Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Những vấn đề pháp lý và thực tiễn xác định biên giới trên bộ giữa việt nam với trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.01 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN MÔN:
CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Đề tài số 11:
Những vấn đề pháp lý và thực tiễn xác định biên giới trên
bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc
Họ và tên: Nguyễn Văn X
Ngày, tháng, năm sinh:
Lớp:
Ngành:

Hà Nội, 4/2019
1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................3
I. KHÁI QUÁT VỀ BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG........................4
II. CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC NĂM 1979...........6
1. Chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979 - Nhìn từ góc độ
cơng pháp quốc tế......................................................................7
Sự bùng nổ của chiến tranh: jus ad bellum và jus in bello.....7
Chiến tranh trừng phạt dưới vỏ bọc “Đối Việt tự vệ hồn kích
chiến”......................................................................................8
2. Chiến tranh trừng phạt chưa bao giờ biến mất trong chính
trị quốc tế...................................................................................9
Những biện minh vụng về của Trung Quốc cho việc tiến hành
chiến tranh trừng phạt Việt Nam năm 1979..........................11


Khi chiến tranh trừng phạt khơng bị trừng phạt....................14
III. VÌ MỘT BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT – TRUNG HỊA
BÌNH, HỮU NGHỊ, ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN..................15
“Vĩ thanh’’.................................................................................17
CÁC NGUỒN THAM KHẢO:.................................................20

2


LỜI MỞ ĐẦU
Đối với mọi quốc gia, lãnh thổ quốc gia ln đóng vai trị là cơ
sở vật chất cho sự tồn tại của quốc gia, có giá trị thiêng liêng và
bất biến. Cùng với đó, lãnh thổ quốc gia cũng đóng vai trị đặc
biệt quan trọng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, góp phần
tạo dựng và thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước
láng giềng, trật tự pháp lý quốc tế, hịa bình và ổn định.
Lãnh thổ quốc gia, hiểu một cách đơn giản nhất, là một phần của
không gian Trái đất, bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và
lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn, riêng biệt và tuyệt đối của
một quốc gia. Dưới góc độ luật pháp quốc tế, lãnh thổ quốc gia
là một trong bốn yếu tố cấu thành một quốc gia. Chính vì vậy,
luật gia nổi tiếng người Anh Oppenheim đã từng nhấn mạnh:
“Khơng có lãnh thổ quốc gia thì khơng có nhà nước”.
Phạm vi khơng gian lãnh thổ của một quốc gia được xác định và
giới hạn bởi hệ thống đường biên giới của quốc gia đó với các
quốc gia láng giềng, hoặc các khu vực lãnh thổ có quy chế quốc
tế. Biên giới quốc gia được xác định là hàng rào pháp lý xác
định giới hạn vùng đất, vùng nước, vùng biển, vùng trời và lòng
đất thuộc chủ quyền quốc gia; là nơi phân chia chủ quyền lãnh
thổ của một quốc gia với một quốc gia khác, hoặc khu vực có

quy chế pháp lý quốc tế.
3


Là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á và tiếp giáp Biển
Đơng, Việt Nam vừa có biên giới trên đất liền, vừa có vùng biển
chồng lấn với các quốc gia láng giềng. Đồng thời, việc bảo vệ
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đang đứng trước những thách thức mới và đặt ra
những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp. Do đó, việc giải quyết dứt
điểm vấn đề chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia với các nước
có liên quan là một trong những ưu tiên hàng đầu của Quốc gia
mà còn đối với mọi người dân, đặc biệt là sinh viên Luật. Vì
vậy, em sẽ chọn đề tài số 11 “Những vấn đề pháp lý và thực tiễn
xác định biên giới trên bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc” để
phân tích.
I.

KHÁI QUÁT VỀ BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG
Điều 1 trong Luật Biên giới quốc gia của Việt Nam năm
2003 xác định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo
đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo,
các quần đảo, trong đó có quần đảo Hồng Sa và quần đảo
Trường Sa, vùng biển, lịng đất, vùng trời của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
4


