Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đa dạng hóa các hình thức tín dụng ở việt nam thực trạng và giải pháp 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.55 KB, 25 trang )

Lời mở đầu
-----***-----

Hồn tồn khơng q lỗi khi nhận định. Nếu khơng có tín dụng thì chẳng có
đường sắt ở châu Âu cũng như các cơng trình to lớn khác. Thật thế, tín dụng ra
đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản xuất và lưu
thơng hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho q trình sản xuất được thơng suốt, giúp tích
tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến chuyển đáng kinh ngạc. Sự
phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng là minh chứng hùng hồn cho
sự cần thiết của nó.
Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam. Tín dụng vừa đơn điệu về
loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại khơng phát huy được vai trị của nó với
nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi song nó
vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, việc đa dạng hóa các hình
thức tín dụng, việc quan tâm và xem xét thực trạng và cần có những giải pháp
phát triển các hình thức tín dụng đó là việc rất cần thiết khơng chỉ với ngành Tài
chính - Ngân hàng mà cịn là đối với cả đất nước.
Chính sự cần thiết như vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay và với sự hướng
dẫn và giúp đỡ của thầy cô, em chọn đề tài:

Đa dạng hóa các hình thức Tín dụng ở Việt Nam.
Thực trạng và giải pháp.

1


Để có thể giải quyết vấn đề trên, trong khn khổ bài viết này em trình bày
những vấn đề sau:
Chương 1: Các hình thức tín dụng trong nền kinh tế thị trường
I. Tín dụng thương mại
II. Tín dụng ngân hàng


III. Tín dụng nhà nước
IV. Tín dụng thuê mua
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển các hình thức tín dụng ở
Việt Nam
I. Tín dụng thương mại
1.Thực trạng
2.Giải pháp phát triển
II. Tín dụng ngân hàng
1.Thực trạng
2.Giải pháp phát triển
III. Tín dụng nhà nước
1.Thực trạng
2.Giải pháp phát triển
IV. Tín dụng thuê mua
1.Thực trạng
2.Giải pháp phát triển
Mặc dù em đã rất cố gắng song bài viết khơng thể tránh khỏi những thiếu
sót. Em rất mong sự đóng góp của thầy cơ giáo và các bạn.

2


CHƯƠNG I
Các hình thức tín dụng
trong nền kinh tế thị trường
i.

Tín dụng thương mại.

1.


Khái niệm.
Tín dụng thương mại là hình thức sử dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh

nghiệp, tổ chức kinh tế được thể hiện dưới hình thức các doanh nghiệp mua chịu
hàng hoá và dịch vụ lẫn nhau.
2.

Nguyên nhân của sự xuất hiện tín dụng thương mại.
Là do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất,

mua hoặc bán sản phẩm, vì vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có
hàng hố muốn bán, trong lúc đó một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng
khơng có tiền. Trog trường hựp này nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán
muốn thực hiện được sản phẩm họ có thể bán chịu hàng hoá cho gười mua.
Mua bán chịu là hình thức tín dụng vì:
Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong
một thời gian nhất định.
Đến thời hạn đã được thoả thuận người mua hồn lại vốn cho người bán
dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.
3.

Vai trị của tín dụng thương mại.
Trong thời kỳ quản lý nền kinh tế theo kế hoạch tập trung hầu hết các nước

xã hội chủ nghĩa đều cấm tín dụng thương mại hoạt động. Đến những năm 1980
gắn liền với quá trình cải tổ và đổi mới quản lý kinh tế nhà nước đã bắt đầu cho
phép tín dụng thương mại hoạt động.
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh
nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mạ một mặt

đáp ứng được nhu cầu vốn của các nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu, đòng thời

3


giúp các xí nghiệp tiêu thụ sản phẩm của mình. Mặt khác, sự tồn tại của hình thức
tín dụng này sẽ giup cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn
nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Một vai trò quan trọng khác của tín dụng thương mại, đó là nó quyết định
tính khơng ăn khớp của quá trình sản xuất và kinh doanh hàng hố. Vì trong nền
kinh tế người sản xuất có hàng hố nhưng chưa chắc người kinh doanh đã có tiền
và người kinh doanh có tiền chưa chắc người sản xuất có hàng hố. Tín dụng
thương mại đã làm tăng nhanh tóc độ lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ.
Tín dụng thương mại cịn góp phần tiết kiệm tiền mặt, tiết kiệm lưu thông
tiền tệ, đảm bảo mối quan hệ kinh tế trong một nền kinh tế.
4.

