Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LVTN 2018 tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỉ xxi của các nhà văn trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.08 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***********

TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ CHIẾN TRANH ĐẦU THẾ KỈ XXI
CỦA CÁC NHÀ VĂN TRẺ

Khoá luận tốt nghiệp ngành: Văn học
Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. Võ Văn Nhơn
Sinh viên thực hiện: Huỳnh Thị Thanh Xn
Mssv: 1456010175
Khóa: 2014 – 2018
Lớp: CNTN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2018

1


Lời cám ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến các thầy cô trong
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, đặc biệt là thầy cơ trong khoa văn
học vì đã giúp đỡ tôi học tập tạo nên nền tảng tri thức trong suốt thời gian qua.
Tôi xin chân thành và sâu sắc cảm ơn PGS. TS Võ Văn Nhơn, giảng viên
hướng dẫn của tơi đã hướng dẫn tơi hết sức tận tình, giúp đỡ tơi hiểu thêm về đề
tài của mình và hồn thành đề tài một cách hồn chỉnh nhất.
Tơi xin cảm ơn thầy cô, bạn bè, người thân trong thời gian qua đã động
viên, giúp đỡ tôi, khi tôi đang trong quá trình thực hiện đề tài này.
Trong quá trình thực hiện đề tài không thể nào tránh khỏi những sai sót,
tơi rất mong thầy cơ có thể bỏ qua và đóng góp ý kiến cho tơi về khóa luận để tơi
có thêm kinh nghiệm và hồn thành tốt cho các bài nghiên cứu tiếp theo.


Tôi xin chân thành cảm ơn

2


Lời cam đoan
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Tiểu thuyết viết về đề
tài chiến tranh thế kỉ XXI của các nhà văn trẻ” là công trình nghiên cứu của riêng
tơi.
Mọi tài liệu mà tơi đưa vào khóa luận đều đã có trích nguồn cụ thể, khơng
sao chép bất kì của ai. Tơi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của
riêng mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11/6/2018

Huỳnh Thị Thanh Xuân

3


Mục lục
Mở Đầu.................................................................................................................. 6

1.

Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 6

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 7


2.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu tiểu thuyết chiến tranh đầu thế kỉ XXI..... 7
2.2. Một số cơng trình nghiên cứu về các tiểu thuyết chiến tranh của
người viết trẻ ............................................................................................................ 9
3.

Nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu.............................................................. 11

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 11

5.

Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 12

6.

Đóng góp của khóa luận.............................................................................. 12

7.

Kết cấu khóa luận ........................................................................................ 13
Chương 1: Tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh và các nhà văn trẻ .... 14

1.1. Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh ........................... 14
1.1.1. Tiểu thuyết viết về chiến tranh (1945 – 1985) ........................................... 14
1.1.2. Tiểu thuyết viết về chiến tranh từ thời kỳ Đổi mới (1986 – 2000) .......... 17
1.1.3. Tiểu thuyết viết về chiến tranh từ năm 2000 đến nay.............................. 20
1.2. Khái niệm nhà văn trẻ................................................................................. 27
Chương 2: Tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỷ XXI của các

nhà văn trẻ - Đặc điểm nội dung ...................................................................... 30
2.1. Chiến tranh từ góc nhìn của nhà văn trẻ ..................................................... 30
2.1.1. Chiến tranh được tiếp cận từ góc nhìn của các nhân vật trẻ .................. 30
2.1.2. Chiến tranh chưa thực sự khủng khiếp trong tiềm thức nhân vật trẻ... 35
2.2. Người viết trẻ quan niệm chiến tranh là đau thương, mất mát ................. 37
2.2.1. Hiện thực chiến tranh ................................................................................. 37
2.2.2. Con người chiến tranh ................................................................................ 42
2.3. Người viết trẻ nhìn nhận lại chiến tranh bằng bản chất nhân tính........... 49

4


Chương 3: Tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỷ XXI của các
nhà văn trẻ - Đặc điểm nghệ thuật ................................................................... 55
3.1 Giải thiêng hình tượng vĩ đại của người lính................................................ 56
3.1.1. Người lính với sự phức tạp trong tính cách và tâm hồn .......................... 56
3.1.2. Người lính với sự tha hóa, suy đồi đạo đức .............................................. 60
3.1.3. Giễu nhại và phê phán khả năng chỉ huy của người lính ........................ 62
3.2. Các thủ pháp xây dựng tình tiết truyện ....................................................... 65
3.2.1. Gia tăng yếu tố huyền ảo, tâm linh ............................................................ 65
3.2.2. Gia tăng yếu tố tính dục.............................................................................. 76
3.3. Sự xóa nhịa ranh giới thể loại ...................................................................... 80
Kết luận .................................................................................................................. 86
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 87

5


Mở Đầu
1.


Lý do chọn đề tài

Ngày nay, đời sống xã hội và kinh tế phát triển mạnh trong bối cảnh tồn
cầu hóa. Cuộc sống vật chất được đáp ứng đầy đủ làm nảy sinh nhu cầu thỏa mãn
cá nhân. Do đó, văn học trở thành một món ăn tinh thần khơng thể thiếu cho con
người. Ở đó, khơng ít những người viết trẻ thế kỉ XXI đang ảnh hưởng trực tiếp
đến nền văn học đương đại trong nước. Văn học của họ đã có tác động khơng
nhỏ đến đời sống của một bộ phận bạn đọc nước nhà, đặc biệt là giới trẻ.
Vào thời bình, con người ngày càng địi hỏi thỏa mãn nhu cầu cá nhân của
mình. Khơng giống như thời chiến tranh, mọi người đều chung tay góp sức chiến
đấu bảo vệ đất nước. Nhu cầu lớn lao nhất chỉ là được áo ấm, cơm no để có sức
phục vụ chiến đấu. Con người thời bình hầu hết đều chạy theo sự phát triển kinh
tế, phát triển công nghệ. Dù thời nay, vấn đề chiến tranh còn được nhắc tới nhiều
thơng qua truyền thơng báo chí nhưng hầu hết, con người thời nay quan tâm đến
đời sống nội tâm cá nhân hơn là chuyện vĩ mô khác.
Vấn đề chiến tranh là vơ cùng quan trọng khi nó là cội nguồn để chúng ta
nhìn lại quá trình đấu tranh dành lấy đất đai, sự độc lập dân tộc. Từ đó, chúng ta
có sự hiểu biết hơn về sự gian lao cực khổ mà cha ông đã giành lấy và trao về tay
chúng ta để chúng ta có thể tiếp nối bảo vệ và giữ gìn. Tuy nhiên, có vẻ như lực
lượng thừa kế dòng văn học cách mạng tỏ ra khá e dè khi khai thác đề tài này.
Bằng chứng là rất ít các tác phẩm chiến tranh của thế hệ trẻ được xuất bản trên
thị trường. Dù vậy, việc nghiên cứu các tác phẩm của người viết trẻ viết về chiến
tranh cũng phải được chú trọng vì nó phản ánh khả năng quan tâm và nhận ra bản
chất chiến tranh của người viết trẻ. Quan điểm về chiến tranh của nhà viết trẻ sẽ
cho ta thấy cách nhìn lại chiến tranh của họ như thế nào.
Khóa luận khảo sát và phân tích các tác phẩm viết về chiến tranh của
người viết trẻ để cho thấy cách nhìn nhận của người viết trẻ về chiến tranh, đặc
điểm riêng của các tác phẩm văn học này vì các tác phẩm của họ sẽ định hướng
tư tưởng cho độc giả. Trên cơ sở chưa cơng trình nào nghiên cứu các tiểu thuyết

chiến tranh của các nhà văn trẻ, chúng tôi chọn đề tài “Tiểu thuyết viết về chiến
tranh đầu thế kỉ XXI của các nhà văn trẻ”. Thông qua nghiên cứu các tác phẩm
của người viết trẻ mà những người viết trẻ này đang là đại diện cho một lớp thế
hệ trẻ ở Việt Nam, chúng ta cũng thấy được góc nhìn về chiến tranh của những
người trẻ ở Việt Nam. Đồng thời, khóa luận này sẽ đóng góp một chút công sức
vào tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Văn học.

6


2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu tiểu thuyết chiến tranh đầu thế kỉ
XXI
Một số cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết mang đề tài chiến tranh giai
đoạn thế kỉ XXI như trong “Đổi mới cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết chiến
tranh (Qua một số tác phẩm từ 2000 đến nay)”, Lê Hương Thủy đã sơ lược về
góc nhìn nghệ thuật mới của nhiều tác phẩm viết về chiến tranh sau năm 2000.
Tác giả nhận định rằng: “Sau chiến tranh, với một độ lùi thời gian cần thiết,
nhiều nhà văn đã có ý thức về việc đổi mới cách nhìn về chiến tranh: cảm hứng
sử thi nhạt dần và thay vào đó là cảm hứng nhận thức lại hiện thực, viết về chiến
tranh từ những cảm nghiệm cá nhân, nhiều tác phẩm đã hướng đến việc thể hiện
tính nhân loại phổ quát, khắc họa nỗi đau của những con người bị cuốn vào
dịng xốy của cuộc chiến tranh, những mất mát đau thương của những con
người ở cả hai chiến tuyến”.[33;3]. Đồng thời, tác giả cũng đã có nhận định về
nhà văn trẻ như sau: “Với những người viết trẻ, ý thức về sự đổi mới lối viết luôn
là một vấn đề được quan tâm. Với người viết trẻ, viết về chiến tranh vẫn là một
thử thách đối với họ, ở chỗ họ đã lựa chọn một đề tài mà bản thân khơng có