Đường biên giới Việt - Trung từ thế kỷ thứ X là đường biên

giới vùng, mang tính tập quán, chưa được xác định bằng các văn
bản pháp lý quốc tế. Với Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895,
Pháp và Nhà Thanh đã xác định biên giới, đánh dấu bằng 314
cột mốc, ghi nhận trên bản đồ tỷ lệ 100.000. Tuy nhiên vẫn còn
nhiều khu vực còn để trắng, chưa cắm mốc, chưa được giải
quyết triệt để như thác Bản Giốc, cửa sông Bắc Luân, nhiều cột
mốc qua thời gian và chiến tranh đã bị hư hại, dịch chuyển, địa
hình tại thực địa nhiều nơi không phù hợp với bản đồ gây khó
khăn cho việc quản lý. Đường biên giới được thể hiện trong
Nghị định thư PGCM và các bản đồ, phụ lục kèm theo ký trong
tháng 11/2009 là thành quả của hơn nửa thế kỷ quan tâm giải
quyết của Đảng và Chính phủ hai nước (tính từ ngày 2/11/1957,
Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư cho
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị
hai bên giải quyết vấn đề biên giới trên cơ sở tôn trọng Đường
biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để
lại và mọi tranh chấp có thể bằng đàm phán và thư tháng 4/1958
của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý), là
35 năm với 4 đợt đàm phán lớn (từ 1974 đến 2009), trong đó đợt
đàm phán cuối cùng dài nhất với 18 năm nỗ lực liên tục trên
đàm phán và thực địa nhằm hoạch định và PGCM biên giới Việt
Nam – Trung Quốc (1991 – 1999: đàm phán, ký Hiệp ước biên
giới trên đất liền; 2000 – 2008 đàm phán, phân giới, cắm mốc
trên thực địa, 2008 - 2009 đàm phán xây dựng Nghị định thư
PGCM). Tồn bộ đường biên giới dài 1.449,566km, (trong đó
đường biên giới trên đất liền là 1.065,652km, đường biên giới
nước là 383,914km) được đánh dấu bằng 1971 cột mốc cho
1378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ (một vị trí trên thực
địa có thể được đánh dấu bằng 1, 2 hoặc 3 mốc tuỳ theo quy
định và thực địa). Mốc số 0 là giao điểm đường biên giới ba

5


nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc là mốc lớn được làm bằng
đá hoa cương, có ba mặt, gắn quốc huy của ba nước, đặt trên
đỉnh núi Khoan La San (Shi Ceng Da Shan), có độ cao là
1.866,23m, tọa độ địa lý 22º 24' 02,295" vĩ độ Bắc, 102º 08'
38,109" kinh độ Đông, theo Hiệp định về ngã ba biên giới năm
2007 ký giữa CHXHCN Việt Nam, CHDCND Lào và CHND
Trung Hoa. Mốc cuối cùng 1378 là mốc đơn, loại trung, làm
bằng đá hoa cương, đặt trên phía Đơng Nam bãi Dậu Gót (Heng
Shi Sha Zhou), có độ cao là - 1,01m, tọa độ địa lý 21º 30'
15,244''vĩ độ Bắc, 108º 04' 08,974''kinh độ Đông. Mốc được
thiết kế đặt trên đế mốc bằng beton hình trịn cao gần 10 m bảo
đảm khi thuỷ triều lên (4-5m), mốc vẫn nổi trên mặt nước. Từ
mốc cuối cùng này biên giới theo trung tuyến sông kéo đến giới
điểm 62 và cũng là điểm bắt đầu của biên giới biển trong Vịnh
Bắc Bộ. Mô tả chi tiết hướng đi của đường biên giới được ghi ở
Phần II của Nghị định thư PGCM, đồng thời đường biên giới
được thể hiện trên “Bản đồ biên giới trên đất liền giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa”, tỷ lệ 1: 50.000. Nghị định thư PGCM cũng lần
đầu tiên quy định rõ ràng các cồn bãi trên sông suối quy thuộc
giữa hai nước. Phù hợp với luật pháp quốc tế, sau khi Nghị định
thư này có hiệu lực, bất kỳ sự thay đổi của địa hình, sơng suối
thực địa đều khơng làm thay đổi vị trí của đường biên giới đã
phân giới, trừ khi hai Bên có thỏa thuận khác. Đường biên giới
sẽ được tiến hành kiểm tra liên hợp 10 năm một lần để bảo
dưỡng duy trì sửa chữa mốc giới. Hai khu vực thác Bản Giốc và
Cửa sơng Bắc Ln sẽ có quy chế pháp lý đặc thù. Nhằm tạo sự

thuận lợi cho tàu thuyền hai bên qua lại khu vực cửa sông Bắc
Luân và hợp tác khai thác tiềm năng du lịch khu vực thác Bản
Giốc, hai bên tiến hành đàm phán và sẽ ký kết Hiệp định về quy
chế tự do đi lại của tàu thuyền ở khu vực cửa sông Bắc Luân và
6


Hiệp định hợp tác khai thác tiềm năng du lịch thác Bản Giốc
trong năm 2010.

