Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Lý thuyết phát triển thương mại của Hồ Chí Minh và cách mạng công nghiệp 4.0 - định hướng vận dụng nhằm phát triển thương mại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.16 KB, 12 trang )

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN THƯƠNG MAI CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ CÁCH MẠNG
CƠNG NGHIỆP 4.0 - ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
THEORETICAL TRADE DEVELOPMENT OF PRESIDENT HO CHI MINH AND THE
INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 - ORIENTATION OF APPLICATION THE TRADE
DEVELOPMENT OF VIETNAM TODAY
TS. Lê Trung Kiên
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Email:
Tóm tắt
Lịch sử nhân loại đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Trong thời điểm cuộc cách mạng công
nghiệp 2.0 và 3.0 đang diễn ra trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng đấu tranh giải phóng
dân tộc thốt nạn “bần cùng”, đưa đất nước đến thống nhất, từng bước xác lập hoạt động thương mại và phân
phối trong nền kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đất nước đang đổi mới toàn diện, đặc biệt là nền kinh
tế phát triển theo hướng hiện đại là minh chứng cho việc kế thừa những giá trị đúng đắn về lý thuyết phát triển
thương mại của Hồ Chí Minh và tận dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới. Điều
đó, địi hỏi Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt vận dụng sáng tạo di sản Hồ Chí Minh và ứng dụng
những thành tựu thương mại của nhân loại nhằm phát triển thương mại hiệu quả ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Lý thuyết phát triển, Hồ Chí Minh, thương mại
Abstract
Human history has undergone four industrial revolutions. When the industrial revolution 2.0 and 3.0
took place, President Ho Chi Minh led the revolution in the struggle to liberate the country from “poverty”,
bringing the country to unity, and gradually establishing trade and distribution activities in the economy to go
up to socialism. Up to present, the country is comprehensively renovating, especially the economy towards
modernization, which is the proof for inheriting the right values of Ho Chi Minh's trade development theory and
taking advantage of the the fruits of the industrial revolution in the world. That, the State needs to continue
researching, thoroughly applying Ho Chi Minh heritage and applying the commercial achievements of mankind
to develop effective trade in Vietnam.
Keywords: Development theory, Ho Chi Minh, trade



1. Lý thuyết phát triển thương mại của Hồ Chí Minh
Lý thuyết phát triển thương mại của Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm nhằm định
hướng và giải quyết những trao đổi hàng hóa trực tiếp hay gián tiếp giữa các bên trong nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu tiến dần lên chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm mở rộng khả năng tiêu dùng, không
ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tư tưởng của Người về phát
triển kinh tế thương mại thể hiện rõ trong những chặng đường lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sự nghiệp
cách mạng từ chế độ dân chủ mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, chứa đựng những tư tưởng mới mẻ, hiện đại, rất khoa học và cách mạng, bao
gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nâng cao đời sống nhân dân, về xây
dựng và phát triển sản xuất, về đặc điểm, mục đích và cơ cấu kinh tế; về hiệu quả và nguyên tắc quản
lý kinh tế,… có ý nghĩa thời sự và giá trị định hướng sâu sắc trong quá trình xây dựng chiến lược phát
triển thương mại của Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, về mục tiêu phát triển thương mại nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân. Trong lý luận và thực tiễn, Người khẳng định vai trò của việc phát triển kinh tế thương mại
158


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

của đất nước có sự kết hợp chặt chẽ, mật thiết, hài hòa và tác động lẫn nhau của các mặt chính trị, văn
hóa, xã hội. Khi vạch ra nhiệm vụ xây dựng và phát triển từng mặt của đời sống xã hội, theo Người,
xây dựng từng mặt của đời sống không thể tách rời, riêng lẻ, đơn thuần, mà gắn chặt với xây dựng các
mặt khác và là tổng hòa của các mặt khác. Trong đó, kinh tế ln là lĩnh vực nền tảng, có vai trò quyết
định chi phối sâu sắc các lĩnh vực: tâm lý, luân lý, xã hội, chính trị. Xuất phát từ thực tiễn đất nước,
Người chỉ đạo cụ thể: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng
nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu

dài”1. Toàn bộ những quan tâm của Người về thương mại đảm bảo lợi ích thiết thân cho người dân,
làm sao cho nhân dân đủ ăn, mặc, ở, học hành, đi lại, chữa bệnh,… Người yêu cầu thực hiện ngay: “1.
Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành”2.
Đây là mục tiêu, là thước đo có ý giá trị trong mỗi chính sách và biện pháp phát triển thương mại nước
ta. Người cho rằng: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân
dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi… Nếu dân đói, rét, dốt,
bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng khơng thực hiện được”3.
Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của việc phát triển thương mại xã hội chủ nghĩa là cải thiện và
nâng cao đời sống nhân dân. Người khẳng định: “Điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của
chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân”4. Năm 1961, Người đặt câu hỏi và tự
trả lời: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”5. Mục đích nâng cao
đời sống của nhân dân chi phối các quan hệ làm chủ, độc lập, tự do và là cơ sở để xây dựng đường lối,
kế hoạch và cách thức tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tận dụng mọi nguồn lực để điều tiết sản xuất hàng hóa và thực hành tiết kiệm: Động
lực thúc đẩy phát triển sản xuất bền vững. Vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế thương mại là làm sao
tăng năng suất lao động, điều mà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin coi là thước đo cho sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, chỉ có thể thực hiện mục tiêu phát
triển cơng nghiệp hóa mới phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa. Cơng nghiệp hóa là xu hướng
tất yếu để phát triển kinh tế bền vững, góp phần thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, giải phóng sức lao
động, huy động nguồn vốn lớn và công nghệ hiện đại, tạo ra năng suất cao. Ngay từ sau khi lập quốc,
Người đã chủ trương hội nhập sâu rộng để phát triển thương mại: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận
thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của
mình…Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên hiệp quốc”6. Mở cửa hợp tác tạo ra cơ hội lớn để có thể thúc đẩy thương mại quốc tế, kiến thiết
quốc gia. Người cho rằng: “Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để
sản xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ
chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những
việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành cơng nghiệp làm ra máy, ra gang,

thép, than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta: Con đường cơng nghiệp hóa nước nhà”7.
Cơng nghiệp hóa đặt ra những yêu cầu mới về việc tổ chức quản lý kinh tế thương mại cần chú trọng

