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán các cơng trình chỉ mới bƣớc đầu tìm hiểu,
cho nên việc đi sâu tìm hiểu phân tích “Đặc điểm nội dung nghệ thuật thơ chữ
Hán Cao Bá Quát” là rất cần thiết để làm rõ thêm đặc sắc thơ chữ Hán Cao Bá
Quát trong nền Văn học Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu phần Kết luận và phần Tài liệu tham
khảo, phần nội dung gồm có 3 chƣơng.
Chƣơng 1. Con ngƣời và sự nghiệp văn chƣơng Cao Bá Quát.
Chƣơng 2. Đặc điểm nội dung thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Chƣơng 3. Đặc điểm hình thức nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.


14
Chƣơng 1

CON NGƢỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG

CAO BÁ QUÁT
1.1. Một số phận nhà nho đặc biệt
Cao Bá Quát (1808-1855), tự Chu Thần, hiệu Cúc Đƣờng và Mẫn Hiên.
Ngƣời làng Phú Thị, phủ Thuận Thành, trấn Kinh Bắc (Nay thuộc huyện Gia
Lâm, Hà Nội). Là em sinh đôi với Cao Bá Đạt. Ơng sinh ra trong một gia đình
có truyền thống nho học. Ngƣời cha thân sinh ra Cao Bá Quát muốn hai anh
em sau này lớn lên sẽ trở thành trụ cột của triều đình, nên lấy tên của hai hiền
sỹ đời Chu (Trung Quốc) cũng là hai anh em sinh đơi đặt tên cho con mình.
Cao Bá Qt là ngƣời thông minh tài giỏi, đậu cử nhân từ rất sớm (khoa Tân
Mão 1831 đời Minh Mệnh), nhƣng sau đấy trƣợt thi Hội. Năm 1841, vào kinh
giữ chức Hành Tẩu ở Bộ Lễ, tháng tám năm đó đƣợc cử làm sơ khảo trƣờng
thi Thừa Thiên. Cao Bá Quát cùng với một ngƣời bạn là Phan Nhạ dùng muội
đèn chữa lại một số bài văn hay nhƣng bị phạm huý. Việc bại lộ, bị hạ ngục
kết tội “Giảo giam hậu” (Chém nhƣng giam lại xét sau). Sau đƣợc xét lại và
chỉ bị cách chức. Năm 1844 đi “dƣơng trình hiệu lực”, phục dịch phái đồn
của triều đình đi cơng cán ở Hạ Châu (Tân Gia Ba), do tả tham tri Bộ Hộ Đào
Trí Phú dẫn đầu, ơng đƣợc đi phục dịch để lấy công chuộc tội. Khi về đƣợc
giữ chức cũ một thời gian, sau đó bị thải hồi, ơng trở về sống với gia đình ở
tỉnh thành Thăng Long, thƣờng ngao du xƣớng hoạ thơ với Trần Văn Vi, Diệp
Xuân Hiên… Năm 1847, Cao Bá Quát lại đƣợc triệu vào kinh đô Huế làm
việc ở viện Hàn Lâm. Thời gian này ông thƣờng xƣớng hoạ thơ văn với các
quan chức tại triều đình nhƣ Nguyễn Cơng Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn
Hàm Ninh, Bùi Ngọc Quỹ…thời gian này ông đã tận mắt chứng kiến những
cái xấu xa của đám vua quan ở triều đình và ơng khơng tiếc lời châm biếm đả


15
kích họ. Năm 1851, ơng rời kinh đơ Huế đi nhận chức giáo thụ phủ Quốc Oai,
Sơn Tây. Thời gian này vùng Sơn Tây hạn nặng, lại có nạn châu chấu, mất
mùa đời sống nhân dân khó khăn, họ nổi lên chống lại triều đình. Năm 1853