Lễ cắm cột mốc 1116, một trong những cột mốc cuối cùng trên
tuyến biên giới Việt Nam-Trung Quốc, tháng 12/2008.
Nghị định thư và các văn kiện đính kèm gồm bộ bản đồ địa
hình khu vực biên giới Việt - Trung, có thể hiện đường biên giới
và vị trí các mốc giới (35 mảnh); tập "Bảng đăng ký mốc giới";
tập "Bảng toạ độ, độ cao mốc giới" và tập "Bảng quy thuộc các
cồn, bãi trên sông suối biên giới" có khối lượng khoảng hơn
2.200 trang văn bản. Đây là Hiệp định biên giới đầy đủ nhất, lớn
nhất mà Việt Nam ký với một nước láng giềng trong lịch sử của
mình.

Nhưng đó có phải tất cả?

7


II. CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC NĂM 1979

Trên đồi Pù Tèo Hào hơm ấy, chiến sĩ Lê Đình Chinh ngã xuống
sau một nhát dao của những kẻ thù mặc thường phục tràn từ bên

kia biên giới sang. Anh vừa 18 tuổi. Sau này,
người ta tìm thấy một lá thư anh Chinh viết ba
ngày trước hơm đó.
"Em xác định rằng trong cuộc chiến đấu
bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc
sẽ có mất mát, cái đó khó mà tránh khỏi.
Nhưng em đã sẵn sàng".
Lê Đình Chinh
Người ta gọi Lê Đình Chinh là chiến sĩ đầu
tiên hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới
phía Bắc. Ngày 25/8 trở thành dấu mốc của sự
căng thẳng leo thang. Phía Trung Quốc bắt
Liệt sĩ Lê Đình Chinh
đầu tăng tuần suất bắc loa qua biên giới tun truyền kích
động
bằng tiếng Việt.
Giai đoạn đó, hai bên đều chưa có động thái qn sự chính thức.
Nhưng phía Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng việc chống lại một
cuộc tấn công: dân quân được huy động để cắm chơng dọc biên
giới. “Mình cứ cắm nó lại nhổ” - Âu Xuân Thành, một trong 3
người lính của làng Trường Lâm may mắn trở về, nhớ lại.
Căng thẳng cứ thế tiếp diễn trong hơn nửa năm tiếp theo, cho
đến khi kẻ thù đi bước đầu tiên của mình.
8



Nhiều năm sau này, người trong vùng vẫn nhớ cái đêm con trai
cơ Dén chết. Đồn người sơ tán từ thị xã Cao Bằng, lần rừng về
cầu Tài Hồ Sìn, tìm đường xi về Bắc Kạn, Thái Ngun,

những vùng chiến sự chưa lan tới. Gặp một trại lính Trung
Quốc, đồn người bấm nhau đi thật khẽ. Đúng lúc, từ phía nhà
cơ Dén có tiếng ọ ọe của trẻ con. Thằng bé bú no nê và được ủ
ấm, đã thức giấc. Cơ Dén loay hoay tìm cách để nó thơi khóc. Ai
nấy nín thở, đã có tiếng thì thào gắt gỏng. Dưới áp lực sống của
hàng trăm con người, người mẹ đã bịt chặt miệng con để nó
khơng cịn phát ra tiếng kêu nữa. Thằng bé càng giãy, mẹ nó
càng bịt chặt. Đồn người vượt qua bản, thằng bé cũng khơng
cịn thở nữa. Nó mới hai tháng tuổi. Người mẹ ơm chặt con
không nấc lên được tiếng nào. Một ngôi mộ cỏn con được đắp
vội bên đường. Những bước chân nặng nề bước tiếp. Đó là một
khung cảnh biên giới phía Bắc Việt Nam tháng 2 năm 1979, nơi
Đặng Tiểu Bình tuyên bố đang tìm kiếm "sự bình yên nơi biên
viễn".

1. Chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979 - Nhìn từ góc
độ cơng pháp quốc tế
“Khi đại bác lên tiếng thì luật pháp im lặng” - câu nói này
khơng chỉ đúng với cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung năm
9


1979. Những thiết chế chính trị - an ninh quốc tế đã không thể
cứu Việt Nam khỏi một cuộc chiến với đất nước anh em chung ý
thức hệ và chung đường biên giới. Tuy nhiên, khi độ lùi của lịch
sử đã đủ để cho phép nhìn lại cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đẫm
máu này, cần thiết phải đặt sự bùng nổ của cuộc chiến dưới lăng
kính cơng pháp quốc tế. Chỉ khi nhìn nhận lại cuộc chiến dưới
các chuẩn mực cơng pháp quốc tế, thì hai nước - hai dân tộc,
cũng như cộng đồng quốc tế mới thực sự rút ra được bài học

kinh nghiệm, để tránh những hiểm họa binh đao trong tương lai.