Đặc điểm của tín dụng thương mại.
Vốn tín dụng tồn tại dưới hình thức hiện vật (do đó có độ an tồn khá cao);

Tồn bộ vốn tín dụng chưa phải là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi đã rút ra khỏi
quá trình sản xuất mà nó vẫn ở trong q trình sản xuất kinh doanh (vốn sản xuất
kinh doanh);
Quá trình vận đổng của vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vàc quy mơ của
q trình sản xuất kinh doanh.
5.

Cơng cụ của tín dụng thương mại.
Cơ sở pháp ly xác định quan hệ nợ nợ là giấy báo nợ. Đây là một loai đặc


biệt của khế ước dân sự xác định trao quyền cho người bán và nghĩa vụ thanh
toán nợ của người mua khi món nợ đến hạn.
Giấy nợ trong tín dụng thương mại gọi là thương phiếu.
Thưong phiếu có hai loại đó là kỳ phiếu và hối phiếu.
5.1. Kỳ phiếu thương mại là do người mua chịu phát hành ra để cam kết trả
một món nợ tiền nhất định khi đến hạn cho người bán.
5.2. Hối phiếu là do người bán chịu phát hành ra để ra lệnh cho người m ua
chịu trả số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn.
Bỏ qua sự khác biệt về người phát hành ra nó, hối phiếu và kỳ phiếu đều
giống nhau là thực hiện nghĩa vụ tài chính mà người mua chịu phải chiụ trách

4


nhiệm trước người bán chịu vào thời điểm nhất định với những điều kiện nhất
định.
5.3. Đặc điểm của thương phiếu.
- Tính trừu tượng: trên thương phiếu khơng ghi rõ nguồn gốc và mục đích
khoản nợ mà chỉ ghi nghĩa vụ tài chính.
- Tính bắt buộc: luật pháp sẽ can thiệp vào hành vi mua bán chịu đến thời
hạn thanh toán người mua chịu phải chịu trách nhiệm trả tiền một cách vô điều
kiện đối với người bán chịu.
- Đựơc lưu thơng như tiền: nó được dùng làm phương tiện lưu thơng,
phương tiện thanh tốn trong trời hạn hiệu lực của nó.
6.

Ưu, nhược điểm của tín dụng thương mại.

6.1. Ưu điểm.
- Giúp cho các doanh nghiệp (mua và bán) đảm bảo duy trì được tính liên

tục của q trình sản xuất kinh doanh.
- Quyết định tính khơng ăn khớp của sản xuất hàng hố, làm đẩy nhanh tốc
độ lưu thơng hàng hố;
- Góp phần làm giảm chi phí lưu thơng trong nền kinh tế và tham gia điều
tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp;
- Tiết kiệm được khối lượng lưư thơng tiền mặt. Tín dụng thương mại tồn
tại cùng với nền kinh tế thị trường, trở thành một đặc trưng của nền kinh tế thị
trường.
6.2. Nhược điểm.
Mặc dù tín dụng thương mại đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế
nhưng nó khơng thể thay thế các hình thức tín dụng khác, vì nó có nhữg mặt hạn
chế sau:
- Hạn chế về quy mơ tín dụng và chiều vận động của hàng hố. Tín dụng
thương mại do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp giới hạn khả
năng của mình. Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay khơng
thể đáp ứng được.

5


Quy mơ lớn nhất của tín dụng thương mại = tổng giá trị hàng hoá của người
bán chịu
Chiều vận động của tín dụng thương mại phụ thuộc vào chiều vận động của
hàng hố.
Nó chỉ vận động theo một chiều nhất định. Do đó ảnh hưởng đến nền kinh tế,
dẫn đến khhủng hoảng kinh tế mang tính lan tryền, cộng hưởng nếu một khâu
nào đó hay một bộ phận nào đó bị phá sản.
- Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất
của một doanh nghiệp có thể phù hợp với nhau, vì vậy khi thời hạn mà người cho
vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu khơng phù hợp hau thì tín dụng