nhiều trải nghiệm trận mạc; bên cạnh đó người viết trẻ thường có ý thức đổi mới
lối viết trong khi vẫn còn những rào cản khi nhà văn khai triển đề tài” và mặc dù
“chưa có nhiều những sáng tác viết về chiến tranh của những người trẻ - những
người không trực tiếp tham gia chiến tranh nhưng vẫn có những hạt nhân để
thấy rằng chiến tranh vẫn là “vùng đất có thể tiếp tục khai phá và thành cơng”
[33;6]
Nguyễn Văn Long và Lê Thị Thu Hằng đã có bài viết về “Những cách tân
nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI”, tác giả nghiên cứu về các
tác phẩm viết về chiến tranh, đặc biệt là các tác phẩm trong hai cuộc thi tiểu
thuyết của Hội Nhà văn cùng những cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết về lực
lượng vũ trang. Các tác giả cho rằng đầu thế kỉ XXI là giai đoạn nở rộ về thể loại
tiểu thuyết. Từ đó tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI chia ra thành hai xu
hướng chính: tiểu thuyết trên nền truyền thống và hướng cách tân theo tinh thần
hiện đại. Một số tác giả vẫn dựa trên nền truyền thống để sáng tác bằng thể loại
tiểu thuyết. Họ chỉ gia tăng một số yếu tố như đa dạng điểm nhìn trần thuật, sử
dụng yếu tố huyền ảo, yếu tố trào lộng. Đến thế kỉ XXI, các nhà văn 7X, 8X hoặc
các nhà văn trưởng thành từ thời kì kháng chiến có tư tưởng mong muốn thay
đổi. Vì ảnh hưởng bởi sự phát triển của đời sống, kinh tế cũng như văn học nước
ngồi nên có sự thay đổi trong quan niệm tư duy và nghệ thuật về thể loại tiểu
thuyết như hướng đến tính dân chủ, sự cách tân hiện đại, xem tiểu thuyết là lãnh
7


địa của trò chơi, đùa giỡn để dễ dàng chia sẻ, giải phóng trải nghiệm cá nhân.
Tiểu thuyết của thế kỉ XXI cũng thu hẹp hơn về quy mô nhưng nó có thể pha trộn
các thể loại như phóng sự, kí, thư…Đặc biệt, tiểu thuyết cách tân mạnh về nghệ
thuật như phức thể hóa nhân vật (làm mờ nhân vật, biến nhân vật thành kí hiệu,
tượng trưng), đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật với nhiều giọng điệu khác nhau…
Nói chung, Nguyễn Văn Long và Lê Thị Thu Hằng đã nhận định rằng: “Với nỗ
lực cách tân như trên, quan niệm mới về tiểu thuyết đã được hiện thực hóa.

Thắng được sức ỳ truyền thống, thay đổi tư duy tiểu thuyết và cải biến được thị
hiếu của công chúng không phải là vấn đề đơn giản và có thể nhanh chóng thành
cơng, nhưng các nhà văn theo xu hướng cách tân vẫn quyết tâm đổi mới và
không thể phủ nhận những gì mà họ đã làm được. Cũng phải thấy rằng các nhà
văn theo đuổi cách tân còn nặng về trình diễn kĩ thuật, thủ pháp, khiến bạn đọc
nhiều khi bị đẩy vào mê lộ. Sự tìm tịi về thủ pháp nhiều khi chưa đi liền với sự
khám phá mới và sâu sắc về đời sống, chưa dựa trên nền tảng tư tưởng triết học
có chiều sâu – đây vẫn là hạn chế bộc lộ ở nhiều cuốn tiểu thuyết theo xu hướng
này”[9]. Bài viết của các tác giả đã phân tích hai xu hướng cách tân thể loại tiểu
thuyết về nội dung cũng như nghệ thuật, giúp cho chúng tơi bước đầu nhìn thấy
những sự đổi mới trong quan niệm về cách sáng tác thể loại tiểu thuyết của các
nhà văn đầu thế kỉ XXI. Từ đó, những yếu tố này có sự ảnh hưởng nhất định đến
các tiểu thuyết chiến tranh đầu thế kỉ XXI. Dù vậy, bài viết cũng chỉ bước đầu
khảo sát chưa đi vào nghiên cứu sâu về các tác phẩm tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI.
Bùi Việt Thắng đã có bàn về các tác phẩm mang đề tài cách mạng giai
đoạn đầu thế kỉ XXI với bài viết “Sự trở lại của đề tài chiến tranh cách mạng”.
Trong bài viết, tác giả cho rằng trong một thời gian dài từ năm 1995 – 2005, các
tác phẩm viết về chiến tranh cực kì ít ỏi. Văn chương giai đoạn này nặng về giải
trí, tính dục, kì ảo, trinh thám …khiến độc giả dường như bị cuốn theo và quay
lưng với các tác phẩm mang đề tài chiến tranh. Tuy nhiên, một điều chắc chắn
rằng, các nhà văn vẫn đau đáu về trách nhiệm nặng nề của mình khi nhìn nhận lại
cuộc chiến dân tộc nên họ vẫn viết về chiến tranh như một cách tỏ lịng tri ân đối
với những người lính dũng cảm đã hi sinh trong trận mạc cũng như mong muốn
được trải lịng mình về một thời chiến đấu với độc giả. Tác giả bước đầu giới
thiệu một số các tác phẩm viết về chiến tranh, từ các tác giả đã sống và trải qua
kinh nghiệm xương máu trong bối cảnh chiến tranh đến các tác giả trẻ chưa từng
trải nghiệm chiến tranh. Thông qua việc giới thiệu, tác giả nhận thấy tiểu thuyết
chiến tranh đang phát triển theo hai xu hướng nổi bật đó là tiểu thuyết tư liệu về
chiến tranh và tiểu thuyết mang yếu tố tự thuật về chiến tranh. Dù sao đi chăng
nữa, tác giả cũng đánh giá giai đoạn đầu thế kỉ XXI, đề tài chiến tranh đã quay


8


trở lại và nở rộ hơn giai đoạn trước và các tác giả, đặc biệt là tác giả trẻ đã mang
“chất riêng, khơng bị cái bóng rợp của người đi trước che khuất” [30]
Đào Thị Hồi Bắc có bài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về “Lời văn nghệ
thuật trong tiểu thuyết 2004 – 2009 về đề tài chiến tranh”, tác giả đã nghiên cứu
về những nét đổi mới trong cách xây dựng người lính và kẻ thù. Đồng thời, tác
giả cũng nghiên cứu đổi mới về nghệ thuật như khơng gian, thời gian trong tác
phẩm, các loại hình lời văn nghệ thuật và các phương tiện, phương thức biểu hiện
lời văn.
Cấn Thị Thu Hằng cũng có bài nghiên cứu “Tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh cách mạng Việt Nam 2004 -2009”. Cũng như các tác giả trên, Cấn Thị Thu
Hằng khái quát lại tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Trên
cơ sở đó, tác giả xem xét những đổi mới trong nội dung tác phẩm chiến tranh
năm 2004 – 2009 về hiện thực, con người và cảm hứng sáng tác tác phẩm. Tác
giả nghiên cứu nghệ thuật theo lý thuyết tự sự như điểm nhìn trần thuật, không
gian và thời gian, ngôn ngữ và giọng điệu nhân vật trong tác phẩm.
Lương Xuân Thành nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật như cảm hứng,
điểm nhìn, ngơn ngữ và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết chiến tranh thơng
qua 6 tác phẩm khảo sát với cơng trình nghiên cứu “Nghệ thuật trần thuật trong
tiểu thuyết 2004 – 2009 về đề tài chiến tranh (Trên cứ liệu 6 tiểu thuyết được giải
thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 2004 – 2009)”.
Tóm lại, với tiền đề nêu trên đã cho chúng ta thấy những sơ lược, khởi đầu
khi nghiên cứu về đề tài “Tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỉ XXI của các
nhà văn trẻ”. Và những công trình nghiên cứu trên đã hỗ trợ rất nhiều cho đề tài
nghiên cứu của chúng tôi, giúp cho chúng tôi có thêm nhiều tri thức để nghiên
cứu, phân tích về đối tượng.


2.2. Một số cơng trình nghiên cứu về các tiểu thuyết chiến tranh của
người viết trẻ
Có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết chiến tranh của người
viết trẻ và những cơng trình này đóng góp rất nhiều cho khóa luận của chúng tơi.
Sau đây là một số cơng trình nghiên cứu nổi bật. Nguyễn Bích Ngọc có bài
nghiên cứu về 3 tác phẩm tiểu thuyết chiến tranh của người viết trẻ “Tiểu thuyết
về đề tài chiến tranh của ba nhà văn trẻ (Trên cứ liệu ba tác phẩm Màu rừng
ruộng của Đỗ Tiến Thụy, Bên dòng sầu diện của Nguyễn Đình Tú, Biển xanh
màu lá của Nguyễn Xuân Thủy)”. Tác giả nghiên cứu chủ yếu ba tác phẩm chiến
tranh của ba tác giả Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Xuân Thủy và một

9


số tác phẩm khác liên quan đến đề tài chiến tranh. Về nội dung tác giả làm rõ
hiện thực và con người chiến tranh. Thơng qua đó, tác giả cho thấy được cách
nhìn về chiến tranh của người viết trẻ và từ đó chỉ ra được sự khác biệt giữa hai
thế hệ trong sáng tác cùng một đề tài. Về nghệ thuật, tác giả sử dụng thi pháp học
và phong cách học để làm rõ không gian chiến trường, nghệ thuật xây dựng nhân
vật, ngôn ngữ và giọng điệu đặc trưng của ba tác phẩm chính. Tác giả đã nhận
định rằng: “Ở cả ba tiểu thuyết này cũng thấy rất rõ một đặc điểm là xu hướng
phá vỡ khái niệm về nhân vật sử thi một cách rõ nét” [14;91]
Phùng Gia Thế đã có bài nghiên cứu về “Những dấu hiệu hậu hiện đại
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương”. Sau khi sơ lược về chủ nghĩa hậu hiện
đại, tác giả đã đi vào phân tích các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Trong
đó có tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy. Tác giả đã nhận định tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy
rằng: “Có thể nhận ra, Thoạt kỳ thủy là một câu chuyện triền miên vô hậu. Triệt
để vô thức, miên man ảo ảnh, xót xa đau đớn thân phận con người. Những vệt
màu cuồng nộ được nghệ sĩ điềm tĩnh kèo dài ra mênh mang mênh mang như một
tiếng thở dài”[24;5].