Sự bùng nổ của chiến tranh: jus ad bellum và jus in bello

10


Hiểu một cách khái quát, công pháp quốc tế là hệ thống các
quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể
công pháp quốc tế (mà chủ yếu là các quốc gia). Luật chiến
tranh có lẽ là một bộ phận ra đời sớm nhất của công pháp quốc
tế, gắn liền với lịch sử chiến tranh của loài người.
Hai nhóm vấn đề quan trọng của luật chiến tranh, đó là jus
ad bellum (quyền tiến hành/phát động chiến tranh), và jus in
bello (quyền hành xử/ứng xử trong chiến tranh). Jus ad bellum
là tập hợp các chuẩn mực, các lí do hợp pháp để tiến hành một
cuộc chiến tranh vũ trang; còn jus in bello là “bộ quy tắc ứng
xử” của các bên tham chiến, nhằm lại giảm sự đau khổ và hậu
quả của chiến tranh, như quy chế đối xử với tù binh, với dân
thường, không sử dụng một số loại vũ khí như bom chùm, vũ
khí xạ sinh hóa (NBC) …
Trong phần này, chủ yếu tập trung phân tích về sự bùng nổ
của cuộc chiến, dưới góc độ jus ad bellum. Câu hỏi nghiên cứu
chủ yếu được đặt ra là: Liệu Trung Quốc có đủ lí do hợp pháp để
tiến hành chiến tranh chống Việt Nam hay không? Và lí do thực
sự của cuộc chiến là gì?

11



Chiến tranh trừng phạt dưới vỏ bọc “Đối Việt tự vệ hồn
kích chiến”
Trong lịch sử, thường có ba lí do để biện minh về quyền tiến
hành chiến tranh của một quốc gia (jus ad bellum): Đó là:
(i) Tự vệ (self-defence)
(ii) Chiến tranh phòng ngừa (preventative war)
(iii) Chiến tranh trừng phạt (punitive war).
Tuy nhiên, sau năm 1945, thì chỉ cịn các cuộc chiến tranh tự
vệ là hợp pháp, theo điều 51 của Hiến chương Liên Hợp Quốc
(Khơng có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn
hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường
hợp thành viên Liên hợp quốc bị tấn công vũ trang cho đến khi
Hội đồng bảo an chưa áp dụng được những biện pháp cần thiết
để duy trì hồ bình và an ninh quốc tế). Ngoài ra, sự ra đời của
định chế Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc cũng hợp pháp hóa
các hoạt động quân sự thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an.
Với cuộc chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979, phía
Trung Quốc gọi đây là “Đối Việt tự vệ hồn kích chiến”, tức
Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam. Điều này mang hàm
ý rằng đây là một cuộc chiến tự vệ, phù hợp với điều 51 Hiến
chương Liên Hợp Quốc. Song trên thực tế, các bằng chứng lịch
sử và những lập luận pháp lý đã bóc trần cuộc chiến này như
12


một cuộc chiến tranh trừng phạt, để “dạy cho Việt Nam một bài
học” như lời của ơng Đặng Tiểu Bình.
Lẽ dĩ nhiên, đặt trong bối cảnh chính trị thế giới sau năm
1945, khi mà chỉ có các hành vi tự vệ được cho phép, thì tất cả
các quốc gia - khơng chỉ Trung Quốc - đều tìm cách biện minh

cho cuộc chiến như là một hành vi tự vệ. Điều này dẫn đến một
câu hỏi: Điều gì phân biệt một cuộc chiến tranh tự vệ với một
cuộc chiến tranh trừng phạt?

2. Chiến tranh trừng phạt chưa bao giờ biến mất trong
chính trị quốc tế
Một cách chung nhất, chiến tranh trừng phạt có thể được
định nghĩa là sự phản ứng cao nhất của một quốc gia đối với một
quốc gia khác, vì một hành vi được cho là sai trái. Hành vi sai
trái này được coi là lí do cho sự trừng phạt, giúp gia tăng tính
chính nghĩa của cuộc chiến.
Thời kì Trung cổ, các cuộc chiến tranh trừng phạt thường
nhân danh Chúa. Trong thời kì hiện đại, với sự phát triển của các
định chế an ninh quốc tế như Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc,
quan điểm về việc một quốc gia có thể trừng phạt một quốc gia
khác bằng chiến tranh ngày càng mất chỗ đứng. Chỉ còn một số
13


học giả vẫn ủng hộ chiến tranh trừng phạt. Những học giả này
dựa vào hai lập luận chính để bảo vệ việc tiến hành chiến tranh
trừng phạt, đó là:
(i)