ơng thơi chức giáo thụ, liên lạc với quần chúng nhân dân. Mƣợn tiếng là phù
Lê, tơn Lê Duy Cự làm minh chủ, cịn ông tự xƣng Quốc sƣ kêu gọi nhân dân
đứng lên khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Cao Bá Quát chết, dòng họ
Cao bị chu di, kết thúc một sự nghiệp, một cuộc đời sóng gió, nhƣng mang
đầy tính nhân văn.
Trong lịch sử các triều đại phong kiến việt nam, có hai cái án tru di
đƣợc thi hành đối với hai con ngƣời có tài nhƣng cuộc đời đầy sóng gió, chìm
nổi đấy là Nguyễn Trãi và Cao Bá Qt, đây cũng là hai cái án gây nhiều
tranh cải và xót thƣơng trong lịch sử. Cao Bá Quát sống trong một giai đoạn
lịch sử đầy biến động, ông cũng giống nhƣ một số nho sỹ tài tử đƣơng thời,
họ thấy đƣợc xã hội ấy đang tan vỡ, mọi giá trị bị đứt đoạn khơng thể nào cứu
vãn. Vì vậy, họ khơng kế thừa đƣợc những giá trị có sẵn, điểm tựa duy nhất là
chính bản thân mình. Cao Bá Qt là ngƣời trong số đó. Cuộc đời sóng gió,
chìm nổi nhiều nhƣng Cao không chịu lùi bƣớc trƣớc cuộc đời, trái lại Cao
phản kháng chống lại triều đình một cách cƣơng quyết. Ẩn đằng sau sự phản
kháng ấy là một tấm lòng nồng hậu, bao dung. Cho nên, trong sáng tác văn
chƣơng của ông, đặc biệt là thơ chữ Hán có cái nhìn sắc sảo, cận cảnh về xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Với sự nhạy cảm của một tri thức trƣớc vận mệnh của dân tộc. Trƣởng
thành và lớn lên từ Nho học, nhƣng ơng khơng chịu khép mình vào khn
khổ ấy. Nhƣng chính Nho học đã hình thành một Cao Bá Quát với khí tiết
thanh cao, tâm hồn liêm khiết, ln có ý thức tu dƣỡng bản thân. Cho nên
trƣớc hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ, ông phản ứng mạnh mẽ sự tàn bạo của
vua quan, thông cảm sâu sắc với cuộc sống ngƣời dân bị áp bức bóc lột. Vua


16
quan bất tài, chỉ lo ăn chơi hƣởng thụ. Cuộc sống nhân dân ngày càng nghèo
đói, hạn hán, mất mùa diễn ra liên miên. Triều đình nhà Nguyễn vẫn khơng có
chính sách gì để làm cho cuộc sống của dân đƣợc ấm no, hạnh phúc. Hơn nữa

họ lại quay lƣng lại với những ngƣời tàì, có lịng nhiệt huyết, hết mình vì
nƣớc, vì dân. Cao là ngƣời có tài, và muốn đem tài của mình ra giúp dân giúp
nƣớc. Tâm huyết của Cao, nhà Nguyễn không màng tới, và ông khơng tin vào
triều đình nữa. Khơng đƣợc triều đình trọng dụng, ơng ln trăn trở về chí
làm trai. Rồi nhƣ Nguyễn Cơng Trứ nói:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời
(Bài Ca Ngất Ngƣỡng)
Hay:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi Thi Tự Vịnh)
Tƣ tƣởng ấy đã làm nên một Cao Bá Quát “quyết xoay bach ốc lại lâu
đài”. Cao Bá Quát có một trái tim trong sáng, với một khí tiết thanh cao nhƣ
đúng con ngƣời Cao.
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
(Mƣời năm bàn đạo ngao du, khó nhƣ tìm gƣơm cổ;
Một đời ta chỉ cúi đầu bái lạy hoa mai)
So với các nhà nho cùng thời đại, Cao có một cuộc đời lận đận, long
đong rất nhiều. Có cuộc sống nghèo khổ từ bé, tuy đậu cử nhân rất sớm (đậu
Á Nguyên, nhƣng khi triều đình xét lại bị đánh xuống cuối bảng), nhƣng thi
Hội mấy lần đều hỏng. Thi hỏng một phần do cá tính của Cao khơng chịu
khép mình vào khn khổ Nho Giáo, cộng với việc ơng có tài nên nhiều


17
ngƣời ghen ghét mà đánh hỏng. Khi làm sơ khảo trƣờng thi Thừa Thiên, khát
khao đƣợc gặp ngƣời tài, dẫn tới hành động chữa bài thi và bị hạ ngục, bắt
giam. Sau đƣợc xét lại thoát chết nhƣng từ đấy Cao Bá Quát phải sống chịu