                                                            
1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 12, tr. 412.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 4, tr. 175.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 9, tr. 518.
4
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 10, tr. 314.
5
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 13, tr. 30. 
6
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 4, tr. 523.
7
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 12, tr. 445.
2

159


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

khâu then chốt “phải đẩy mạnh quản lý xí nghiệp, và cán bộ, cơng nhân phải thạo kỹ thuật; các cơ
quan lãnh đạo thì phải đi sâu đi sát, phục vụ sản xuất”1.
Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm mang tính chiến lược: Tăng gia sản xuất đi đôi với thực
hành tiết kiệm. Tiết kiệm là sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực để gia tăng sức mạnh toàn diện
của đất nước. Nếu khơng tiết kiệm thì của cải được sản xuất ra như gió vào nhà trống, nên phải “tiết

kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi”2. Tiết kiệm trong sản xuất là yêu cầu bắt buộc
trong hoạch định và thực thi chiến lược phát triển kinh tế. Người khuyên nhân dân tích cực sản xuất,
cần cù lao động nhưng phải thực hành tiết kiệm; không chỉ tiết kiệm về của cải, tiền bạc, thời gian, sức
lực (sức dân), mà tiết kiệm cả trong tiêu dùng của cải. “Tiết kiệm nghĩa là: 1 giờ làm xong công việc
của 2, 3 giờ; 1 người làm bằng 2, 3 người; 1 đồng dùng bằng giá trị 2, 3 đồng”3. Người không coi tiết
kiệm đồng nghĩa với bủn xỉn, manh mún, hà tiện, coi đồng tiền to như cái nống (cái nong); Người nói:
“Tiết kiệm khơng phải là bủn xỉn. Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có
việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng
vui lịng”4. Người chỉ ra mục đích của việc tiết kiệm: “Phải chặt chẽ hơn nữa trong việc dùng tiền dành
dụm của chúng ta, để tiến nhanh tới cuộc sống no ấm đầy đủ cho mọi người”5. Thậm chí, Người đề ra
phương châm “kiệm lời” để phát triển thương mại là “nói thì phải làm”, “nói ít, bắt đầu bằng hành
động”6. Với các cơ quan đoàn thể, Người khun khơng nên họp nhiều, phải hết sức tránh “tình trạng
là hội mà không nghị, nghị mà không quyết, quyết rồi mà không làm”7.
Người đặt vấn đề ai ai cũng phải tiết kiệm thời gian, sức lực và tiền bạc của riêng mình. Sự cần
thiết phải tiết kiệm khơng chỉ xuất phát từ yêu cầu đạo đức cá nhân, mà còn xuất phát từ yêu cầu của
bộ máy và dây chuyền sản xuất. Trong hoạt động thương mại, chỉ cần một kẽ hở tồn tại thì tiền bạc sẽ
theo đó lọt ra ngồi và cơng phá mạnh mẽ vào tồn bộ hệ thống, làm kẽ hở ngày càng bung ra. Vì thế,
muốn “vít kín các lỗ thủng, các kẽ hở, không để của cải dành dụm của chúng ta bị hao hụt, phân tán”8,
tất cả mọi người đều phải chung sức, đồng lịng thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Người khẳng
định: “Lãng phí tuy khơng lấy của cơng đút túi, song kết quả cũng tai hại cho nhân dân, cho Chính
phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ơ”9. Nó tai hại hơn bởi chỉ những cán bộ có chức có quyền mới có
thể tham ơ nhưng bất kể con người nào, ở vị trí nào cũng dễ dàng lãng phí tiền bạc, thời gian, sức lực
của mình, của cơ quan và của xã hội.
Thứ ba, xúc tiến thương mại theo đúng nguyên tắc, đảm bảo hiệu quả chế độ phân phối. Hồ
Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của sự phát triển thương mại nhằm đạt được mục tiêu cách mạng,
và Người đã đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của việc phát triển thương mại trong mỗi giai
đoạn cách mạng khác nhau, nhưng đều thể hiện nguyên tắc quản lý xúc tiến thương mại: phù hợp cơng bằng - có lợi - tiết kiệm - hiệu quả.
Trong quản lý thương mại, Người chú trọng vai trị của chính phủ với tư cách là cơng cụ điều
tiết tồn bộ nền kinh tế và với tư cách là một chủ thể của một thành phần kinh tế. Chính phủ xây dựng
cơ chế, chính sách quản lý thương mại, xúc tiến thương mại, điều tiết cán cân thương mại và tạo ra các

đòn bẩy kích thích sự phát triển thương mại tập trung trong những lĩnh vực chủ yếu; đảm bảo sự quản
lý tập trung của nhà nước và vừa đảm bảo quyền tự chủ của cơ quan, đơn vị kinh tế chủ quản. Người
chủ trương: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào,
việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hỗn, hay bỏ, món nào đáng tiêu, người nào đáng dùng, tất cả mọi
                                                            
1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 13, tr. 376.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 122.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 124.
4
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 123.
5
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 12, tr. 467.
6
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 3, tr. 457.
7
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
tr.139.
8
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 12, tr. 467.
9
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 357.
2