khơng thể xảy ra. Tuy nhiên, nhờ phương pháp cấp tín dụng của ngân hàng dưới
hình thức chiết khấu đã giải quyết được một phần hạn chế.
- Hạn chế phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình
thức hàng hố, vì vậy nhà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số
xí nghiệp nhất định-những xí nghiệp cần hàng hố đó để sử dụng cho sản xuất
kinh doanh hoặc dự trữ để bán.
- Tạo ra mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa
Vì nếu mua trao tay tức là chỉ mua những thứ cần thiết trong ngắn hạn vì số
tiền là có giới hạn. Nhưng nếu có tín dụng thương mại tức là có tích luỹ tạo ra
cầu giả tạo làm cho người sản xuất sẽ sản xuất ra nhiều hơn và do đó sẽ tạo ra sự
dư thừa hàng hoá.
- Loại bỏ khả năng kiểm soát của hệ thống ngân hàng với hoạt động kinh
tế quốc dân làm tạo ra mầm mống cho những nguồn thu nhập bất hợp pháp.
ii.

Tín dụng ngân hàng.

1.

Khái niệm.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng

khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
Trong nền kinh tế, ngân hàng đóng vai trị là một tổ chức trung gian. Vì vậy,
trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp, các cá nhân, ngân hàng vừa là
người cho vay đồng thời cũng là người đi vay.
6


Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tièn gửi của các nhà doanh

nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu đó huy động vốn
trong xã hội.
Trái lại với tư cách là người cho vay ngân hàng cung cấp tina dụng cho các
doanh nghiệp và cá nhân.
2.

Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
- Vốn tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ, vốn tín

dụng đã được giải phóng ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi.
- Q trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với
quá trìh sản xuất kinh doanh;
- Hoạt động sản xuất kinh doanh mở rộng, phát triển sẽ làm cho nhu cầu về
vốn tăng dẫn đến hu cầu về vốn tín dụng cao và điều này tất yếu dẫn đến hoạt
động tín dụng ngân hàng phát triển theo;
- Tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ
sung và hỗ trợ cho nhau. Hoạt động của tín dụng thương mại sẽ tạo cơ sở để cung
cấp tín dụng ngân hàng, điều này thể hiện thông qua việc cấp vốn tín dụng ngân
hàng ttrên cơ sở thương phiếu của ngân hàng thươg mại. Trái lại hoạt động của tín
dụng ngân hàng đã góp phần khắc phục các mặt hạn chế của tín dụng thương
mại, đồng thời tạo điều kiện cho tín dụng thương mại phát triển.
3.

Ưu nhược điểm của tín dụng ngân hàng.
3.1. Ưu điểm.
- Có thể đáp ứng nhu cầu cả về khối lượng, thời hạn;
- Không bị giới hạn bởi quy mô và chiều vận động;

- Vai trị kiểm sốt của các tổ chức tín dụng, ngân hàng phát huy được vai

trị kiểm sốt của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, tín dụng ngân hàng trở thành một
hình thức chủ đạo trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa trước đây;
- Tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng rất lớn;
- Mở rộng phạm vi hoạt đống sang các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.

7


3.2. Nhược điểm.
- Rủi ro tín dụng: Những kết cục khơng mong muốn đối với ngân hàng có
thể xảy ra bất cứ lúc nào, dẫn đến phá sản, sụp đổ của tồn bộ hệ thống ngân
hàng, vì quy mơ của tín dụng ngân hàng là rất lớn (lợi ích giảm theo quy mơ và do
đối tượng là tiền nên có thể sử dụng sai mục đích, sai hướng) .
iii.

Tín dụng nhà nước.

1.

Khái niệm.
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa một bên là nhà nước và một bên

là các thành phần khác của nền kinh tế và nhà nước là người đi vay.
Chủ thể trong quan hệ tín dụng nhà nước (TDNN) bao gồm người đi vay là
nhà nước trung ương, nhà nước địa phương. Người cho vaylà dân chúng, các tổ
chức kinh tế và ngân hàng nước ngoài.
Trong nền kinh tế nhà nước là một chủ thể có ngân sách riêng và kho bạc
nhà nước là người đại diện thực hiện các khoản thu và chi ngân sách.
Thu và chi ngân sách có thể diễn ra trong ba trường hợp sau:
- Thăng bằng ngân sách, là trường hợp các khoản thu ngân sách đúng bằng