Trong bài nghiên cứu “Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú qua
Hoang tâm và Xác phàm”, Trần Thị Kim Thanh đã bước đầu khái quát tư duy
nghệ thuật và hành trình sáng tạo tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú, từ Hoang tâm
đến Xác phàm. Đặc biệt, tác giả đi sâu vào cảm quan về con người, hiện thực và
phương thức thể hiện của hai tác phẩm Hoang tâm và Xác phàm. Đồng thời, tác
giả cũng phân tích, tìm hiểu về văn hóa và tính dục trong tác phẩm. Luận văn đã
góp phần khẳng định dấu ấn phong cách và tư duy nghệ thuật của Nguyễn Đình
Tú thơng qua hai tác phẩm Hoang tâm và Xác phàm.
Lê Tiên Long cũng có bài viết “Mộ phần tuổi trẻ - Hư cấu nhưng đừng
khác lịch sử”. Tác giả dựa trên cơ sở những sự kiện có thật của lịch sử để nhìn
nhận lại tiểu thuyết của nhà văn trẻ Huỳnh Trọng Khang. Tác giả phân tích và chỉ
ra rất nhiều chi tiết trong tiểu thuyết của Huỳnh Trọng Khang rất khác với lịch
sử, thậm chí các chi tiết lịch sử bị xáo trộn về thời gian. Tuy nhiên, tác giả cũng
chỉ mong đây là bài góp ý nhỏ đến với tác giả trẻ và sự góp ý này mong muốn
Huỳnh Trọng Khang có thể cho ra mắt những tác phẩm tốt hơn trong thời gian
tới.
Ngồi ra, cũng có nhiều tác giả đã bước đầu sơ lược về các tác phẩm chiến
tranh của nhà văn trẻ, trong đó các tác giả liệt kê và khái quát sơ về tiểu thuyết
viết về chiến tranh của nhà văn trẻ như bài viết “Văn học viết về chiến tranh: Hy
vọng ở thế hệ nhà văn trẻ” của Trung Kiên, “Văn học chiến tranh không dành
10


cho nhà văn trẻ” của Trần Hoàng Nhân, “Nhà văn trẻ với đề tài chiến tranh và
người lính” của Nguyễn Hữu Quý, “Người viết trẻ và văn học về đề tài chiến
tranh” của Nguyễn Thanh Tâm, “Người trẻ với văn học chiến tranh cách mạng –
Tín hiệu vui” của Tường Vy,…
Mặc dù rất ít các cơng trình nghiên cứu sâu vào tiểu thuyết chiến tranh của
người viết trẻ đầu thế kỉ XXI nhưng những cơng trình nghiên cứu như trên đã
góp phần hỗ trợ tài liệu nghiên cứu về đề tài này cho chúng tơi. Qua sự khảo sát,

tìm hiểu các bài báo, báo cáo nghiên cứu đã đem đến cho chúng tôi nhiều tri thức
về đối tượng nghiên cứu và giúp cho chúng tơi có cái nhìn hồn chỉnh hơn khi
đưa ra những lí giải, kết luận mới nhằm tiếp cận một cách toàn diện hơn về tiểu
thuyết chiến tranh của người viết trẻ đầu thế kỉ XXI.
3.

Nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu

Trong cơng trình nghiên cứu này, chúng tơi sẽ phân tích, tổng hợp, đánh
giá và phê bình một cách trọn vẹn nhất có thể những vấn đề về chiến tranh đối
với những người viết trẻ thế kỉ XXI thông qua các tác phẩm mang đề tài chiến
tranh của họ. Qua đó, chúng tơi mong muốn có thể góp thêm tiếng nói vào trong
q trình tìm hiểu tiểu thuyết chiến tranh của người viết trẻ đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, đưa ra những đánh giá khách quan, rõ ràng về cách nhìn nhận lại
chiến tranh trong tư tưởng của những người viết trẻ. Từ đó, chúng tôi cho thấy sự
đổi mới, đặc điểm riêng trong cách tiếp cận đề tài chiến tranh của người viết trẻ
về nội dung và nghệ thuật. Đồng thời, bài nghiên cứu này cũng sẽ góp phần vào
tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Văn học.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Bởi vì đề tài là “Tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỉ XXI của các nhà
văn trẻ” nên chúng tôi sẽ giới hạn lại không gian nghiên cứu. Đó là những tác giả
trẻ đang sinh sống và làm việc trên khắp đất nước Việt Nam. Đối tượng nghiên
cứu của chúng tôi là tác phẩm của những người viết trẻ. Trong đề tài nghiên cứu
này, người viết trẻ là người được giới hạn ở độ tuổi dưới 60 tuổi. Họ là những
người chưa trải qua chiến tranh chống Mỹ nhưng có thể tham gia chiến tranh
biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc. Ở phạm vi nghiên cứu,
chúng tôi khảo sát các tác phẩm từ sau năm 2000. Cụ thể hơn, chúng tôi sẽ khảo

sát các tác phẩm của một số tác giả như Thoạt kỳ thủy và Mình và họ - Nguyễn
Bình Phương, Xác phàm và Hoang Tâm - Nguyễn Đình Tú, Màu rừng ruộng và
Con chim joong bay từ A đến Z - Đỗ Tiến Thụy, Cơ bản là buồn - Nguyễn Ngọc
Thuần, Mộ phần tuổi trẻ - Huỳnh Trọng Khang, Hạt hịa bình - Minh Moon,
Biển xanh màu lá - Nguyễn Xuân Thủy. Bởi vì rất nhiều các tác phẩm của người

11


viết trẻ viết về chiến tranh nên chúng tôi chỉ chọn các tác giả và tác phẩm đại
diện (các tác phẩm được dư luận, độc giả chú ý) và lựa chọn này chỉ mang tính
chất tương đối.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Ngồi phương pháp phân tích, tổng hợp để vận dụng vào bài nghiên cứu,
chúng tơi cịn sử dụng phương pháp khác nhằm nghiên cứu các tác phẩm của
người viết trẻ một cách khách quan nhất.
Phương pháp khảo sát: Chúng tôi khảo sát các tác phẩm viết về chiến
tranh của người viết trẻ và các chi tiết liên quan đến chiến tranh để phục vụ cho
bài nghiên cứu dựa trên đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phương pháp văn hóa, xã hội: Vấn đề chiến tranh là vấn đề của xã hội vì
thế thơng qua việc tìm hiểu văn bản dưới góc nhìn văn hóa, xã hội sẽ giúp chúng
tơi có thể phân tích rõ các tác phẩm viết về chiến tranh của người viết trẻ.
Phương pháp lịch sử: Tiểu thuyết chiến tranh của người viết trẻ đề cập rất
nhiều các chi tiết có thật về chiến tranh lịch sử. Vì thế, chúng tơi lựa chọn
phương pháp lịch sử để có thể nhìn nhận lại một cách rõ ràng nhất về các cuộc
chiến của dân tộc.
Phương pháp so sánh: Chúng tôi chỉ ra những điểm giống và khác giữa

các giai đoạn nhằm thấy được những điều khác biệt trong quan niệm và cách đặt
vấn đề của người viết trẻ, cả sự hiểu biết và cách nhìn nhận lại vấn đề chiến
tranh.
Ngồi ra, chúng tơi cịn vận dụng lý thuyết hậu hiện đại nhằm nghiên cứu
nghệ thuật của các tác phẩm nhà văn trẻ. Các thế hệ nhà văn trẻ chịu ảnh hưởng
rất nhiều bởi chủ nghĩa hậu hiện đại bởi vì trong bối cảnh tồn cầu hóa, sự giao
lưu tiếp biến văn học từ phương Tây tràn ngập về Việt Nam. Thơng qua đó, các
tác phẩm đương đại của phương Tây hiện nay cũng ào ạt vào thị trường Việt. Và
chắc chắn, khơng ít thì nhiều các tác giả cũng chịu sự ảnh hưởng của phương
Tây, đặc biệt là chủ nghĩa hậu hiện đại.
Trên cơ sở đó, chúng tơi vận dụng các phương pháp nghiên cứu này để
khám phá tiểu thuyết viết về chiến tranh của các nhà văn trẻ trong thời đại hiện
đại hóa, cơng nghiệp hóa đầu thế kỉ XXI.
6.

Đóng góp của khóa luận

Đóng góp về mặt lí luận: Ở chương 1 chúng tôi khái quát rõ đặc điểm về
nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm tiểu thuyết chiến tranh từ năm 1945 đến

12


nay. Thơng qua nền tảng chương 1, chúng tơi tìm tòi, nghiên cứu nội dung và
nghệ thuật của tiểu thuyết chiến tranh mà người viết trẻ sáng tác để có thể so
sánh cách nhìn, cách tiếp cận đề tài chiến tranh giữa hai thế hệ. Từ đó, chúng tơi
có thể khái quát đặc điểm riêng về nội dung và nghệ thuật về tiểu thuyết chiến
tranh của người viết trẻ. Điều đó cũng coi như chúng ta thấy được diện mạo, sự
vận động của tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn đầu thế kỉ XXI.
Đóng góp về mặt thực tiễn: Bài nghiên cứu này đóng góp thêm vào kho

tàng tài liệu tham khảo cho sinh viên, đặc biệt là sinh viên ngành văn học.
7.