160


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020


thứ đều phải tính tốn cẩn thận”1. Trong ngun tắc hạch tốn thương mại thì phải lấy hiệu quả kinh tế
làm thước đo, do vậy, người quản lý thương mại phải biết sử dụng các đòn bẩy kinh tế để đạt hiệu quả
cao. Người nêu lên các vấn đề giá, lương, tiền, thuế, khoán, thưởng và phạt với tư cách là những đòn
bẩy trong các lĩnh vực khác nhau sẽ kích thích lao động, sản xuất nhiều - nhanh - tốt - rẻ, tạo ra sản
phẩm ích nước, lợi nhà.
Người nhấn mạnh không được cào bằng trong thương mại, trong phân phối theo số lượng và
chất lượng lao động, để không triệt tiêu động lực của sự phát triển. “Trong cơng tác lưu thơng phân
phối có hai điểm quan trọng phải luôn luôn nhắc nhở: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không
sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n”2. Người khẳng định: “Phân phối phải theo mức lao động. Lao
động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít… Khơng nên có tình trạng
người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ cũng cơng điểm như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải
tránh chủ nghĩa bình quân”3. Trong quản lý cần chú ý thực hiện: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm… Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho
dân”4. Liên quan đến nguyên tắc phân phối theo lao động, Người cũng đề cập đến cách thức và hiệu
quả việc làm khoán trong sản xuất. “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó
khuyến khích người cơng nhân ln ln tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khốn là ích chung và lại
lợi riêng…; làm khốn tốt thích hợp và cơng bằng dưới chế độ ta hiện nay… làm khốn phải nâng cao
số lượng, nhưng luôn luôn giữ vững chất lượng”5.
Trong tổ chức và cán bộ quản lý phát triển thương mại, địi hỏi “phải tìm cách tổ chức sắp đặt
cho hợp lý, để một người có thể làm việc như hai người, 1 ngày có thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng chí
có thể dùng bằng 2 đồng chí”6. Người địi hỏi người quản lý thương mại cần giữ vững nguyên tắc dần
dần, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, tránh chủ quan, gị ép, phơ trương hình
thức. Người khun “chớ ham làm mau, ham rầm rộ”7, mà bám sát vào đặc điểm, tình hình cũng như
kinh nghiệm trong quản lý kinh tế. “Kế hoạch sản xuất không định theo cách quan liêu, mà phải liên
hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính tốn rõ rệt sức hậu bị của ta. Kế hoạch
không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên
xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm của ta”8. Đặc điểm lớn nhất của cán bộ quản lý
thương mại có liên quan đến nhiều vật tư, tiền của, rất dễ bị cám dỗ, tha hóa, biến chất, nếu khơng
khéo sẽ gây thất thoát, hậu quả xấu cho cơ sở kinh tế. Vì vậy, Người địi hỏi trong thương mại thì

“quản trị phải dân chủ, công bằng, minh bạch”9, quản lý phải có những phẩm chất, tư cách và tiêu
chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Thứ tư, mở rộng mơ hình và cách thức phát triển thương mại. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Người chủ trương nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Ở
thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “Sở hữu của Nhà nước tức
là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người
lao động riêng lẻ. Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”10. Về thành phần kinh tế, theo
Hồ Chí Minh, trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: “A- Kinh tế quốc doanh
(thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã
hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ cơng nghệ (có thể tiến
                                                            
1

Hồ Chí Minh (1990), Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb. TTLL, H, tr. 82-83.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 15, tr. 224.
3
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 13, tr. 216.
4
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 5, tr. 81.
5
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 10, tr. 537-538.
6
Hồ Chí Minh (1990), Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb. TTLL, H, tr. 82.
7
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 9, tr. 466.
8
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 7, tr. 365-366.
9
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 13, tr. 200. 
10

Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 372.
2

161


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như
Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)”1.
Xét về cơ cấu kinh tế thơng thường trên ba góc độ đó là cơ cấu theo ngành, cơ cấu theo thành
phần, cơ cấu theo vùng lãnh thổ, trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Theo Người, vì nước ta là
một nước nông nghiệp nên trong cơ cấu ngành kinh tế phải coi trọng nông nghiệp mà trước hết là sản
xuất lương thực. Người chỉ ra ba ngành kinh tế có mối liên hệ hữu cơ với nhau là: nơng nghiệp, cơng
nghiệp, thương nghiệp (Trong lịch sử thì: phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi
trí bất hưng). Trong đó, thương nghiệp là khâu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp. Nếu khâu thương
nghiệp bị đứt thì khơng liên kết được nơng nghiệp với cơng nghiệp, khơng củng cố được liên minh
cơng nơng. Nói về vai trị của nơng nghiệp, Người chỉ rõ nơng nghiệp khơng chỉ giải quyết vấn đề
lương thực mà cịn cung cấp nguyên liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, công nghiệp, đồng thời cung
cấp lâm thổ sản để mở rộng bn bán với nước ngồi. Phải phát triển nơng nghiệp toàn diện, đồng thời
coi trọng nghề rừng, nghề cá, nghề muối…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề người quản lý thương mại cần phải định hướng xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với mở rộng hợp tác đa dạng các loại hình thương mại trong nước và
quốc tế nhằm phát huy nội lực, tiềm năng, thế mạnh của đất nước và tranh thủ thời cơ, điều kiện thuận
lợi của quốc tế để phát triển kinh tế. Phát triển thương mại phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính
trị, với tiến bộ xã hội và đạo đức con người, qua đó mà củng cố hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy, Người đặc biệt quan tâm việc nâng cao tinh thần xã hội chủ nghĩa và tinh thần tập thể, chống chủ
nghĩa cá nhân, tạo động lực cần thiết cho sự phát triển.
Khi Hồ Chí Minh sống trong thời đại mà sự phát triển kinh tế - xã hội chưa đặt ra những yêu
cầu cấp bách về bảo vệ môi trường, nhưng với tầm nhìn chiến lược, Người đã có những tư tưởng giá