Chiến tranh trừng phạt được thực hiện như một sự trả
đũa (retribution) nhằm cân bằng lại những điều mà
quốc gia trừng phạt đã phải chịu đựng đối với quốc gia
bị trừng phạt.
(ii) Một cách thực dụng để khôi phục trật tự quốc tế, bằng
cách trừng phạt một quốc gia cho đến khi quốc gia đó

từ bỏ việc xâm phạm trật tự quốc tế.
Xét trong trường hợp của cuộc chiến tranh biên giới phía
bắc, Trung Quốc cũng sử dụng những quan điểm nói trên để
biện minh cho việc phát động chiến tranh, theo đó chiến tranh
biên giới phía bắc được phát động để trả đũa lại việc Việt Nam
phát động chiến tranh biên giới tây nam để lật đổ chế độ Polpot,
đồng thời cũng là để buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Cam-puchia. Cách lập luận này xuất phát từ một giả định cho rằng có
những quốc gia “bình đẳng” hơn các quốc gia khác, có quyền áp
đặt trừng phạt lên một chủ thể đồng đẳng với mình. Rõ ràng,
điều này đi ngược lại tinh thần của Hiến chương Liên Hợp Quốc
về sự bình đẳng giữa các quốc gia.

14


Mặc dù chiến tranh trừng phạt đã bị cấm bởi Hiến chương
Liên Hợp Quốc, song nhiều quốc gia vẫn sử dụng hình thức này
- dưới vỏ bọc chiến tranh tự vệ. Một ví dụ tương tự cuộc chiến
tranh biên giới năm 1979, là việc Mỹ đã hủy diệt một nửa lực
lượng hải quân Iran, để đáp trả việc tàu hộ vệ USS Samuel B.
Roberts bị trúng thủy lôi của Iran trong vịnh Ba Tư năm 1988.
Iran sau đó đã kiện Mỹ ra Tịa án Cơng lý Quốc tế (ICJ) vào
năm 1992. Mặc dù ICJ kết luận rằng hành động của Mỹ là phi lí,
nhưng phán quyết này cũng khơng củng cố thêm yêu sách bồi
thường của Iran, hay lập luận về sự tự vệ của phía Mỹ.
Trong giai đoạn cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, các cuộc
chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất và thứ hai, cuộc chiến ở Nam
15



Tư, ở Libya … đều mang dấu ấn của chiến tranh trừng phạt, khi
mà nước Mỹ đã thể hiện vị trí như một “cảnh sát quốc tế”, áp đặt
các quốc gia khác theo các chuẩn mực chính trị của mình.
Giả định cơ bản về chiến tranh trừng phạt, đó là việc một
quốc gia hay một cộng đồng các quốc gia đã bị xâm phạm bởi
một quốc gia khác. Do đó, quốc gia này thực hiện các biện pháp
đáp trả tương ứng, bao gồm việc sử dụng lực lượng vũ trang tiến
hành chiến tranh trừng phạt. Những người ủng hộ chiến tranh
trừng phạt cho rằng quốc gia bị trừng phạt cần phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình, nếu khơng, các khuôn khổ về chủ
quyền quốc gia và chuẩn mực quốc tế sẽ bị ảnh hưởng. Tuy
nhiên, trong bối cảnh đã tồn tại các định chế an ninh quốc tế như
Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, thì việc trao cho một quốc gia
quyền được trừng phạt quốc gia khác là khơng hợp lí.

Những biện minh vụng về của Trung Quốc cho việc tiến
hành chiến tranh trừng phạt Việt Nam năm 1979
Dưới góc độ chính trị, việc phát động chiến tranh của Trung
Quốc nhằm nhiều mục đích, như “chia lửa” cho đồng minh là
chế độ Polpot, tàn phá tiềm lực kinh tế - quân sự của Việt Nam,
thử phản ứng của Liên Xơ và khối qn sự Warsaw trong tình
16


huống nổ ra chiến tranh lớn với Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ
về chính trị - kinh tế - kĩ thuật của Mỹ và phương Tây, cũng như
các mục tiêu chính trị nội bộ khác …
Tuy nhiên, dưới góc độ pháp luật quốc tế, thì việc phát động
chiến tranh chống Việt Nam được Trung Quốc biện minh như là
một sự tự vệ đáp trả lại việc Việt Nam gây ra xung đột ở biên