cảnh quản thúc, giam lỏng. Phải phục dich phái đồn của triều đình đi Hạ
Châu để lấy công chuộc tội, sau một thời gian về nƣớc, vì có tài ơng lại đƣợc
triệu vào triều làm ở Viện Hàn Lâm, chủ yếu là làm công việc sắp xếp lại thơ
cho vua Tự Đức, một công việc nhàm chán, khơng thích hợp với cá tính của
Cao. Thời gian này ơng làm thơ châm biếm, đả kích khơng tiếc lời đối với
triều đình. Năm 1851 bị đẩy đi làm Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây một nơi
xa xơi hẻo lánh đối với triều đình lúc bấy giờ. Nhƣ hổ đƣợc trở về rừng, Cao
đã đứng hoàn toàn về phía quần chúng nhân dân, chống lại nhà Nguyễn. “Các
thiên tai đƣa đến sự đói khổ cho dân chúng, cùng sự cai trị thối nát của tham
quan ô lại làm dân chúng oán giận đã là những lý do chính cho sự khởi loạn
của Cao Bá Quát, ngƣời sĩ có tính hiên ngang, khơng phục nhà Nguyễn mà
vẫn tƣởng nhớ tới nhà Lê” [20]. Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lƣơng nổ ra, tất cả tâm
huyết một đời của Cao đƣợc thể hiện trên lá cờ của nghĩa quân.
Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục Dã, Minh Điều hữu Võ Thang.
(Ở Bình Dƣơng và Bồ Bản khơng có những vị vua hiền nhƣ Nghiêu Thuấn;
Ở Mục Dã, Minh Điều phải có những vua lập nghiệp bằng cách lật đổ triều
đình mục nát nhƣ Võ Vƣơng và Thành Thang).
Do chuẩn bị chƣa xong, bị lộ, cuộc khởi nghĩa phải diễn ra trƣớc so với
dự định. Chính vì thế, cuộc khởi nghĩa thất bại, Cao Bá Quát chết trong khi
chiến đấu với quân triều đình, dịng họ Cao bị chu di. “Trƣớc đây, nhiều
ngƣời cho rằng Cao Bá Quát là một ngƣời khinh bạc, kiêu ngạo và nhất là có
giấc mộng đế vƣơng. Nhƣng tác phẩm của ông, không hề thấy một tƣ tƣởng
hay một phong cách nào nhƣ thế! Nói đến tình quê hƣơng, tình bạn bè, nghĩa
vợ chồng, Cao Bá Quát lúc nào cũng chân thành tha thiết” [17].


18
Có thể nói suốt đời Cao Bá Quát là cuộc hành trình khơng nghỉ, lúc nao
nức, phấn khởi, tràn đầy hy vọng, khi chán nản ê chề, nhƣng kết quả cuối

cùng vẫn khơng tìm đƣợc đƣờng đi đúng đắn cho mình, khơng tìm đƣợc chính
mình là ai, và phải làm một điều gì để thực hiện khát vọng suốt một đời. Là
một tài năng lớn mà không đƣợc trọng dụng, thậm chí bị đẩy ra ngồi lề, bị tù
đầy, tra tấn rồi bị giết hại. Là ngƣời giàu lòng yêu nƣớc, thƣơng dân, từng
nhiều lần khóc thƣơng cho số phận những con ngƣời nghèo khổ bị đọa đầy
dƣới đáy xã hội. Bản án kia chỉ làm sáng tỏ thêm tấm lịng vì dân, vì nƣớc,
nhân cách cứng cỏi, cƣơng trực, tấm lòng nhân hậu, thắm thiết của một nhà
thơ tài trí khác thƣờng.
1.2. Một sự nghiệp văn chƣơng lớn
Từ trƣớc tới nay, Cao Bá Quát đƣợc nhắc tới trong nhiều truyền thuyết,
tài năng văn chƣơng của ông đƣợc đánh giá rất cao với tiền Hán, thịnh Đƣờng
và đƣợc coi nhƣ thần thánh. Nhân dân ta truyền tụng “Văn nhƣ Siêu, Quát vô
tiền Hán” hay “Thần Siêu, thánh Quát”.
Hiện nay ở kho sách cổ của thƣ viện khoa học trung ƣơng cịn giữ đƣợc
12 tập thơ, và 21 bài văn xi của Cao Bá Quát. Đây là một tài sản vô cùng
quý giá mà ông để lại cho đời. Một điều đáng tiếc là do chịu án chu di, nên
một phần lớn văn chƣơng ông bị thiêu huỷ hoặc thất lạc. Dƣới triều Nguyễn,
Cao bị xem là “tặc tử, loạn thần” nên khơng ai dám cất giữ những gì liên quan
đến Cao, kể cả những ngƣời bạn thân của Cao nhƣ Nguyễn Văn Siêu (Phƣơng
Đình) cũng khơng để lại một dấu tích gì liên quan đến Cao. Hiện nay, chúng
ta đã sƣu tầm đƣợc gần nghìn rƣỡi bài thơ chữ Hán, và 21 bài văn xuôi (chủ
yếu là sáng tác bằng chữ Nơm: Bài phú Tài tử đa cùng, một ít bài hát nói, thơ
đƣờng luật và câu đối). Nổi tiếng nhất trong thể loại văn xuôi này là bài Tài tử
đa cùng phú, nói lên chí nam nhi, giãi bày tâm trạng trong cảnh nghèo và thổ
lộ vài ý kiến của ơng về hồn cảnh xã hội đƣơng thời.