trị sâu sắc về vấn đề này. Trong cách diễn đạt của Người, tuy không trực tiếp đề cập đến thuật ngữ
“phát triển bền vững” như hiện nay nhưng những nội dung, mục tiêu, nguyên tắc, mối quan hệ giữa
các nhân tố trong phát triển bền vững đều đã được Người đề cập đến từ rất sớm, thậm chí có những dự
báo hết sức chính xác, tồn diện, hệ thống về những nội dung liên quan đến phát triển bền vững, trong
đó: phúc lợi xã hội phải quan tâm đến gia đình thương binh, liệt sĩ, có cơng với cách mạng; đồng bào
dân tộc thiểu số,…
2. Cách mạng công nghiệp 4.0
Chủ trương xây dựng Việt Nam trở thành nước công nghiệp “giàu mạnh” đã được nhất quán từ
trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong đường lối chiến lược của Đảng, Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay. Quá trình phát triển nền kinh tế đất nước đã và đang chịu sự tác động mạnh mẽ của các
cuộc cách mạng công nghiệp từ trước đến nay. Mỗi sự thay đổi của các yếu tố kinh tế, khoa học công
nghệ trên thế giới đều tạo ra những thách thức và cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế, địi hỏi các nhà
hoạch định chính sách cần nhạy bén, định hướng mục tiêu và cách thức phát triển kinh tế cho phù hợp
với xu thế chung của thời đại, nhưng vẫn đảm bảo giữ vững giá trị cốt lõi và bền vững như lý thuyết
phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh đã bàn đến: mục tiêu mang lại lợi ích cho nhân dân; đẩy mạnh sản
xuất và thực hành tiết kiệm; phát triển theo nguyên tắc và hiệu quả kinh tế; tận dụng mọi nguồn lực để
phát triển; hợp tác, ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi khoa học công nghệ,… Ngày nay, cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 ra đời trên nền tảng cách mạng công nghiệp 3.0, đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh,
nhiều diễn biến khó lường, tác động đến kinh tế tồn cầu, trong đó có Việt Nam.
Thứ nhất, đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0. Theo GS. Klaus Schwab, người Đức,
Chủ tịch và người sáng lập Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF): Cách mạng công nghiệp 4.0 là “một
cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các hệ
thống vật lý trong không gian ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và internet của các dịch vụ (IoS). Cách
mạng công nghiệp 4.0 là nền tảng để kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ từ mơ hình dựa vào tài ngun, lao
                                                            
1

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 8, tr. 293-294. 

162



Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

động chi phí thấp sang kinh tế tri thức, tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, chính phủ, doanh nghiệp
và người dân tồn cầu, làm thay đổi căn bản cách thức sinh hoạt, làm việc và sản xuất, kinh doanh của
con người. Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự đột phá chưa từng có về sự tinh vi, về năng suất với nền
sản xuất điều khiển - vật lý, tích hợp các cơng nghệ bậc cao. Đặc trưng của cách mạng công nghiệp
này là: Con người có khả năng cộng tác chặt chẽ với máy móc, chủ yếu được thực hiện dựa trên cơng
nghệ thơng tin (internet kết nối vạn vật); quá trình sản xuất được nhìn thấy từ các hình ảnh ảo của nhà
máy (kết nối ảo và thực); năng suất cao, hiệu quả kinh tế tối ưu, giảm bớt quy trình hoạt động, rút ngắn
thời gian sản xuất, hạn chế được lãng phí; cách thức phát triển đa dạng, mơ hình dịch vụ linh hoạt được
sử dụng các thiết bị thông minh; nguyên tắc kiểm soát phân phối được thực hiện triệt để, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của con người. Điển hình là các loại “sản phẩm thông minh” như máy thông minh nhân
tạo (AI), rô bốt, mạng lưới kết nối vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), các phương tiện không người
lái, công nghệ in 3D, công nghệ thực tế ảo (AR/VR), công nghệ di động không dây (wifi), công nghệ
tin học lượng tử (quantum information technology), công nghệ nano (nanotechnology), công nghệ sinh
học,… Xét về bản chất, cách mạng cơng nghiệp 4.0 là bước phát triển mới ở trình độ cao hơn của kinh
tế tri thức.
Thứ hai, tác động đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Việt Nam là quốc gia đang trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều
cơ hội trong việc nâng cao trình độ cơng nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản
phẩm; tạo ra sự thay đổi lớn về hình thái kinh doanh dịch vụ; tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn và đầy tiềm
năng trong lĩnh vực công nghệ số và Internet đồng thời cũng là cơ hội lớn cho sản xuất cơng nghiệp với
trình độ khoa học và cơng nghệ tiên tiến. Việc ứng dụng các xu hướng công nghệ tiên tiến, hiện đại như
trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học,… sẽ làm cho lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, cách thức sản xuất thay đổi theo chiều hướng tích cực và hiệu quả hơn. Với
việc ứng dụng những công nghệ này, sẽ khơng cịn lợi thế về ngn tài ngun thiên nhiên và nguồn
nhân công lao động rẻ, sản xuất sẽ có xu hướng dịch chuyển từ các quốc gia có nhiều lao động phổ thơng