Kết cấu khóa luận

Ngồi phần mở đầu và phần kết luận, nội dung khóa luận sẽ gồm ba chương
chính:
Chương 1: Tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh và các nhà văn trẻ
Ở chương này, chúng tôi đi sâu vào khát quát tiểu thuyết chiến tranh từ
giai đoạn năm 1945 - nay. Chúng tôi làm rõ đặc điểm về nội dung như hiện thực
và con người chiến tranh, quan điểm nhất quán khi viết văn của tác giả, về cách
khai thác đề tài chiến tranh của họ. Về nghệ thuật, chúng tôi khát quát về cách
xây dựng nhân vật người lính, điểm nhìn trần thuật, cảm hứng sáng tác, kết cấu,
ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật. Đồng thời, trong chương này chúng tơi giải
thích rõ khái niệm người viết trẻ để có thể giới hạn các tác phẩm được khảo sát.
Chương 2: Tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỷ XXI của các nhà văn trẻ Đặc điểm nội dung
Chương 2 gắn liền với những tác phẩm mang đề tài chiến tranh của người
viết trẻ. Ở chương này, chúng tơi sẽ cố gắng đi tìm những đặc trưng về nội dung
nổi bật nhất của các tác phẩm ví như người trẻ nhìn về chiến tranh đều nhìn qua
con mắt của nhân vật trẻ chứ không phải những người cựu chiến binh, những
người đã bước qua nỗi đau chiến tranh. Quan niệm của người viết trẻ về chiến
tranh là những đau thương, mất mát. Người trẻ cịn nhìn lại chiến tranh bằng cái
nhìn đầy nhân tính và đặc biệt là những chiêm nghiệm mà họ nắm bắt được khi
tiếp cận đề tài chiến tranh.
Chương 3: Tiểu thuyết viết về chiến tranh đầu thế kỷ XXI của các nhà văn trẻ Đặc điểm nghệ thuật
Văn học nước ta đã thoát khỏi giai đoạn “văn học minh họa” nên các nhà
văn ln khát khao tìm tịi đổi mới cách sáng tác. Vì thế, lý thuyết văn học cũng
như các tác phẩm văn học nước ngồi tn ào ạt, len lỏi vào thị trường văn học
Việt Nam. Các thế hệ nhà văn trẻ chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các tác phẩm văn
13



học nước ngoài, đặc biệt là chịu ảnh hưởng bởi những tác phẩm mang màu sắc
chủ nghĩa hậu hiện đại. Chính vì thế, ở chương 3 này, chúng tơi sẽ đi tìm những
dấu vết của chủ nghĩa hậu hiện đại trong các tác phẩm của người viết trẻ.

Chương 1: Tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh và các nhà văn trẻ
1.1. Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh
1.1.1. Tiểu thuyết viết về chiến tranh (1945 – 1985)
Nhờ cơng trình “Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau
1975 – Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật” của Nguyễn Thị Thanh,
chúng tôi đã có thể khái quát sơ lược diện mạo, sự vận động của tiểu thuyết chiến
tranh giai đoạn năm 1945 – 1985 trong tiến trình văn học. Vào thời chiến, con
người ln cố gắng đồn kết với nhau nhằm thực hiện công cuộc chiến đấu dành
lại nền độc lập cho dân tộc. Họ là những con người ln vì q hương đất nước,
không kể ngày đêm chiến đấu can trường trên chiến trường. Chính vì thế, người
Việt Nam trên mọi miền quê hương đất nước đều cố gắng hết sức mình phục vụ
cho cơng cuộc chiến tranh. Thơng qua ngịi bút của mình, các nhà văn cũng góp
một phần vào cơng sức chiến đấu, khích lệ các chiến sĩ vững tin ở chiến trường
và vì thế diễn ngơn tự hào về dân tộc tuôn tràn ra mọi lúc, phản ánh một thời hào
hùng với những chiến công oanh liệt.
Vào giai đoạn chiến đấu chống Pháp năm 1945 - 1954, các nhà văn đã sử
dụng ngịi bút của mình để chiến đấu, cổ vũ thế hệ cha anh đấu tranh giành độc
lập. Họ đồng lòng thể hiện quan điểm nhất quán là sử dụng ngịi bút của mình
cho chiến đấu, cho chính nghĩa, cho nền hịa bình, độc lập dân tộc. Các diễn ngôn
tự hào về dân tộc vang lên phản ánh một thời hào hùng, chiến cơng oanh liệt.
Điều đó khẳng định vị trí hàng đầu về đề tài chiến tranh trong thời bấy giờ. Mọi
ngòi bút đều hướng về chiến tranh, mọi người dân đều dành hết tất cả thời gian
của mình nhằm chuẩn bị cho chiến tranh dành lại sự thống nhất dân tộc. Các nhà
văn lúc này đều ăn ngủ cùng với chiến tranh. Họ khơng có nhiều thời gian để

sáng tác nên các tác phẩm của họ lúc này đều có dung lượng rất ngắn. Một phần
cũng vì nền văn học tuyên truyền chiến tranh phải càng ngắn thì việc loan truyền
văn học mới có thể được thực hiện dễ dàng để vững tin tâm lý người lính. Các
sáng tác lúc này đa phần đều là khẩu hiệu, thơ, truyện ngắn…Tiểu thuyết lúc này
khá là ít ỏi, tiểu thuyết chiến tranh tiêu biểu đại diện cho giai đoạn này là Xung
kích của Nguyễn Đình Thi.

14


Khi miền bắc hịa bình từ năm 1955 - 1964 đã tạo điều kiện cho nền văn
học phát triển đa dạng các đề tài như đề tài thế sự, đề tài đời tư, đề tài lịch sử.
Nhưng tựu trung lại, đề tài lịch sử, chiến tranh vẫn chiếm thế mạnh và bao quát
hết tất cả các đề tài khác. Các tác giả vẫn xây dựng nhân vật anh hùng điển hình
như để tri ân sâu sắc cho sự hi sinh xương máu của người lính và một số tác
phẩm đã trở thành đại diện tiêu biểu cho giai đoạn này: Một chuyện chép ở bệnh
viện - Bùi Đức Ái, Đất nước đứng lên - Nguyên Ngọc, Cao điểm – Hữu Mai,
Đất lửa - Nguyễn Quang Sáng….
Tuy nhiên, đến giai đoạn kháng chiến chống Mĩ năm 1965 - 1975, đề tài
chiến tranh lại nở rộ. Nhưng khác với những năm kháng chiến chống Pháp, ngoài
cổ vũ chiến tranh, các nhà văn cịn đi tìm tịi lí giải vấn đề liên quan đến chiến
tranh như đạo đức, lối sống, con người. Mặc dù vậy, cảm hứng sử thi vẫn được
thể hiện trọn vẹn trong giai đoạn này. Các tác giả vẫn phản ánh bộ mặt chiến
tranh hào hùng, xây dựng nhân vật anh hùng chiến đấu. Một số tác phẩm tiêu
biểu cho giai đoạn này là Đất Quảng (phần I) - Nguyễn Trung Thành, Dấu chân
người lính – Nguyễn Minh Châu, Vùng trời – Hữu Mai, Hòn Đất – Anh Đức,
Rừng U Minh – Nguyễn Văn Bổng.
Từ khi dành được độc lập dân tộc, đuổi được Mĩ về nước năm 1975 đến
năm 1985, các nhà văn vẫn theo xu hướng cũ bởi sự ảnh hưởng của nền bao cấp
chính trị. Ở giai đoạn này, mặc dù dân tộc đã dành lại hòa bình thống nhất đất

nước nhưng họ vẫn phải hứng chịu cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam (1977 –
1989). Pol pot đã mở cuộc tấn công xâm lược Việt Nam trên tồn tuyến biên giới
Tây Nam, thi hành chính sách diệt chủng đối với người Việt. Dân tộc Việt Nam
lúc này mới thoát khỏi cuộc chiến lớn của dân tộc lại phải tiếp tục hứng chịu
cuộc chiến tranh biên giới. Vì nhận thấy Khmer Đỏ cực kì nguy hiểm nên quân
đội Việt Nam đã phải đánh dài hạn trong nhiều năm. Đến cuộc tấn công quyết
định mùa khô năm 1984 – 1985, chúng ta mới có thể dần rút quân về vì chế độ
Hun Sen đã có thể tự đứng vững được. Trong giai đoạn này, chúng ta cũng phải
hứng chịu chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 nhằm bắt ta phải rút qn
khỏi Campuchia. Chính vì hịa bình vẫn chưa trọn vẹn, chúng ta vẫn phải tiếp tục
cho cuộc chiến nên xu hướng viết về chiến tranh với niềm tự hào dân tộc và xây
dựng nhân vật anh hùng điển hình vẫn là xu hướng chung. Tuy nhiên, khơng phải
là khơng có sự đổi mới. Đã có một số nhà văn bắt đầu tìm tịi đổi mới trong nội
dung sáng tác, đặc biệt là sau năm 1980. Một số tác giả đã mạnh dạn hơn trong
việc thay đổi quan niệm tư duy như nhìn chiến tranh ở cự li gần hơn, cảm hứng
sử thi nhạt dần, thay vào đó là cảm hứng thế sự. Nội tâm, tính cách của nhân vật
người lính đã bắt đầu được đi sâu vào khai thác. Một số tác phẩm tiêu biểu cho