các khoản chi ngân sách. Trong các khoản thu và chi này không tính các khoản
vay nợ và trả nợ.
- Thặng dư ngân sách: là trường hợp mà thu lớn hơn các khoản chi rịng.
Phần thặng dư có thể có thể sử dụng để trả các khoản nợ đã vay trong các tài
khoản trước hoặc gửi vào ngân hàng để dùng cho các mục đích sau này.
- Thiếu hụt ngân sách: là các khoản thu nhỏ hơn các khoản chi ròng. Để
bù đắp các khoản chi này kho bạc nhà nước phải đi vay phần thiếu hụt đó. Như
vậy, mục đích đi vay của tín dụng nhà nước là bù đắp khoản bội chi ngân sách.
2.

Phân loại.
Tín dụng nhà nước phân ra hai loại:
- Tín dụng ngắn hạn:

8


Là khoản vay ngắn hạn của kho bạc nhà nươc để bù đắp các khoản bội chi
tạm thời. Ví dụ, đầu năm ngân sách cần khoản chi ngay, nhưng tạm thời chưa có
các khoản thu, cần phải đi vay để bù đắp, thời hạn vay thường dưới một năm.
Tín dụng ngắn hạn của nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành kỳ
phiếu kho bạc.
- Tín dụng dài hạn:
Là các khoản vaydai hạn của kho bạc nhà nước. Thời hạn thường từ năm
năm trở lên, viêc đi vay dài hạn được thực hiện bằng việc phát hành công trái
3.

Ưu thế của tín dụng Nhà Nước
- Đâylà hình thưc tín dụngcó ưu thế tuyệt đối, là con đường tốt nhất không


dẫn đến lạm phát và các vấn đề kinh tế xã hội
- Góp phần ổn định kinh tế xã hộivà nâng cao phúc lợi xã hội
- Đây là hình thưc tín dụng mà nhà nước không bao giờ phải trả nợ, việc
thanh toán bằng cách phát hành ra đợt mới để trả nợ cũ
- Việc mua công trái đem lại cho người nơng dân những khoản thu nhập và
cóp thể giầu lên mộtcách nhanh chóng, hơn nữa mua cơng trái tương tự như gửi
tiết kiệm nhưng có thể giầu lên một cách nhanh chóng mà khơng phải chịu rủi ro
4.

Ngun nhân mà người nơng dân Việt nam khơng thích mua cơng trái
- Việc mua bán trái phiếu chính phủ là quan hệ kinh tế vì vậy mang lại lợi

ích kinh tế. Nhưng ở Việt nam lại mang tính chính trị hơn kinh tế nên việc mua
công trái như việc hiến tiền cho nhà nước do tốc độ lạm phát lớn.
- Chi tiêu của ngân sách nhà nước Việt nam lãng phí, chưa hợp lí
- Mua cơng trái và gửi tiết kiệm khơng có sự khác biệt, nhưng người nơng
dân lại có thói quen gủi tiết kiệm hơn.
iV. Tín Dụng Th Mua

1.

Khái niệm
Tín dụng là quan hệ tín dụng giữa các cơng ty tài chính với người sản xuất

kinh doanh được thể hiện dưới hình thức cho thuê tài sản cố định

9


Sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường ln địi hỏi những khoản

đầu tư và phải có năng suất lao động cao, vì vậy phải đổi mới cơng nghệ. Các
doanh nghiệp có vốn tích luỹtự có là khơng đầy đủ để đáp ứng nhu cầu đổi mới
công nghệ. Do đó phải đi thuê tài sản cố định. Nó giúp cho các nhà sản xuất
doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ.
2.

Đặc điểm
ở Việt Nam tín dụng th mua được thể hiện dưới hình thức: cơng ty cho

th tài chính, thực chất là cơng ty tài chính thực hiện việc cho thuê đối với tài
sản cơ định. Tín dụng th mua có hai hình thức. Người cho thuê đã có tài sản cố
định cho thuê,
Cho thuê theo kiểu vận hành vốn: mọi chi phí về sửa chữa, bảo dưỡng, tài
vận hành sản cố định sẽ do người cho thuê chịu.
Cho thuê theo kiểu thuê tài chính: người đi th tìm kiếm trên thị trường
những tài sản cần thuê, sau đó yêu cầu người cho thuê mua tài sản đó.
3.