sang những nước có nhiều lao động chuyên môn cao và gần thị trường tiêu thụ hơn. Hiện Việt Nam có
khoảng 55,5 triệu người trong độ tuổi lao động, đa số trình độ phổ thơng, và đây chính là đối tượng bị
robot thay thế cơng việc nhiều nhất. Tổ chức Lao động Quốc tế của Liên hiệp quốc cho biết trong 10
năm tới, 86% lao động Việt Nam trong ngành da giày có thể bị mất việc vì robot. Trong khi đó, Số liệu
của Tổng cục Thống kê cho thấy năng suất lao động của Việt Nam vẫn quá thấp so với các quốc gia
trong khu vực, chỉ bằng 4,4% so với Singapore, 17,4% so với Malaysia, 32,5% với Thái Lan, 48,5% với
Philippines và 48,8% của Indonesia… Vì thế, có thể nói, thách thức lớn nhất mà của cách mạng công
nghệ 4.0 đối với Việt Nam là phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng cao mà khơng thể thay thế bằng bằng
máy móc tự động hay robot và yêu cầu đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhiều lĩnh
vực của Việt Nam có tính cấp thiết. Sự phát triển kinh tế tri thức sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Những chuyển
biến này mang đến nhiều cơ hội phát triển kinh tế Việt Nam.
Internet phát triển mạnh, là mạng chia sẻ thơng tin và mọi thứ; tận dụng điều đó thì nền kinh tế
chia sẻ phát triển trong quy mô nhỏ và có thể vượt ra khỏi quốc gia, lãnh thổ. Với sự chia sẻ này, các
doanh nghiệp và người tiêu dùng có thể tiết kiệm chi phí, tăng cường bảo vệ mơi trường, giảm lãng phí
tài ngun của xã hội, tăng năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế cao.
Cách mạng cơng nghiệp 4.0 có tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạt động xây dựng chiến lược
và tác nghiệp của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ sử dụng cơ cấu tổ chức theo hướng ít tập trung
hơn. Vì vậy, hệ thống quản lý của doanh nghiệp cũng cần thay đổi để có thể dễ dàng kiểm sốt, quản
lý được các yếu tố của hạ tầng kinh doanh mới. Sự dịch chuyển mạnh mẽ hơn của kinh tế tri thức
khiến cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp được chú
trọng thực hiện. Sự chuyển dịch mạnh mẽ hơn về kinh tế tri thức khiến cho các hoạt động nghiên cứu
và phát triển, đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp được chú trọng thực hiện. Các doanh nghiệp được
trang bị khả năng phản ứng nhanh nhạy với môi trường hơn, đặc biệt về cách thức tổ chức sản xuất và
163


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

phân phối sản phẩm, sử dụng năng lượng mới, tăng năng xuất lao động. Tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 sẽ làm một số ngành và lĩnh vực kinh doanh mới xuất hiện, một số ngành truyền

thống sẽ mất đi.
Thứ ba, những yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Mỗi cuộc chuyển đổi cách mạng công nghiệp đều đặt ra yêu cầu phải thay đổi kỹ năng để đáp
ứng điều kiện làm việc mới và cuộc cách mạng 4.0 cũng không phải ngoại lệ. Đối với Việt Nam, cách
mạng công nghiệp 4.0 sẽ là cơ hội tốt để bứt phá và phát triển, là một “cơ hội vàng” để đi tắt đón đầu
cơng nghệ, ứng dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ của nhân loại, trước hết là công nghệ thông
tin, công nghệ số, công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất cả
các khâu của nền kinh tế. Từ đó giúp thu hẹp khoảng cách và đuổi kịp những nước đi trước trong khu
vực và thế giới thông qua tiếp thu, làm chủ và ứng dụng nhanh vào sản xuất, quản lý những tiến bộ,
thành tựu khoa học và cơng nghệ. Để đạt được mục tiêu đó, vai trị và ảnh hưởng của cách mạng công
nghiệp 4.0 cần được nghiên cứu thấu đáo để nhận dạng rõ những cơ hội và thách thức to lớn của cuộc
cách mạng này ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau, qua đó đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cụ
thể, thiết thực nhằm vượt qua các thách thức cũng như tận dụng các cơ hội mà cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 mang lại.
Tuy nhiên, nếu không bắt kịp nhịp độ phát triển của thế giới và khu vực, Việt Nam sẽ phải đối
mặt những thách thức, tác động tiêu cực như: Sự tụt hậu về công nghệ, suy giảm sản xuất, kinh doanh;
dư thừa lao động có kỹ năng và trình độ thấp gây phá vỡ thị trường lao động truyền thống, ảnh hưởng
tới tình hình kinh tế xã hội đất nước; mất an tồn, an ninh thơng tin, xâm phạm bản quyền, thiếu hụt
nguồn nhân lực trình độ cao. Mặt khác, có khả năng xuất hiện làn sóng đẩy cơng nghệ lạc hậu từ các
nước phát triển sang các nước đang phát triển và chậm phát triển. Do những thay đổi mang tính cách
mạng về khoa học và cơng nghệ dẫn tới thay đổi mạnh mẽ về cơ cấu, mô hình kinh tế, hệ thống quản
lý nhà nước, xã hội cũng như phương thức hoạt động của các doanh nghiệp. Cách mạng công nghiệp
4.0 cũng đặt ra những thách thức đối với một số ngành, lĩnh vực cụ thể như: Yêu cầu về đổi mới công
nghệ trong lĩnh vực công nghệ thơng tin; đẩy mạnh khoa học phân tích và quản lý và xử lý dữ liệu lớn
tạo ra tri thức mới, hỗ trợ việc đưa ra quyết định và tạo lợi thế cạnh tranh. Yêu cầu về đổi mới mơ hình
quản lý, sản xuất, tối ưu hóa mơ hình kinh doanh, thiết lập chuỗi cung ứng và hậu cần thơng minh
trong mạng lưới chuỗi giá trị tồn cầu và mơ hình thuế quan mới. u cầu về hệ thống quản lý sở hữu
trí tuệ mới, tốt hơn trong thời đại số. Yêu cầu cao hơn về bảo đảm an tồn, an ninh thơng tin mạng.
Tóm lại, những u cầu đặt ra cho việc phát triển kinh tế Việt Nam là: Hợp tác mạnh mẽ giữa
khoa học, công nghệ và sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong khu vực doanh