19
Trong lời giới thiệu thơ chữ Hán Cao Bá Quát, GS. Vũ Khiêu viết:
“Thơ văn Cao Bá Quát còn lại với chúng ta chính vì thơ văn ấy đã có giá trị

về tƣ tƣởng và nghệ thuật đƣợc nhiều ngƣời ghi chép và cất dấu, tinh thần của
ông chống bọn phong kiến nhà Nguyễn đã đƣợc nhân dân quý trọng” [18].
Cao Bá Quát là một nhà thơ và cũng là một ngƣời lãnh tụ phong trào nông
dân khởi nghĩa đầu thế kỷ XIX. Qua cuộc đời Cao Bá Quát và những truyền
thuyết về ông, ta thấy Cao là một ngƣời có bản lĩnh. Và văn chƣơng của ơng
thể hiện rõ điều ấy. Trong sáng tác của mình, Cao Bá Quát có một cái nhìn
riêng về cuộc sống, khơng tn theo cái nhìn của Nho giáo. Ơng thấm thía
đƣợc cái nghèo, nên ông khinh bỉ những ai sống khom lƣng, uốn gối để mƣu
cầu danh lợi. Ơng khơng tin vào triết lý tuần hồn hay định mệnh. Ơng tin vào
chính mình và hành động theo quan điểm sống của mình. Sống dƣới triều
đình chứng kiến sự bất lực, thối nát của vƣơng triều này. “Văn thơ của ơng
ln ln có một sự truyền tụng mãnh liệt. Dẫu vẫn theo khuôn sáo và lề lối
tầm chƣơng trích cú của văn chƣơng cổ điển, những tình ý đƣợc phơ diễn
trong văn thơ ơng đều chứng tỏ những suy tƣ và xúc động chân thành của một
ngƣời đã trải nhiều day dứt trong hoàn cảnh xã hội đƣơng thời” [47]. Cao Bá
Quát đã đứng về phía nhân dân, để bảo vệ họ. Khi cịn là quan trong triều
đình, ơng suy nghĩ rất nhiều, rồi quyết định phải hành động. Trong bài Dư hốt
ư mộng trung vãng thám tuần phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương
hữu niệm ngã giả, nhân ký tuần phủ kiêm Trình Đơn Nhân phạm tử (Ngẫu
nhiên nằm mơ đến thăm ơng tuần phủ, nghĩ thầm có lẽ các bạn ở kinh cũng có
ngƣời đang nhớ mình, nhân gửi bài này cho ông tuần phủ đồng thời gửi ông
Phạm Đôn Nhân).
Dĩ bất nhẫn văn Hoàng Điểu phú,
Khả năng độc ký Ngoạ Long ngâm?
(Đã khơng nỡ nghe bài thơ Hồng Điểu,
Lẽ nào chỉ gửi gấp vào khúc ngâm của Ngoạ Long?)


20
Trong sáng tác của Cao Bá Quát, ông luôn luôn đề cao cái đẹp. Cái đẹp

theo quan điểm của ông là sự thanh cao, thuần khiết. Cái đẹp ông theo đuổi là
suốt một đời chỉ cúi lạy trƣớc hoa mai mà thôi. Trong bài Tài Mai thể hiện rõ
điều này.
Thi tương mai tử trịch sơn gian,
Nhất ác thanh tư ký bích loan.
Ký thủ lai thời xn sắc hảo,
Dữ nhân cơng tác hoạ đồ khan.
(Thử đem một hạt mai ném lên trên núi,
Một nắm giống thanh tao gửi lên ngọn đá xanh.
Hãy nhớ lấy: sau này khi về xuân tƣơi tốt,
Sẽ thành một bức tranh cho mọi ngƣời xem chung.)
Đối với hoàn cảnh xã hội, trƣớc sự áp bức của vua quan ngày một tàn
nhẫn. Cao Bá Quát đã thể hiện sự ốn hận, ƣớc mơ và quyết tâm của mình.
Xích nhật hằng hà đạo?
Thương sinh thán kỷ hồi?
(Mặt trời đỏ lẫn đi đằng nào?
Để dân đen than thở mãi?)
(Đối vũ)
Nhìn chung, sáng tác văn chƣơng của Cao Bá Quát, đã theo đúng lý
tƣởng của nhà Nho, đem hết khả năng ra giúp đời, nhƣng giúp theo một quan
điểm của riêng Cao. Khơng bằng con đƣờng quan trƣờng, đó là sự xoá bỏ
vƣơng triều cũ, lập nên một vƣơng triều mới. Một vƣơng triều đem lại hạnh
phúc, ấm no cho nhân dân. Mặc dù khơng thực hiện đƣợc, nhƣng tấm lịng
của Cao Bá Quát thật cao cả, hợp lòng dân.
Đánh giá về sự nghiệp văn chƣơng của Cao Bá Quát sách Văn học 11
và Ngữ văn 11 nâng cao viết:


×