giới phía bắc, và phát động chiến tranh ở biên giới tây nam
chống chế độ Polpot. Trong hồn cảnh Liên Xơ đứng về phía
Việt Nam, và sử dụng quyền phủ quyết (veto) ở Hội đồng bảo an
Liên Hợp Quốc, Trung Quốc và các đồng minh không thể nhân
danh Liên Hợp Quốc để thực hiện một hành động quân sự chống
Việt Nam, mà chỉ có thể tố cáo Việt Nam “xâm lược” Cam-puchia ở diễn đàn quốc tế này, để củng cố tính “chính nghĩa” của
cuộc chiến. Mặc dù chiến tranh trừng phạt là bị cấm theo Hiến
chương Liên Hợp Quốc, song qui định về “tội phạm xâm lược”
(crime of aggression), hay khái niệm “mối đe dọa với hịa bình”
(threat to peace) lại rất mơ hồ, khiến cho Hội đồng bảo an Liên
Hợp Quốc rất linh động trong giải thích và áp dụng.
Trước hết, Trung Quốc đã vi phạm khoản 4, điều 2 của Hiến
chương Liên Hợp Quốc (Tất cả các quốc gia thành viên Liên
hợp quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh
thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như
bằng cách khác trái với những mục đích của Liên Hợp Quốc).
17


Trung Quốc chắc chắn đã sử dụng vũ lực qui mô lớn, khi huy
động hơn 600.000 quân cho một cuộc chiến tranh xâm lược
(war of aggression) Việt Nam.

Thêm vào đó, Trung Quốc không thể biện minh cho cuộc
xâm lược này là một hành vi tự vệ chống Việt Nam, bởi việc tự
vệ theo điều 51 Hiến chương Liên Hợp Quốc phải là sự đáp trả
lại một cuộc tấn công vũ trang (armed attack). ICJ định nghĩa
tấn công vũ trang là việc quân đội chính quy của một quốc gia
xâm phạm đến toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia khác. Chỉ khi

đó, quốc gia bị tấn cơng mới có quyền tự vệ đáp trả. Trên thực
tế, khơng có bằng chứng nào về một cuộc tấn công vũ trang từ
18


Việt Nam chống Trung Quốc. Những xung đột (mà chủ yếu do
Trung Quốc gây ra) ở đường biên trước ngày 17/02/1979 chỉ
được coi là những xung đột biên giới (border clash). Trong
những cuộc xung đột đó, cả hai phía đều gần như khơng sử dụng
hỏa khí, và lực lượng tham gia chủ yếu chỉ là lính biên phịng và
dân qn ở biên giới. Những xung đột biên giới (do chính Trung
Quốc gây ra) không phải là một cuộc tấn công vũ trang, để tạo
ra cái cớ cho Trung Quốc tiến hành phản kích tự vệ.
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Trung Quốc cũng
không phù hợp với các tiêu chuẩn của jus ad bellum về sự cần
thiết (necessary) và sự tương xứng (proportional). Về sự cần
thiết, mặc dù điều này khơng được giải thích rõ ràng, nhưng có
thể hiểu khái quát rằng: việc tiến hành chiến tranh phải là giải
pháp cuối cùng (last resort), khi khơng cịn giải pháp phi vũ lực
nào khác. Quốc gia tiến hành chiến tranh tự vệ phải chứng minh
rằng việc tự vệ phải cần thiết, tức thời, áp đảo, khơng cịn giải
pháp thay thế, và khơng có thời gian để cân nhắc. Trên thực tế,
thì Trung Quốc khơng hề có nỗ lực tìm kiếm các giải pháp ngoại
giao song phương và đa phương để giải quyết vấn đề biên giới
với Việt Nam, trước khi bắt đầu tiến hành chiến tranh. Cuộc
chiến tranh Việt Nam đã được dự tính trước, vượt khỏi khn
khổ tự vệ, và Trung Quốc cũng không gặp phải nguy hiểm tức
thời từ các xung đột biên giới với Việt Nam đến mức buộc phải
tiến hành chiến tranh mà khơng có thời gian để cân nhắc.
19