nghiệp tư nhân; triển khai ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi các công nghệ mới; hợp tác quốc tế trong
nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ; ưu tiên tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có thành tích
khoa học cơng nghệ xuất sắc.
3. Định hướng vận dụng lý thuyết phát triển kinh tế Hồ Chí Minh và giải pháp đón nhận cơ hội
của cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay
Lý thuyết phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 hiện nay cần
được nhận thức đầy đủ, quán triệt, nghiên cứu, nhận diện tồn diện, có tiến trình, vận dụng sáng tạo
những giá trị lý luận và thực tiễn cho phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước và xu thế của thế giới hiện nay. Vì thế, quá trình xây dựng và phát triển kinh tế
Việt Nam cần định hướng vận dụng quan điểm sau:
Thứ nhất, nhìn nhận xu hướng phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại là xu thế
phát triển tất yếu trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm định hướng xây dựng đất nước theo hướng
công nghiệp, Người chỉ rõ: “Muốn bảo đảm đời sống sung sướng mãi mãi phải công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, phải xây dựng cơng nghiệp nặng. Như thế phải vừa cải thiện đời sống, vừa tích lũy. Cải
164


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

thiện đời sống từng bước theo khả năng, đồng thời phải tích lũy để kiến thiết”1. Muốn thực hiện được
điều này đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế của Nhà nước. Nhà nước phải
thực hiện tốt các chính sách kinh tế: chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập, chính
sách cơng, chính sách đối ngoại,… Trong bối cảnh tồn cầu hóa, kinh tế Việt Nam chịu tác động tồn
diện của cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0, đòi hỏi chúng ta phải nhanh nhạy, chớp cơ hội, đẩy nhanh
q trình phát triển “rút ngắn” thơng qua việc ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào một
số lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm với giá thành hợp lý,
tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, cần nhất quán quan điểm coi cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 là thời cơ quan trọng để chúng ta hội nhập sâu hơn và hiệu quả hơn vào nền kinh tế toàn
cầu hiện nay.

Thứ hai, cơ hội bình đẳng cho Việt Nam và các nước. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo
ra nhiều thách thức cũng như cơ hội bình đẳng như nhau cho tất cả các nước, đặc biệt trong quá trình
phát triển để trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Cách mạng này đòi hỏi một tốc độ đổi mới
nhanh và có sự kết nối chặt chẽ từ ý tưởng sáng tạo trong nghiên cứu đến ứng dụng thực tiễn trong nền
kinh tế và sự chia sẻ kết nối khơng có khoảng cách địa lý trên hành tinh. Vì vậy, cần nghiên cứu và nắm
bắt cơ hội này để liên kết, học hỏi kinh nghiệm, thành tựu toàn cầu, đặc biệt là những thành quả của kinh
tế các nước, từ đó đẩy nhanh quá trình kết nối các ngành kinh tế, các vùng, các khâu để tạo ra chuỗi giá
trị toàn cầu, thúc đẩy mạnh mẽ q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, cách mạng cơng nghiệp 4.0 mới ở giai đoạn đầu, việc ứng dụng những thành tựu của
cơng nghiệp 4.0 có khả năng mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của Việt
Nam nếu chúng ta quyết tâm đổi mới tư duy và xây dựng được chiến lược phát triển rút ngắn phù hợp.
Song, đây vẫn đang là một thách thức lớn đối với Việt Nam, do kinh tế thế giới đang chuyển đổi rất
nhanh sang mơ hình phát triển mới, hiện đại, trong khi tư duy cũ của cách mạng 2.0 và giai đoạn đầu
của cách mạng 3.0 vẫn đang chi phối mạnh ở mọi cấp độ quản lý và hệ thống chính trị Việt Nam. Vì
vậy, phải coi các thách thức, khó khăn là cơ hội để thay đổi để chúng ta thúc đẩy nhanh hơn, mạnh hơn
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, phải coi khoa học và công nghệ là nền tảng quan trọng đưa sự phát triển đất nước
mang tính đột phá và bền vững trong tương lai. Khi Việt Nam chưa có tiềm lực mạnh về tài chính,
chưa có thế mạnh về công nghệ, để tận dụng những lợi thế của cách mạng cơng nghiệp 4.0 và đặc
điểm tình hình kinh tế đất nước, cần lựa chọn các ngành, công nghệ mũi nhọn đầu tư phát triển, tránh
đầu tư tràn lan và khơng được lệ thuộc vào nước ngồi. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Nếu muốn cơng nghiệp hóa gấp thì là chủ quan cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp.
Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi tiến đến thủ cơng nghiệp, sau mới đến cơng nghiệp
nặng”2. Vì vậy, cần có quan điểm ưu tiên, chọn lọc những khoa học và công nghệ tiên tiến, phù hợp
với thực tế, tạo ra sự phát triển nhảy vọt, bền vững cho tương lai.
Khoa học và công nghệ thay đổi nhanh, địi hỏi Việt Nam nghiên cứu xu hướng cơng nghệ,
năm bắt được nhanh nhất sự đổi mới của công nghệ để có giải pháp ứng dụng vào thực tế, tránh lạc
hậu và mất lợi thế cạnh tranh. Từ đó, cần hướng nền kinh tế theo hướng đón đầu, có sự ưu tiên, lựa
chọn và khai thác sử dụng những tiến bộ, thành tựu công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Vì vậy, cần có ngun tắc trong kinh tế và quan điểm phát triển linh hoạt, năng động, thích ứng với sự

thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu.
Trên cơ sở định hướng vận dụng lý thuyết phát triển kinh tế Hồ Chí Minh và chủ động nắm bắt
cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển kinh tế nước ta, cần thực hiện đồng bộ các
giải pháp quan trọng sau:
                                                            