Tác dụng và hạn chế của tín dụng thuê mua.
3.1. Đối với nền kinh tế.
- Đây là hình thức huy động vốn cho đầu tư phát triển, đặc biệt là từ nước

ngoài đặc biệt là những ngành có cơng cụ sử dụng rất đắt.
- Tiếp thu được thường xuyên tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới.
- Giá trị các tài sản th khơng tính vào hạn mức nợ quốc gia, do đó khơng
ảnh hưởng đến việc sử dụng các hạn mức nợ từ các chính phủ, các tổ chức quốc
tế.
3.2. Đối với người cho thuê.
- Là hình thức đầu tư để thu lợi nhuận, đầu tư có độ an tồn cao. Vì người
th tài sản có mục đích rõ ràng, có địa chỉ sử dụng rõ ràng và cụ thể. Người cho

thuê bao giờ cũng nắm cơ sở pháp lý để chứng minh sở hữu nguồn gốc cho thuê.
- Làm đa dạng và phong phú thêm những hoạt động kinh doanh thu lợi
nhuận của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, đặc biệt là hệ thống các ngân hàng
thương mại.

10


3.3. Đối với người đi thuê.
Có tác dụng lớn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trường hợp tổ chức
kinh tế thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh mà khả năng và điều kiện tiếp cận đến
nguồn vốn ngân hàng không thể đảm bảo được. Và khi vay vốn ngân hàng gặp
phải khó khăn là phải có tài sản thế chấp, hoặc bị khống chế bởi giới hạn vốn cho
vay.
Có tác dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ và
nhu cầu sử dụng tài sản khơng nhiều.
Các doanh nghiệp có thể ln ln đổi mới và tiếp cận được với tiến bộ
khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên hạn chế của tín dụng thuê mua đó là chi phí cho
th tài sản cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng.

11


Chương ii
Thực trạng và giảI pháp phát triển các hình thức tín dụng ở việt
nam

i.

Tín dụng thương mại.


1.

Thực trạng:
1.1. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ

Sự bùng nổ hình thức TDTM quốc tế trong mấy năm gần đây đặt nước ta vào
tình trạng hết sức khó khăn vì một mặt, TDTM quốc tế là cơng cụ thuận lợi cho
kinh doanh quốc tế, nó làm tăng đáng kể khối lượng xuất nhập khẩu, khuyến
khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu cũng như các ngành sản xuất có đầu vào là
nguyên liệu ngoại nhập, mặt khác nó cũng gây những hậu quả cho nền kinh tế với
hiện trạng.
1.1.1.Quản lý TDTM quốc tế đang bị thả lỏng
- Do thiếu hiểu biết, người ta ngộ nhận rằng nguồn vốn thu hút từ việc mở
L/c trả chậm là nguồn vốn rẻ tiền và có thể dùng thoải mái tới mức họ quên đi
những rủi ro đáng lo ngại và hậu quả xấu cho đất nước và các ngân hàng lao vào
nghiệp vụ này một cách phiêu lưu. Nguyên nhân chính ở đây là việc quản lý hình
thức tín dụng này hầu như bị thả nổi. Quỹ tiền tệ quốc tế khuyên ta nên hạn chế
doanh nghiệp vay nước ngoài cho phù hợp với khả năng trả nợ nhưng con số vẫn
không ngừng gia tăng.
Người ta cảnh báo rằng, nguy cơ đáng lo ngại là có những cơng ty TNHH
với số vốn trong TNHH chỉ có 3 tỷ đồng nhưng đã mở tổng số L/c trả chậm là 41
12


triệu USD. Như vậy chỉ cần một sơ suất nhỏ hay giá hàng nhập theo L/c đó giảm
1% là doanh nghiệp lỗ vốn 410.000USD, vượt số vốn tự có.
Khối lượng TDTM quốc tế lớn như vậy nhưng chủ yếu để nhập khẩu hàng
tiêu dùng, sau đó chính cán cân thanh toán quốc tế sẽ phải gánh chịu việc trả nợ
này khi đáo hạn.