Cuộc chiến tranh chống Việt Nam năm 1979 của Trung
Quốc cũng không hề tương xứng với thực tế biên giới hai nước
khi đó. Sự tương xứng có thể xem xét đối với qui mô sử dụng vũ
lực, cũng như với mục tiêu chiến tranh. Về qui mô sử dụng lực
lượng, Việt Nam chỉ duy trì các đơn vị cơng an nhân dân vũ
trang (biên phòng - border guard) cùng với dân quân tự vệ ở sát
đường biên. Trong các cuộc xung đột, phía Việt Nam thường bị
áp đảo, và rất hạn chế sử dụng hỏa lực, mà chủ yếu là đụng độ
bằng chân tay, hay các vũ khí lạnh. Đến trước chiến tranh, các
quân khu biên giới của Việt Nam cũng chỉ có 7 sư đồn và một
số trung đồn độc lập, với tổng quân số chỉ khoảng từ 70.000100.000 qn. Trong khi đó, trực tiếp tham chiến bên phía Trung
Quốc là 30 sư đoàn bộ binh, cùng nhiều đơn vị binh chủng như
xe tăng, pháo binh, phịng khơng … với tổng quân số lên đến
600.000 quân. Có nơi quân Trung Quốc đánh sâu vào biên giới
Việt Nam đến 50km, bao vây cả các sư đoàn chủ lực của Việt
Nam, chiếm và hủy diệt một số thị xã tỉnh lị của Việt Nam như
Lạng Sơn hay Cao Bằng. Qui mô sử dụng lực lượng này khơng
tương xứng với tính chất của các cuộc xung đột biên giới trước
ngày 17/02/1979, cũng khơng hề tương xứng với mục đích tự vệ
mà Trung Quốc tuyên truyền.
Trên phương diện liên hệ với cuộc chiến chống chế độ
Polpot của Việt Nam ở biên giới tây nam, Trung Quốc cho rằng
Việt Nam đã xâm lược Cam-pu-chia, và cần phải “dạy cho Việt
20


Nam một bài học” - một cách nói ẩn dụ của việc trừng phạt Việt
Nam. Tuy nhiên, việc trả đũa vũ trang (armed reprisal) đã bị

cấm bởi Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trung Quốc phải thông
qua các thủ tục tại Chương VII của Hiến chương để phản ứng
với Việt Nam, nếu như cho rằng các hành vi của Việt Nam là
một cuộc chiến tranh xâm lược.

Khi chiến tranh trừng phạt khơng bị trừng phạt
Với những phân tích ở trên, có thể thấy rõ rằng: Cuộc chiến
tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là vi phạm
nguyên tắc không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, cũng
không thể được biện minh bằng quyền tự vệ theo điều 51 của
Hiến chương Liên Hợp Quốc. Việc phát động chiến tranh không
đảm bảo những tiêu chuẩn về sự cần thiết và sự tương xứng của
một cuộc chiến tranh tự vệ.
Tương phản lại với điều này, là cuộc chiến tranh biên giới
tây nam do Việt Nam phát động cuối tháng 12/1978, chống lại
chế độ Polpot ở Cam-pu-chia. Việt Nam đã phải hứng chịu nhiều
cuộc tấn công vũ trang qui mô lớn từ Polpot trong suốt giai đoạn
1975-1978. Mức độ sử dụng binh lực ngày càng tăng dần, mà
đỉnh điểm là việc Polpot huy động đến 19 trong tổng số 23 sư
21


đồn chủ lực để vượt biên giới tấn cơng Việt Nam. Nói cách
khác, từ một xung đột biên giới, những hành động chống Việt
Nam của chế độ Polpot đã trở thành một cuộc tấn cơng vũ trang
thực sự. Phía Việt Nam cũng đã sử dụng nhiều giải pháp ngoại
giao, tận dụng nhiều diễn đàn quốc tế để cố gắng hòa giải xung
đột biên giới. Việc phản công tự vệ lại quân Khmer Đỏ là phù
hợp với pháp luật quốc tế, là giải pháp cuối cùng, và là sự đáp
trả tương xứng với qui mô của cuộc chiến.

Thế nhưng, điều trớ trêu là địn phản cơng tự vệ của Việt
Nam chống Polpot lại bị coi là một cuộc chiến tranh xâm lược
Cam-pu-chia, và là cái cớ để nhiều nước lên án Việt Nam trên
trường quốc tế. Việc Trung Quốc tiến hành chiến tranh chống
Việt Nam vào tháng 02/1979 rõ ràng là một cuộc chiến trừng
phạt - điều đã bị cấm bởi Hiến chương Liên Hợp Quốc. Song
với vị thế là một ủy viên thường trực Hội đồng bảo an, có quyền
phủ quyết, Trung Quốc đã không phải chịu một phản ứng nào
mang tính thực tế, ngoại trừ những phê phán ở cấp độ quốc gia,
đến từ một số đồng minh của Việt Nam như Liên Xơ hay Cuba.
Nói cách khác, ngoại trừ việc mất uy tín trên trường quốc tế do
tính phi lí của cuộc chiến tranh, và những tổn thất quân sự
không tương xứng với tương quan lực lượng hai bên trong chiến
cuộc, Trung Quốc không phải gánh chịu những hậu quả lớn từ
cuộc chiến tranh trừng phạt này.
22


Cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
năm 1979 là một ví dụ điển hình cho một cuộc chiến tranh trừng
phạt trong thế kỉ XX - một cuộc chiến tranh trừng phạt ẩn dưới
lớp áo tự vệ. Dù Hiến chương Liên Hợp Quốc đã cấm hình thức
trừng phạt bằng chiến tranh, thì các cường quốc vẫn chưa bao
giờ từ bỏ cơng cụ này trong địa hạt chính trị quốc tế. Jus ad
bellum - những tiêu chuẩn về tính chính nghĩa khi phát động
chiến tranh - đã bị lạm dụng để biện minh cho những hành động
chiến tranh trừng phạt của một số nước lớn.