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 445, 604-605.
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 5, tr. 538-539.
2

165


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

Thứ nhất, xây dựng chiến lược và tầm nhìn lâu dài, phát triển quốc gia thơng minh.
Lý thuyết phát triển kinh tế Hồ Chí Minh và cách mạng công nghệ là cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng nhằm vận dụng sáng tạo để xác lập chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam một cách thiết
thực và hiệu quả trong thời kỳ đổi mới. Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước cần đổi mới tư
duy, bộ máy và phương thức quản lý, điều hành, hoạch định cơ chế, chính sách phù hợp với sự thay
đổi có tính cách mạng về cơng nghệ.
Thực hiện tốt Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Triển khai xây dựng Chính phủ điện tử,
Chính quyền điện tử để quản lý hành chính và sử dụng có hiệu quả trong cơng tác chỉ đạo, điều hành
của Chính phủ và giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp; đẩy mạnh phát triển dịch vụ cơng
trực tuyến và có giải pháp khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng; điều chỉnh kịp thời các
chính sách kinh tế cho phù hợp với tình hình kinh tế trong nước, khu vực và thế giới. Nâng cao vị thế,
vai trò hiệu quả chủ đạo của việc quản lý kinh tế nhà nước. Đẩy mạnh có hiệu quả Đề án Hỗ trợ hệ

sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2016; đề án “Hệ Tri thức Việt số hóa”.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2017,
số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 và số 36a/NQ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ
nhằm cải thiện mơi trường cạnh tranh kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ sản xuất mới.
Nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương, doanh nghiệp và toàn xã
hội về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường hội nhập quốc tế và thông tin, truyền thông tạo
hiểu biết và nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng, các cơ hội và thách thức của Cách mạng cơng
nghiệp 4.0 để có cách tiếp cận, giải pháp phù hợp, hiệu quả.
Thứ hai, đi sâu vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế đặt ra. Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa”; “Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một”1. Xây dựng và phát triển kinh
tế muốn đạt tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả cao phải tạo ra và thường xuyên điều chỉnh các cơ
chế chính sách, phương thức tổ chức quản lý…nhằm tích cực hóa nguồn lực con người, làm cho nhân
lực có trí tuệ, có trình độ, sức khỏe, sáng tạo, năng động làm cho sản xuất, kinh tế phát triển cao.
Thực hiện tốt chủ trương của Đảng về giáo dục là “Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục
theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề. Đa dạng hóa
nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu
cầu học tập suốt đời của mọi người”. Đổi mới giáo dục - đào tạo, xây dựng các trường học thông minh,
tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ trong đào tạo, đổi mới chương trình và cơ cấu lại ngành
nghề đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0. Khuyến khích giáo viên giảng dạy
tương tác (Interactive teaching) với các thiết bị thông minh, quản lý học tập (Class management) kết
hợp với phương pháp học tập theo nhóm (Team-based learning). Chú trọng rèn luyện cho sinh viên
khả năng thích ứng và tinh thần làm việc sáng tạo. Cần có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao từ bên ngoài nhằm tạo ra động lực đổi mới và cơ hội học hỏi, phát triển trên cơ sở mua kỹ
năng và kiến thức từ bên ngoài, xây dựng xã hội học tập với sự chuyển giao và chia sẻ tri thức chung
của nhân loại.
Thứ ba, xác định rõ nội dung, bản chất và các bước tuần tự trong phát triển các ngành, các lĩnh
vực kinh tế. Tập trung phát triển những ngành công nghiệp để phục vụ tốt cho phát triển nông nghiệp

và công nghiệp nhẹ. Bởi xuất phát điểm nước ta là nước nông nghiệp và khả năng phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn con nhiều tiềm năng. Đảng ta khẳng định việc “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành
nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển tồn diện cả về nơng, lâm, ngư nghiệp
                                                            
1

Báo Nhân dân, số ra ngày 7-4-1965.

166


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng
dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất,
quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để tăng năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm
vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của
nông dân. Chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ,
tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nơng nghiệp; từng bước hình thành
các tổ hợp nơng nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao”1 chính là sự vận dụng sáng tạo lý
thuyết phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh.
Thứ tư, tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng, ứng dụng kỹ thuật.
Phát triển hạ tầng kết nối số và bảo đảm an toàn, an ninh mạng tạo điều kiện cho người dân và doanh
nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số. Xây dựng chiến lược
chuyển đổi số, nền quản trị thông minh, ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp
thông minh, du lịch thông minh, đơ thị thơng minh. Rà sốt, lựa chọn phát triển sản phẩm chủ lực, sản
phẩm cạnh tranh chiến lược của quốc gia bám sát các công nghệ sản xuất mới, tích hợp những cơng
nghệ mới để tập trung đầu tư phát triển.
Việc quản lý kinh tế cần tuân thủ sự kết hợp giữa xây dựng cái mới và cải tiến, nâng cấp cơng