15


giai đoạn này như Miền cháy – Nguyễn Minh Châu, Năm 1975 họ đã sống như
thế, Trong cơn gió lốc – Khuất Quang Thụy…Nói chung, thời kì này hầu như
cách khai thác đề tài chiến tranh vẫn chảy dài theo xu hướng sử thi. Tuy nhiên,
cũng có một số tác giả đã manh nha cho sự đổi mới mà bước đầu là đổi mới về
quan niệm tư duy.
Về nghệ thuật, giai đoạn năm 1945 – 1985 thể hiện cảm hứng sử thi lãng
mạn. Các tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa yêu nước, độc lập tự do, niềm tin vào xã
hội chủ nghĩa. Hầu hết, các tác phẩm đều mang chất thơ và lãng mạn. Ngồi ra,
nó cũng có sự chệch hướng ví như miêu tả sự mất mát, đau thương nhưng do ra

đời trong giai đoạn đang trên đà phấn đấu vì sự nghiệp dân tộc nên nó bị phê
phán và chìm vào quên lãng. Cách xây dựng nhân vật giai đoạn năm 1945 - 1985
được xây dựng theo ranh giới rõ ràng như chính diện và phản diện. Các nhân vật
đều được kể, tả từ điểm nhìn bên ngồi. Mọi nhân vật đều hoạt động dựa trên
một tập thể, ít khi nào có sự cơ đơn và tuyệt vọng. Người lính tỏ ra vui tươi, phấn
chấn khi dấn thân vào chiến trường. Họ vui sướng khi nhận thức được lí tưởng
của dân tộc. Tất cả các nhân vật người lính có đạo đức suy đồi hay tính cách yếu
đuối, mơ mộng đều bị phê phán nặng nề vì thiếu tinh thần lí tưởng mà chỉ nhuốm
màu tiểu tư sản. Kết cấu tiểu thuyết theo truyền thống. Đó là thể hiện mối xung
đột giữa địch – ta và xung đột xã hội – lịch sử. Các tác phẩm nổi bật chính nghĩa
và phi nghĩa, thường chỉ ra nguyên nhân ta thắng địch. Đơi khi các tác phẩm
cũng có mâu thuẫn nội bộ hay mâu thuẫn gia đình nhưng cũng nằm trong mối
quan hệ xã hội – lịch sử, thể hiện biến cố lịch sử nhiều hơn là mô tả con người.
Các tác giả quan tâm đến từng giai đoạn chiến tranh chuẩn bị - tiến công – thu
quân khiến chúng ta có cảm giác thời gian ln gắn với sự kiện biến cố lịch sử.
Ngôn ngữ đơn thanh với giọng điệu tự tin, hào hùng, trang trọng. Các tác giả sử
dụng điểm nhìn nghệ thuật bên ngồi nhằm bao qt tồn bộ câu chuyện. Họ tuốt
đi tính chất suồng sã, thân mật của tác phẩm làm tác phẩm mang đậm ngơn ngữ
nghiêm túc của bộ đội, chính trị. Giai đoạn năm 1945 – 1985, điểm nhìn trần
thuật của các nhà văn lúc này thấp hơn nhân vật chính diện bởi vì người viết
khơng có tự tin có chân lí khác đúng hơn chân lý nhân vật chính diện nên thường
chỉ có một điểm nhìn là từ nhân vật chính. Các tác giả trong giai đoạn này khơng
có cơ hội tìm tịi đổi mới về nghệ thuật. Bởi vì họ khơng có thời gian cũng như
họ coi trọng viết cái gì hơn là viết như thế nào nên ít nhiều khơng tránh khỏi sự
đơn điệu trong cách viết văn. Nói chung, giai đoạn năm 1945 – 1985 là thời kì
chiến tranh dân tộc nên văn chương thường gắn liền với khuynh hướng sử thi,
khẳng định chính nghĩa dân tộc. Giọng điệu trần thuật giai đoạn năm 1945 –
1985 hầu như chỉ thể hiện giọng điệu khẳng định, ngợi ca, hào hùng, trang trọng,
vui tươi, phấn khởi, thành kính. Bởi vì, vào thời chiến, mọi người rất sợ những
16



tác phẩm mang giọng điệu buồn thương, đau đớn. Họ sợ rằng sẽ làm mất tinh
thần chiến đấu của người lính nên các tác phẩm đi ngược lại với giọng điệu này
sẽ coi như là chống cách mạng, là phản động và sẽ bị phê phán nặng nề. Ở giai
đoạn năm 1945 – 1985, do văn học được sáng tác trong bối cảnh chiến đấu nên
các nhà văn đều xem chiến tranh như là một đề tài lịch sử. Các nhà văn đều coi
trọng yếu tố xác thực, chân lí khách quan nhằm để phân biệt chính nghĩa hay phi
nghĩa nên người ta khó chấp nhận huyền thoại.
Nói tóm lại, tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn năm 1945 – 1985 thể hiện
cảm hứng sử thi. Hầu như, mọi tác phẩm thuộc thời kì này đều theo khuynh
hướng sử thi, thể hiện lí tưởng chiến đấu, hình tượng anh hùng cách mạng. Dù
khoảng từ năm 1980 đến 1985, tiểu thuyết chiến tranh bắt đầu manh nha sự đổi
mới. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm thời kì này đều chảy dài theo dòng chảy sử
thi, tạo nên một giai đoạn hào hùng của dân tộc.
1.1.2. Tiểu thuyết viết về chiến tranh từ thời kỳ Đổi mới (1986 – 2000)
Giai đoạn năm 1986 – 2000, Đại hội Đảng lần VI đã xác định đường lối
đổi mới toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục...chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng trước đó và mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ hơn. Thời kỳ Đổi mới đã tạo
điều kiện cho nền văn học phát triển theo hướng đổi mới và cách tân. Theo Phan
Trọng Thưởng trong bài viết “Vấn đề đánh giá văn học Việt Nam thời kỳ Đổi
mới” thì thời kỳ Đổi mới cũng đã đáp ứng được nhu cầu mong muốn được thỏa
mãn của các nhà văn. Bởi vì trước đó vài năm, các tác giả đã cảm thấy bức bối
trong việc sáng tác một chiều và manh nha nhiều sự đổi mới. Sau khi thoát khỏi
giai đoạn chiến tranh và dư âm sau đó của nó, các nhà văn bắt đầu nhận thấy sự
non nớt, yếu kém trong lĩnh vực văn học. Vì vậy, họ khao khát được nhìn nhận
lại thời kỳ văn học chiến tranh bằng nhiều góc nhìn khác nhau. Họ khát khao
sáng tạo, làm mới quan niệm tư duy và thi pháp. Hầu hết, các tác giả mong muốn
hưởng ứng và tham gia phong trào Đổi mới là các tác giả đã trưởng thành trong
thời kì chiến tranh. Họ nhận thấy rằng văn học đã bị chi phối q nhiều bởi chính

trị vì thế tính cơng thức, tính giáo huấn, tính minh họa, tính tun truyền…xuất
hiện dày đặc trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn lúc bấy giờ.
Theo như cơng trình “Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam
sau 1975 – Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật” của Nguyễn Thị
Thanh, nếu nói thời kỳ này đổi mới và cách tân hồn tồn khác với giai đoạn
trước thì hồn tồn khơng phải. Vào thời kì Đổi mới, các nhà văn vẫn sáng tác
dựa trên một nền tảng, một kho tàng văn học, những giá trị nhân văn lâu đời hình
thành qua bao thế hệ, đặc biệt là dựa vào thượng nguồn văn học chiến tranh giai

17


đoạn năm 1945 trở đi. Tuy nhiên, lúc này các tác giả đã có sự nhìn nhận lại chiến
tranh theo một góc nhìn khác, đau thương hơn, mang bản chất nhân tính hơn. Từ
đó, các tác phẩm viết về chiến tranh cũng chia thành nhiều xu hướng. Thứ nhất là
vẫn theo xu hướng cũ. Các tác giả vẫn mô tả trận đánh một cách oai hùng và mô
tả những người lính vơ cùng u nước, chiến đấu hi sinh anh dũng nhằm thể hiện
sự tri ân đến các người lính. Thứ hai là xu hướng nhìn nhận lại chiến tranh theo
hướng đau thương, mất mát, con người cá nhân với những đa đoan, lo toan bộn
bề cuộc sống. Chiến tranh nhấn mạnh vào sự chân thật, sự hi sinh, mất mát đau
khổ (khác với quan niệm truyền thống viết để phục vụ cổ động chiến tranh nên
tránh những mất mát đau khổ làm mất tinh thần người lính). Các tác giả tập trung
vào miêu tả cái bi kịch mà trước đó bị phê phán. Hàng loạt các tác phẩm đi vào
góc khuất của chiến tranh (Đi về nơi hoang dã – Nhật Tuấn, Góc tăm tối cuối
cùng – Khuất Quang Thụy, Người đưa đường thọt chân – Bùi Việt Sỹ…). Các
tác giả viết về chiến tranh là viết về số phận, nhân tính, đề cao viết về con người
để thấy góc khuất của chiến tranh. Họ viết trên kinh nghiệm cá nhân nhằm giải
tỏa những trải nghiệm cá nhân của mình nhưng vẫn mang sự hư cấu và sáng tạo.
Họ viết về chiến tranh trên nguyên tắc đối thoại, tra vấn, hồi nghi chứ khơng chỉ
đơn thuần là mơ tả lại hình ảnh chiến tranh. (Nước mắt đỏ - Trần Huy Quang,