III. VÌ MỘT BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT – TRUNG
HỊA BÌNH, HỮU NGHỊ, ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT

TRIỂN
Tiếp theo Nghị định thư PGCM, việc ký chính thức Hiệp
định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và
quản lý cửa khẩu mở đầu cho thời kỳ mới trong quản lý biên
giới hai nước. Hai văn kiện này sau khi có hiệu lực sẽ thay thế
"Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các cơng việc trên vùng
biên giới hai nước giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và
nước CHND Trung Hoa" ký ngày 7/11/1991. Hiệp định về cửa
khẩu và quản lý cửa khẩu quy định rõ hệ thống cửa khẩu song
23


phương và cửa khẩu quốc tế cùng chế độ pháp lý của chúng. Hai
bên xác nhận 9 cặp cửa khẩu quốc tế đã được mở trên vùng biên
giới gồm Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà, Lào Cai - Hà Khẩu
(đường bộ), Lào Cai - Hà Khẩu (đường sắt), Thanh Thủy - Thiên
Bảo, Trà Lĩnh - Long Bang, Tà Lùng - Thủy Khẩu, Đồng Đăng Bằng Tường (đường sắt), Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng
Cái - Đơng Hưng và tên 13 cửa khẩu khác sẽ được mở khi có đủ
điều kiện, thời gian và thể thức mở cụ thể sẽ do hai Bên thoả
thuận qua đường ngoại giao. Hiệp định quy chế quản lý biên
giới với 11 Chương và 54 Điều quy định cụ thể nội dung các
hoạt động trên biên giới, các cơng trình biên giới, chế độ qua lại
biên giới, chế độ kiểm tra, hợp tác giải quyết các vụ việc biên
giới. Hiệp định đã tiếp thu các kinh nghiệm quản lý biên giới
giữa hai nước trong thời gian qua, các Hiệp định quy chế quản
lý biên giới hai nước đã ký với các nước láng giềng như Hiệp
định quy chế quản lý biên giới Việt - Lào 1977, Hiệp định quy
chế quản lý biên giới Trung - Nga 2008. Nội dung của Hiệp
định mang tính hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu mới, đặc biệt
các quy định mới về cơ chế tổ chức quản lý thơng qua các Đại

diện biên giới.
Ngồi ý nghĩa lần đầu tiên xác định rõ ràng một đường biên
giới giữa hai nước nêu trên, việc ký kết 3 văn kiện lần này đã
góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác truyền
thống Việt - Trung. Như đánh giá của Ban đối ngoại Trung ương
24


Đảng Cộng sản Trung Quốc đã viết trong Tạp chí Thế giới
đương đại số 4/2009: “Trong thế kỷ XX, quan hệ này đã một
thời xấu đi, trong đó tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới là
một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến những căng thẳng
trong quan hệ song phương. Vì thế việc giải quyết ổn thoả vấn
đề biên giới, kết thúc lịch sử “có biên khơng có giới”, xây dựng
biên giới Trung - Việt thành biên giới hồ bình ổn định lâu dài
khơng những là nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai nước,
mà còn là vấn đề lớn trong quá trình hai nước giải quyết đầu tiên
và có được bước đột phá triệt để kể từ khi bình thường hố quan
hệ đến nay”. Hồn thành PGCM và ký kết các văn bản pháp lý
quản lý biên giới đất liền cho thấy mối quan hệ láng giềng đoàn
kết hữu nghị giữa hai nước đã bước thêm một bước vững chắc
trên tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai và trên cơ sở
tin cậy lẫn nhau. Hai trong ba vấn đề biên giới do lịch sử để lại
trong quan hệ Việt – Trung là đường biên giới đất liền và Vịnh
Bắc Bộ đã được giải quyết. Các bài học trong giải quyết phân
định Vịnh Bắc Bộ và biên giới đất liền sẽ là kinh nghiệm quý
báu cho hai nước cũng như các nước có liên quan hợp tác tìm
một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề biển Đông trên cơ sở
tôn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, tơn trọng
luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển của Liên hợp

quốc năm 1982.
25


×