nghệ hiện đại trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Như Hồ Chí Minh từng khẳng định:
“Cơng nghệ mà xa rời tồn bộ nền kinh tế quốc dân, mất liên hệ với nó, thì cơng nghệ không lãnh đạo
được kinh tế của quốc dân”2. Trong phát triển kinh tế đất nước, cần chú ý kết hợp các loại hình cơng
nghệ thơ sơ đến trung bình, đồng thời phải mạnh dạn ứng dụng công nghệ hiện đại trong từng hạng
mục (từ đơn lẻ đến đồng bộ) để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, theo tiêu chuẩn, có sức cạnh tranh
cao. Đây được coi là khâu đột phá và “đi tắt, đón đầu” để bắt kịp với tốc độ phát triển trên thế giới của
Việt Nam.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong đó tập trung 3 trọng tâm: Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là
đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là tập đồn kinh tế và tổng cơng ty nhà nước; tái cơ
cấu thị trường tài chính, trọng tâm là các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ quan
trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tạo thành một thể thống nhất,
“tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Đảng ta đặt lên hàng đầu “sự ổn định và phát triển bền vững mọi
mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”, nhưng lại xác định
“tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”3. Quan điểm này cần được hiểu, phát triển kinh tế là
gốc của quốc phòng - an ninh; xây dựng kinh tế - xã hội là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ
quốc. Gốc này có vững chắc thì quốc phịng - an ninh mới vững. Biểu hiện của vững chắc là ổn định
và phát triển.
5. Kết luận
Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội, thuận lợi và những thách thức, khó khăn
cho sự phát triển kinh tế, đòi hỏi sự vào cuộc của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế trên cơ sở vận
dụng những giá trị có tính thời sự của lý thuyết phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh và thực tiễn đất
nước trong tình hình hiện nay. Việc quán triệt, nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong công
cuộc quản lý, xây dựng và phát triển kinh tế hiện nay ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công
                                                            
1


Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 93.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Sđd, t. 6, tr. 499. 
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.82.
2

167


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

nghiệp 4.0 vì mục tiêu cốt lõi của việc phát triển kinh tế đất nước là nhằm phục vụ sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Lý thuyết phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh là một phần di sản quý báu, chứa đựng những giá
trị sâu sắc về: Mục tiêu phát triển kinh tế; tận dụng mọi nguồn lực để phát triển sản xuất và thực hành
tiết kiệm; quản lý kinh tế theo đúng nguyên tắc và đảm bảo hiệu quả kinh tế; mở rộng mơ hình và cách
thức phát triển kinh tế. Cùng với đó, nghiên cứu về đặc trưng, tác động và những yêu cầu đặt ra của
cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam có ý nghĩa thực tiễn hiện nay. Quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế Việt Nam cần định hướng vận dụng quan điểm sau: Nhìn nhận xu
hướng phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại là xu thế phát triển tất yếu trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế Việt Nam; cơ hội bình đẳng cho Việt Nam và các nước; phải coi khoa học và
công nghệ là nền tảng quan trọng đưa sự phát triển đất nước mang tính đột phá và bền vững trong
tương lai. Đưa ra những giải pháp đồng bộ nhằm phát triển kinh tế gồm: Xây dựng chiến lược và tầm
nhìn lâu dài, phát triển quốc gia thơng minh; đi sâu vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đặt ra; xác định rõ nội dung, bản chất và các bước tuần tự trong phát
triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế; tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự bứt phá thực sự về hạ tầng,
ứng dụng kỹ thuật.
Để hiểu đúng và vận dụng có hiệu quả lý thuyết phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh và những
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cần tránh những tư tưởng rập khn máy móc, giáo điều,

mà cần phải linh hoạt những quan điểm, ngun tắc có tính định hướng về phương pháp luận. Trong việc
xây dựng và phát triển kinh tế hiện nay, cần phải xuất phát từ thực tiễn, tình hình, đặc điểm kinh tế thế
giới và kinh tế Việt Nam để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cho thiết thực và phù hợp; vận dụng các
quan điểm phát triển kinh tế của Hồ Chí Minh trong quản lý, điều tiết những vấn đề kinh tế cụ thể, tồn
diện và khoa học, đảm bảo tính trọng tâm, trọng điểm, đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ban Kinh tế Trung ương và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (USAID) (2017), Báo cáo “Chẩn đoán
tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

2.

Báo Nhân dân, số ra ngày 7-4-1965.

3.

Báo Đại biểu nhân dân: “Diễn đàn kinh tế thế giới - Davos 2019 - Để không ai bị bỏ lại trong tồn cầu hóa
4.0”: tabid=77&NewsId=416105

4.

Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, “Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 4/5/2017 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, 2017.

5.

Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (2017), “Tổng luận: Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4”, 2017.


6.

Diễn đàn kinh tế thế giới (2017), “Báo cáo Vốn con người toàn cầu năm 2017”.

7.

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, 15 tập.

8.

Hồ Chí Minh, Về kinh tế và quản lý kinh tế, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990.

9.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.

10. PGS.TS Trần Thị Vân Hoa (2018), Cách mạng công nghiệp 4.0 - Những vấn đề đặt ra cho phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2018.
11. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, “Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu
sử”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
12. Đặng Xuân Kỳ (2204), “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh”, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội, 2004.

168


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

13. Khu
Di

tích
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
tại
Phủ
Chủ
tịch:
/>BZ.dpbs
14. GS.TS Lê Hữu Nghĩa - TS Lê Văn Chiến (2014), “Tác động đầu tư trực tiếp nước ngồi đến năng suất lao
động và trình độ cơng nghệ của Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014.
15. PGS. TS Vũ Văn Phúc (2017), “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2017.
16. GS. TSKH Lương Xuân Quỳ (2015), “Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong bối cảnh
mới”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015.
17. GS. Song Thành (2016), “Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016.
18. [18].Tạp chí Nhà đầu tư: />19. Tạp chí Cộng sản: />20. German Trade and Invest (2014), “Industrie 4.0 - Smart manufacturing for the future”, Berlin, 2014.

169



×