Vòng tròn bội bạc, Ba lần và một lần - Chu Lai, Lạc rừng - Trung Trung
Đỉnh…). Vào thời bình, con người chăm lo cho đời sống kinh tế, xã hội ngày một
tốt hơn. Trên con đường tìm lấy hạnh phúc cũng khiến xã hội nảy sinh rất nhiều
về vấn đề thế sự. Vì thế, các nhà văn coi vấn đề chiến tranh lúc này khơng cịn là
chủ yếu mà phương tiện chiến tranh chỉ là phương tiện để nhân vật mô tả các vấn
đề thế sự . Hoặc một số tác giả viết song song giữa hai đề tài của đương đại và đề
tài chiến tranh.
Về thể loại văn xuôi chiến tranh, tiểu thuyết đạt được nhiều thành tựu hơn
cả. Tiểu thuyết được thay đổi cả về quan niệm tư duy và quan niệm nghệ thuật.
Các tác giả đã tự đi tìm và giải quyết câu hỏi: “ Có thể viết về chiến tranh như thế
nào?” và “Có thể viết về tiểu thuyết như thế nào?” [23;23] Chính vì thế, nhiều
tiểu thuyết chiến tranh ra đời ghi nhận được nhiều dấu ấn trong lòng độc giả. Các
tác giả cho thấy mặt trái của chiến tranh, nhận thức lại hiện thực và con người
trong chiến tranh. Và rất nhiều các tác giả khai thác cuộc sống sau thời chiến
tranh của người lính. Tiêu biểu là tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Bằng việc sử dụng kĩ thuật dòng ý thức, Bảo Ninh đã đi sâu vào miêu tả những
giấc mơ, những kí ức, những màn độc thoại nội tâm của nhân vật Kiên. Từ đó, bộ
mặt chiến tranh tàn khốc, ác liệt hiện lên như một phần kí ức khơng sao thể xóa
nhịa của người lính. Các tác giả đã đổi mới rất nhiều về nội dung và nghệ thuật
khi khai thác về đề tài chiến tranh. Một số tác phẩm thời kỳ này gây dấu ấn với
18


độc giả là Thời xa vắng – Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai, Chim én bay –
Nguyễn Trí Huân…
Về nghệ thuật, giai đoạn năm 1986 – 2000, việc thoát khỏi chiến tranh
đồng nghĩa với việc lo lắng cho cuộc sống hướng tới sự tốt đẹp hơn. Vì thế, văn
học xuất hiện các tác phẩm mang đề tài khác nhau và đa dạng khuynh hướng
sáng tác. Vấn đề chiến tranh từ đó được nhìn nhận lại một cách tích cực, mang
nhiều cảm hứng sáng tác như cảm hứng đau thương, mất mát, cảm hứng tiếc

thương, buồn bã…Điều này thể hiện cách suy ngẫm và đánh giá riêng của nhà
văn về vấn đề chiến tranh. Cách xây dựng nhân vật có sự đổi mới. Ngồi nhân
vật anh hùng, các nhà văn còn xây dựng kiểu nhân vật dòng ý thức và nhân vật
ghép mảnh. Ở kiểu nhân vật dòng ý thức, tác giả sử dụng thủ pháp dòng ý thức
khiến cho nhân vật bộc lộ nỗi niềm tâm trạng của mình thơng qua những ký ức,
những dịng hồi tưởng miên man. Ở kiểu nhân vật ghép mảnh, tác giả xây dựng
nhân vật thông qua nhiều mảnh ghép lại với nhau, thường là nhân vật được xây
dựng thông qua những câu chuyện, những mô tả của những người xung quanh.
Kết cấu truyện giai đoạn năm 1986 – 2000 cũng có sự đổi mới tương ứng với
cách xây dựng nhân vật là kết cấu đồng hiện – nhân vật dòng ý thức và kết cấu
lắp ghép – nhân vật ghép mảnh. Kết cấu đồng hiện là kết cấu có thể đặt theo hai
tuyến quá khứ và hiện tại gần kề theo mối liên hệ nào đó (đồng hiện theo trình tự
thời gian và đồng hiện theo hồi ức miên man của nhân vật) và kết cấu lắp ghép là
câu chuyện được kể theo những mảnh ghép, hiện tượng khác xa nhau nhưng lại
đặt cạnh kề nhau thậm chí có thể ghép thể loại như phóng sự, kí, thư từ…Ngơn
ngữ lúc này mang tính chất đời thường và giàu tính đối thoại chủ yếu là đối thoại
về tư tưởng mà họ chiêm nghiệm được sau chiến tranh. Trước năm 1986, nhân
vật trong tác phẩm thường đi từ mơ hồ đến nhận thức được lí tưởng cách mạng.
Do đó họ bước vào cuộc chiến với tâm thế khẩn trương, vui vẻ, niềm tin tươi
sáng vào cuộc chiến. Tuy nhiên, sau năm 1986, nhu cầu “nói thẳng, nói thật”
được nhân rộng nên các nhà văn có thể nhìn thẳng vào bản chất chiến tranh mà tỏ
rõ quan điểm của mình. Dù vài năm trước đó, nhu cầu này đã có sự manh nha,
đổi mới nhưng vì cịn chịu ảnh hưởng bởi chính trị, xã hội nên các nhà văn chỉ
nhìn chiến tranh ở cự li gần mà chưa đi sâu vào bản chất của nó. Ngơn ngữ phát
triển theo hướng đời thường cũng là một nhu cầu tất yếu của xã hội. Bởi vào thời
kì này khơng cịn nhiều nhà văn quan niệm mình phải là người dự báo, người đi
trước có thể giáo huấn nhiều thế hệ. Nhà văn thời kì này chỉ mong muốn được
chia sẻ những trải nghiệm mà mình đã trải qua, đứng ngang hàng hoặc thấp hơn
độc giả. Vì thế, những ngôn ngữ chia sẻ chắc chắn sẽ mang tính chất đời thường
chứ khơng cịn thể hiện sự nghiêm túc của sự giáo huấn. Điểm nhìn trần thuật

giai đoạn năm 1986 – 2000 được đa dạng hóa. Bởi vì lúc này văn học đề cao tính
19


dân chủ, tính đối thoại. Họ mong muốn viết về những điều mình trải nghiệm
hoặc thể hiện những cảm nhận khác nhau về chiến tranh nên có nhiều điểm nhìn
để độc giả có thể thấy chân lí khách quan của cuộc sống. Chiến tranh lúc này có
thể được nhìn qua nhiều nhân vật, từ người trong cuộc lẫn ngoài cuộc, từ ta đến
giặc. Các tác phẩm có sự đa dạng điểm nhìn hầu hết là các tác phẩm có nhiều
người kể. Điều đó cho thấy, các tác giả viết trên tâm thế đối thoại chứ khơng cịn
mang tinh thần định hướng cho độc giả. Giọng điệu trần thuật cũng khá đa dạng
như phân tích, lí giải, đối thoại, chất vất, hoài nghi, châm biếm, giễu nhại, giọng
buồn thương khắc khoải, giọng vui tươi, ấm áp… Điều đặc biệt, giai đoạn năm
1986 – 2000 khác với các giai đoạn trước là việc gia tăng các yếu tố huyền thoại
như điềm báo, hồn ma, những chuyện hoang tưởng khơng có thật....Bởi vì, sau
năm 1986 quan niệm về thể loại tiểu thuyết thay đổi cũng như nền văn học minh
họa dần bị xóa bỏ, các nhà văn đề cao tính hư cấu để thỏa mãn trí sáng tạo của
mình nên yếu tố huyền thoại, những câu chuyện kì lạ, hồn tồn do tưởng tượng
nở rộ.
Tóm lại, giai đoạn tiểu thuyết chiến tranh năm 1986 – 2000 có sự thay đổi
hồn tồn rõ rệt đối với giai đoạn trước. Năm 1986, giai đoạn lịch sử đánh dấu
mốc bắt đầu công cuộc đổi mới đã tạo điều kiện cho các nhà văn nhìn nhận lại
các cuộc chiến tranh của dân tộc ở nhiều khía cạnh khác nhau. Từ đó, tiểu thuyết
chiến tranh trở nên đa dạng. Nội dung và nghệ thuật cũng được các nhà văn tìm
tịi, sáng tạo những điều mới mẻ.
1.1.3. Tiểu thuyết viết về chiến tranh từ năm 2000 đến nay
Kể từ khi đất nước bước vào giai đoạn hịa bình, dân tộc thống nhất, đề tài
chiến tranh vẫn chiếm vị trí quan trọng với số lượng tác phẩm cực kì lớn. Tuy
nhiên, từ đầu thế kỉ XXI đến nay, có thể nói, tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam
dường như bị chững lại. Số lượng tác phẩm thời kì này ít hơn gấp nhiều lần sau

cao trào sáng tác về đề tài chiến tranh của các giai đoạn trước. Những người
mang tâm huyết với đề tài này bày tỏ thái độ vô cùng lo lắng với tình trạng thiếu
hụt đội ngũ sáng tác kế thừa đề tài truyền thống này ở các cuộc tọa đàm và hội
thảo. Theo như tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết “Sự trở lại của đề tài chiến
tranh cách mạng” cho rằng giai đoạn năm 1995 – 2005 là giai đoạn hầu như đề
tài viết về chiến tranh bị lãng quên do chạy theo các đề tài nóng bỏng của thời
đại. Các nhà văn sau thời kì cởi trói đã cố tạo dựng một hướng đi mới. Vào đầu
thế kỉ XXI, đất nước cũng bắt đầu hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa một cách mạnh
mẽ nên con người chú trọng vào phát triển kinh tế. Từ đó, sống vội hình thành
trong bản năng và người ta mong muốn “nhanh” để thỏa mãn nhu cầu giải trí, thư

20


giãn hơn là những tác phẩm mang nặng tính tư duy. Văn chương thời kì này khai
thác mạnh vào những giá trị mà xã hội đã cởi mở hơn như đồng tính, tình dục,
trinh thám, kì ảo…Khơng chỉ do phát triển mạnh đa dạng các đề tài hay các nhà
văn chỉ quan tâm những vấn đề thời sự nóng bỏng mà còn do sự e ngại của các
nhà văn trẻ khi sáng tác đề tài cách mạng. Nhà văn Nguyễn Đình Tú đã cho rằng:
“Có thể thấy sự e ngại của nhà văn (không chỉ nhà văn trẻ) về đề tài chiến tranh
là bởi lâu nay đề tài chiến tranh vốn vẫn được xem là “đề tài chính trị”. Các nhà
văn thành danh nhờ tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam, hầu như cũng chỉ
dừng lại ở mức độ minh họa, hoặc khắc họa những “khoảnh khắc anh hùng”
trong chiến tranh, “nỗi đau đời thường” thời hậu chiến v..v..” [15]. Ngồi ra,
nhà văn cũng cho rằng chính độc giả đã thể hiện sự nguội lạnh trước những tác
phẩm viết về đề tài chiến tranh: “Chính vì chiến tranh kết thúc có hơn 30 năm
nên người đọc nước ta vẫn còn bội thực với những tác phẩm viết về chiến tranh.
Suốt bao nhiêu năm ngồi trên ghế nhà trường chúng ta đã học về văn học chiến
tranh. Bao nhiêu ngày lễ lớn trong năm là bấy nhiêu ngày tâm hồn chúng ta lại
được khuấy động bởi các tác phẩm văn học nghệ thuật liên quan đến chiến

tranh. Và đương nhiên là người ta có nhu cầu thốt ra khỏi nó. Trong khi đời
sống hội nhập có bao nhiêu thứ để quan tâm. Nhà văn cũng theo tâm thế thời đại
mình đang sống mà cầm bút, và sáng tác. Tôi nghĩ đề tài chiến tranh bây giờ
nguội đi là hợp lý. Nguội nhưng vẫn chảy trong dòng máu sáng tạo của những
người trẻ thế hệ 7, 8X để vài chục năm nữa chúng ta lại có một sự trở lại thăng
hoa và được mùa hơn trong đề tài này. [15]
Tuy nhiên, những năm gần đây đã có tín hiệu vui trong sự quay trở lại của
đề tài cách mạng. Nhờ các cuộc thi được tổ chức rộng rãi trên khắp cả nước mà
các nhà văn đã phấn khởi hơn khi sáng tác về đề tài cách mạng. Liên Hiệp các
Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã phát động cuộc thi sáng tác về đề tài cách
mạng và kháng chiến giai đoạn năm 1930 – 1975 và được sự hưởng ứng nhiệt
tình của đơng đảo các tác giả của nhiều thế hệ với hơn 1.500 bài dự thi từ khắp cả
nước gửi về. Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội đã phối hợp với Hội Nhà
văn Việt Nam đã phát động cuộc thi sáng tác văn học về đề tài Thương Binh –
Liệt sĩ và những người có cơng với cách mạng nhân kỷ niệm 70 năm ngày
thương binh - liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2017). Theo đó, 800 tác phẩm được gửi về
và 42 tác phẩm lớn đã được tơn vinh, trao giải. Ngồi ra, cịn rất nhiều các cuộc
thi khác sáng tác về đề tài cách mạng như cuộc thi truyện ngắn và thơ trên Văn
nghệ quân đội, cuộc vận động viết về chiến tranh và người lính của Bộ Quốc
phòng, cuộc thi tiểu thuyết của Hội nhà văn Việt Nam... Các tác phẩm này đã có
sự đóng góp to lớn vào sự vận động của nền văn xuôi chiến tranh, đặc biệt là thể
loại tiểu thuyết. Điều này cho thấy, không phải các nhà văn, đặc biệt là nhà văn
21


trẻ thờ ơ, lo ngại khi viết về đề tài cách mạng mà là chưa có ngọn đuốc nào thổi
bùng lên ngọn lửa trong lịng họ. Chính nhờ các cuộc thi mà những người viết
mong muốn được trải nghiệm và lĩnh hội kiến thức. Và cũng khơng ít các tiểu
thuyết chiến tranh sáng tác nhằm mục đích chia sẻ với độc giả, tri ân các anh
hùng chiến đấu. Từ đó, các tác phẩm đã dần làm rõ diện mạo của dịng văn học

chiến tranh đầu thế kỉ XXI. Trong đó, tiểu thuyết chiến tranh có sự đóng góp rất
lớn trong công cuộc khái quát sự vận động của văn học chiến tranh đầu thế kỉ
XXI. Một số tiểu thuyết chiến tranh tiêu biểu cho dòng văn học này là Xác phàm,
Bên dịng sầu diện, Hoang Tâm - Nguyễn Đình Tú, Màu rừng ruộng, Con chim
joong bay từ A đến Z - Đỗ Tiến Thụy, Miền hoang - Sương Nguyệt Minh, Mây
cuối chân trời - Nguyễn Trọng Oánh, Cao hơn bầu trời, Mùa hè giá buốt Nguyễn Văn Lê, Đỉnh máu - Nguyễn Bảo, Đối chiến - Khuất Quang Thụy, Cơ
bản là buồn - Nguyễn Ngọc Thuần, Quân Khu Nam Đồng - Bình Ca, Hạt hịa
bình - Minh Moon, Thoạt kỳ thủy - Nguyễn Bình Phương…
Nhìn chung, tiểu thuyết chiến tranh đầu thế kỉ XXI vẫn dựa trên nền tảng
văn học chiến tranh giai đoạn 1945 – 1975 nhưng ở giai đoạn này đã có những sự
đổi mới rõ rệt.
Tiếp nối giai đoạn năm 1986 – 2000, các nhà văn cầm súng vẫn viết lên
những điều mình đã trải nghiệm cũng như viết để tri ân sâu sắc đến những linh
hồn người lính, những thương binh đã bị tổn thương trong hai trận đấu lớn của
dân tộc. Chiến tranh đã lùi xa nên bên trong họ có cái nhìn điểm tĩnh và sâu sắc
hơn, họ bắt đầu nhận thức lại những giá trị mà chiến tranh đem lại. Khi âm
hưởng hào hùng của chiến tranh đã dần hạ nhiệt là lúc chúng ta thấy được sự đau
thương mất mát mà chiến tranh đem lại cho con người. Xung quanh xã hội lúc
bấy giờ, đâu đâu cũng là cảnh tang thương, mất mát mà chiến tranh sau khi đi
qua để lại. Chính vì thế, những nhà văn đã trải qua cuộc chiến đấu đều cảm thấy
chiến tranh được mô tả trong giai đoạn năm 1945 – 1975 đều chỉ là một nửa sự
thật về bộ mặt của chiến tranh. Một nửa sự thật còn lại, các tác giả đều mong
muốn được khai thác một cách trọn vẹn nhất có thể để làm trịn nhiệm vụ của
mình khi phác họa tồn diện về bộ mặt thật của chiến tranh. Điều đó ln thơi
thúc họ cầm bút và sáng tác vì họ cho rằng đây hồn tồn là trách nhiệm, là món
nợ tinh thần mà họ phải trả cho nhiều thế hệ. Các nhà văn trên tinh thần đổi mới
về quan điểm tư duy khi phác họa sự đau thương của chiến tranh nhưng họ vẫn
kế thừa và tiếp nối tiểu thuyết sử thi, xây dựng những nhân vật anh hùng nhưng
kèm theo đó là đi sâu vào miêu tả nội tâm, tâm lí của nhân vật. Ở giai đoạn này,
các tác phẩm chiến tranh không chỉ đề cập đến những tổn thất, sức hủy diệt của

chiến tranh của thời chiến đấu (Đỉnh máu – Nguyễn Bảo, Đối chiến – Khuất

22


Quang Thụy) mà còn là sự ám ảnh về nhiều tâm lí, tổn thất về vật chất và tinh
thần do hoàn cảnh chiến tranh gây nên ở thời hậu chiến (Cơ bản là buồn –
Nguyễn Ngọc Thuần).
Đối với người viết trẻ, họ ln có ý thức về sự đổi mới trong các sáng tác
của mình. Đặc biệt là họ khơng muốn phải khai thác chiến tranh giống với thế hệ
cha anh vì kinh nghiệm của họ khơng đủ để khắc họa chiến tranh sâu sắc như
cha, anh mình.
Trong thời đại internet, mạng thông tin xã hội diễn ra khắp
nơi. Con người có thể nắm bắt một cách dễ dàng thơng tin đại chúng. Và mạng
xã hội là một nguồn lực giúp con người thể hiện tiếng nói của mình. Thời đại
thơng tin phát triển nhanh chóng, chỉ cần vài giây tin tức đăng lên cũng đã có thể
có hàng ngàn người đọc. Tuy nhiên, do sự lan truyền đôi khi là của một cá nhân
hay một nhóm tổ chức, khơng có sự xác minh rõ ràng nên thơng tin ln bị nghi
ngờ về tính xác thực. Trong bối cảnh thời đại như thế, tinh thần nghi vấn, hồ
nghi, đối thoại được khơi dậy trong tâm thế sáng tác của người viết trẻ. Họ khao
khát được đổi mới lối viết , cách khai thác về chiến tranh. Nhiều nhà văn đã tự
nhận thức lại chiến tranh dù khơng có kinh nghiệm chiến trường. Từ đó đưa ra
các tác phẩm với góc nhìn đa chiều về chiến tranh, khắc họa rõ ràng hiện thực và
con người của chiến tranh. Các sáng tác của người viết trẻ xây dựng nhân vật
hoàn toàn đều từ góc nhìn của những người trẻ (Cơ bản là buồn – Nguyễn Ngọc
Thuần, Hạt hịa bình – Minh Moon, Xác phàm – Nguyễn Đình Tú). Bởi vì kinh
nghiệm cầm súng của họ trên chiến trường hầu như khơng có nên họ rất e ngại
trong cách khai thác nhìn chiến tranh bằng góc nhìn trực diện của những người
lính đã trải máu trên chiến trường. Người viết trẻ cũng nhìn lại chiến tranh Việt
Nam từ góc nhìn nhân tính. Họ thường khai thác cách hòa giải giữa chiến tranh

Việt Nam và nước Mĩ (Màu rừng ruộng – Đỗ Tiến Thụy, Cơ bản là buồn –
Nguyễn Ngọc Thuần). Chiến tranh lúc này còn được tác giả khai thác rất đặc
biệt. Các nhà văn khiến cho độc giả cảm giác rằng: họ cảm thấy chiến tranh chưa
phải là điều kinh khủng nhất. Chiến tranh đối với họ là ở tít xa kia, thế nên cách
mô tả hay cảm nhận về chiến tranh của họ cũng trở nên nhẹ nhàng hơn (Hoang
tâm – Nguyễn Đình Tú, Màu rừng ruộng – Đỗ Tiến Thụy). Ở trong tác phẩm của
người viết trẻ, các nhân vật đều đau đáu về trách nhiệm của mình đối với thời
bình, đối với nhiệm vụ bảo vệ đất nước (Biển xanh màu lá – Nguyễn Xuân
Thủy). Không như cha ông ngày xưa ra chiến trường, hi sinh vì đất nước để đem
lại độc lập tự do cho dân tộc, thế hệ trẻ ngày nay phải đi nghĩa vụ quân sự để giữ
gìn biên giới đất nước. Tuy nhiên, nhìn đi cũng phải nhìn lại, họ tự vấn mình
chưa làm được gì cho đất nước cả và họ mong muốn được như cha anh của mình,
có thể đóng góp một phần công sức cho đất nước.

23


Nói chung, dù cả hai thế hệ nhà văn có những đặc điểm riêng về cách tiếp
cận đề tài chiến tranh nhưng nhìn chung, các tiểu thuyết chiến tranh của giai đoạn
đầu thế kỉ XXI đều có những đặc điểm chung về nội dung và nghệ thuật. Chúng
tôi chủ yếu dựa vào bài nghiên cứu “Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng
Việt Nam 2004 – 2009” của Cấn Thị Thu Hằng và những tiểu thuyết chiến tranh
của các nhà văn trẻ mà chúng tôi đã khảo sát để có thể khái quát diện mạo tiểu
thuyết chiến tranh đầu thế kỉ XXI.
Về nội dung, các sáng tác vẫn kế thừa những đặc điểm của giai đoạn trước
và dựa vào nền tảng đó để sáng tạo, đổi mới. Tiếp tục giai đoạn 1986 – 2000, các
tác giả tiếp cận chiến tranh bằng cái nhìn đa chiều. Khơng cịn đơn thuần phản
ánh xung đột giữa địch và ta hay thể hiện chủ nghĩa anh hùng dân tộc trong thời
chiến mà các nhà văn cịn tiếp cận chiến tranh ở góc nhìn đau thương hơn, khơng
né tránh những cảnh chết chóc và cịn đi sâu vào những góc khuất của chiến

tranh. Hiện thực chiến tranh lúc này hoàn toàn là những cảnh chết chóc, tang
thương của chiến tranh. Và tác giả đã không hề phủ nhận sự thật của chiến tranh
vào trong tác phẩm của mình. Hiện thực cũng khơng cịn là bức tranh chiến đấu
giữa địch và ta, của biến cố lịch sử mà một số tác phẩm làm mờ dữ kiện lịch sử
để nhường chỗ cho thể hiện hiện thực và con người chiến tranh. Hiện thực đó có
thể là của một cộng đồng hay đơn giản là vấn đề của cá nhân mà các nhà nghiên
cứu gọi tên “những con người bị chấn thương”. Dù trong thời kì này, tiểu thuyết
đã có thể được gọi là thể loại hồn toàn sử dụng chất liệu hư cấu nhưng đối với
các nhà văn viết về đề tài chiến tranh. Dữ kiện, lịch sử về chiến tranh vẫn được
khái quát lại đúng tiến trình lịch sử của nó. Các nhà văn vẫn coi trọng sự xác thực
của các sự kiện chiến tranh trong các tác phẩm của họ bởi vì họ trân trọng trọn
vẹn các cuộc chiến của dân tộc. Cuộc chiến mà nhân dân ta đã đổ biết bao xương
máu lên chiến trường nên các sự kiện từ ngày tháng đến nơi chốn đều được đưa
chính xác vào tác phẩm. Điều đặc biệt của nhà văn là các tác giả đã khơng ngần
ngại khi nói ra ngun do thất bại của cuộc chiến. Các tác giả không chỉ phản ánh
lịch sử mà cịn tạo nên xu hướng lí giải lịch sử. Đây cũng là những điều khiến
các tác giả trở nên dạn dĩ hơn, khơng cịn e ngại khi viết về chiến tranh.
Các nhà văn cũng có sự thay đổi về quan niệm con người chiến tranh. Nếu
trong giai đoạn năm 1945 – 1975, các tác giả miêu tả những nhân vật chiến đấu
là anh hùng hào kiệt song ở giai đoạn này ngoài vẫn tiếp nối xây dựng nhân vật
anh hùng sử thi, các tác giả còn đi sâu vào miêu tả nội tâm, tâm lí của nhân vật để
độc giả thấy người lính vẫn cần được tri ân vì sự hi sinh cao cả của họ nhưng
cũng để độc giả thấy được cuộc sống đời thường như bao người của người lính.
Có những người lính can trường chiến đấu vì đồng đội, vì đất nước thì cũng sẽ có

24


người ngược lại, các nhà văn đã đi sâu vào góc khuất miêu tả những con người
hám danh hám lợi, những kẻ háo sắc, đào ngũ, hèn nhát đã bỏ đồng đội của mình

lại nơi chiến trường để chạy trốn, những kẻ điên cuồng bắn giết để thỏa mãn cơn
khát máu của mình (Thoạt kỳ thủy – Nguyễn Bình Phương). Những kẻ ấy được
các nhà văn miêu tả rất chân thật. Điều đó đã cho thấy từ chiến tranh đến con
người, đâu cũng có mặt trái của nó. Tình u của con người thời chiến giai đoạn
năm 1945 – 1975 đã được miêu tả rất hồn nhiên, trong sáng, chung thủy và đẹp
đẽ nhưng đến thời đại này, mọi thứ đều trở nên phóng khống hơn nên các nhà
văn đã mạnh dạn khai thác yếu tố bản năng của con người đó là vấn đề tính dục
trong các tác phẩm.Từ miêu tả cảnh ân ái chớp nhoáng của vợ chồng người lính
với ngơn từ tính dục (Xác phàm – Nguyễn Đình Tú) đến nặng nề hơn khai thác
các cảnh tra tấn nơ lệ tình dục của bọn giặc (Con chim joong bay từ A đến Z – Đỗ
Tiến Thụy). Vấn đề tính dục nổi lên như một vấn đề nóng bỏng và hầu hết ở các
tác phẩm khơng ít thì nhiều các tác giả cũng khai thác vấn đề này vào trong tác
phẩm của mình. Có lẽ bởi vì, bản năng con người là khơng thể kiểm sốt được và
để mô tả một sự thật trần trụi về chiến tranh thì vấn đề tính dục cũng được xem
xét là một sự đổi mới trong các tiểu thuyết chiến tranh của thời đại bây giờ. Về
bên giặc, nhà văn đã có cái nhìn nhân tính hơn khi miêu tả những người lính giặc
cũng chỉ là những con người bình thường. Họ cũng bị tổn thương về thể chất và
tinh thần do chiến tranh mang lại. Trong thời bình, ngồi những người lính giặc
được miêu tả khn sáo khi đánh nước ta thì bên cạnh đó, các tác giả cũng miêu
tả tình người trong họ. Họ vẫn giúp lương thực cho những người chạy nạn nước
ta (Xác phàm – Nguyễn Đình Tú). Khi chiến tranh đã lùi lại sau bao nhiêu năm,
những người lính giặc trở lại thăm chiến trường xưa của mình và họ cũng trân
trọng dân tộc ta như dân tộc họ (Màu rừng ruộng – Đỗ Tiến Thụy). Họ giúp
chúng ta về tiền bạc, vật chất cho những con người đã bị tổn thương sau chiến
tranh, kêu gọi ủng hộ nước ta vì bệnh chất độc màu da cam (Cơ bản là buồn –
Nguyễn Ngọc Thuần)…Tóm lại, những người lính giặc đâu cũng có người tốt và
người xấu và các nhà văn đã nhìn lại bản chất của người lính giặc ở góc nhìn
nhân tính hơn. Ngồi khai thác người lính, các tác giả cịn khai thác cách xây
dựng nhân vật quần chúng. Nhân vật quần chúng là những người một lịng che
chở cho cách mạng ln vì cách mạng mà phấn đấu, để có thể là hậu phương

vững chắc cho dân tộc. Tuy nhiên, ở thời kì này, ngồi việc mơ tả nhân vật quần
chúng ln là hậu phương vững chắc cho cách mạng thì các tác giả còn miêu tả
nhân vật quần chúng trở nên thờ ơ với cách mạng (Mộ phần tuổi trẻ - Huỳnh
Trọng Khang). Không những thờ ơ mà các nhân vật này đôi khi còn mất niềm tin
vào người lãnh đạo khi người lãnh đạo xảy ra những sai lầm khiếm khuyết. Họ

25


×