Về phía quy định, việc bảo lãnh cho mỗi L/c hầu như khơng có thể lệ hướng
dẫn thi hành, ghi chép ngoại bảng khơng kiểm sốt nổi đến chỗ thắt chặt gần như
cấm hồn tồn. Nó thường xun bị lợi dụng để làm ăn phi pháp. Lúc đầu nó chỉ
là nhập hàng trả chậm nhưng một số cơng ty móc ngoặc được với các cán bộ ngân
hàng biến chất, rút được hàng hóa thế chấp cho L/c trả chậm đem bán phá giá lấy
vốn quay vòng. Đến khi việc kinh doanh gặp rủi ro, ngân hàng là người gánh chịu
những khoản này.
Mặc dù đã có những biện pháp ngăn ngừa như ban hành tỷ lệ ký quỹ là 80%
mà thực chất là cấm mở L/c trả chậm nhưng rồi L/c vẫn tăng đáng kể. Nguyên
nhân là do các công ty cần nhập nguyên liệu cho sản xuất kiến nghị đồng loạt nên
việc mở L/c lại trở về lỏng lẻo như cũ. Chẳng hạn, phân bón là mặt hàng thường
xuyên được nhập về để bán phá giá lấy vốn quay vịng lại thuộc loại ngun liệu
cho nơng nghiệp nên các ngân hàng vẫn tăng L/c trả chậm. Vì vậy khối lượng L/c
trả chậm đầu năm 1996 khoảng 1200 triệu USD; đến tháng 6/1996 đã tăng đến
hơn 1400 triệu USD. Trong vụ Epco và Minh Phụng, người ta mới thấy hết tai
họa của việc bảo lãnh mở L/c trả chậm không được quản lý: riêng 2 công ty này
đã hút được tới 44 triệu USD vốn đem quay vòng từ các L/c trả chậm, trong đó
quá hạn chiếm 31,3% hay 13,8 triệu USD.
1.1.2. Thơng tin thiếu thốn: Do vậy, có khách hàng mở L/c ở nhiều ngân
hàng tới vài chục triệu USC. Trung tâm thơng tin tín dụng của ta không thể cung
cấp số L/c mà khách hàng mở ở nhiều ngân hàng khác nhau.
1.1.3. NHTM hoạt động kém hiệu quả, nghiệp vụ yếu kém, đội ngũ cán bộ
trình độ hạn chế, chưa được thanh lọc, phẩm chất chưa tốt. Từ đó dẫn đến những
vi phạm nguyên tắc một cách vơ tình hay cố ý, tham ơ, hối lộ gây những thiệt hại
lớn cho đất nước. Nghiệp vụ ngân hàng chưa cao nên khơng theo dõi và khơng có
đủ thơng tin về doanh nghiệp, không kịp thời can thiệp được khi có sai trái.
1.1.4. Chưa có hiểu biết đầy đủ về TDTM quốc tế

13



Chúng ta tiếp cận và sử dụng TDTM quốc tế như là một công cụ hiệu quả
cho xuất nhập khẩu mà chưa hiểu rõ bản chất của nó. Thêm vào đó, chúng ta thiếu
một hệ thống pháp luật cụ thể và hiệu quả, dẫn đến những rủi ro cho nền kinh tế.
Do ham lợi trước mắt, các ngân hàng và doanh nghiệp làm sai quy tắc. Do thiếu
kiến thức, nhiều L/c bị từ chối thanh toán do bộ chứng từ không hợp lệ.
1.1.5. Ngân hàng nhà nước chưa ban hành chế độ mở L/c trả chậm. Việc
thiếu vắng một thể lệ có tính pháp quy như vậy đã tạo kẽ hở cho một số ngân
hàng đua nhau hạ thấp các điều kiện mở L/c để thu hút khách hàng và sẵn sàng
lao vào nuôi những công ty mở L/c tràn lan khơng có vốn đảm bảo.
1.1.6. Khơng có sự phối hợp giữa Vụ chức năng và Vụ kế toán của NHTW
để quản lý bằng một chế độ hoạch toán kế toán chặt chẽ, đây là lỗ hổng lớn cho
một số kẻ xấu tha hồ tiền hành những bút tốn khơng thực.
1.1.7. Khối lượng TDTM quốc tế đã chiếm thị phần lớn của tín dụng trong
nước nên nó là ngun nhân chủ yếu gây ra tình trạng thừa vốn ở các doanh
nghiệp.
Tóm lại, cần phải có những giải pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn giữa
sự cần thiết của TDTM quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta.
1.2. TDTM trong nước
1.2.1. TDTM chưa được thừa nhận chính thức, hoạt động bất hợp pháp, đầy
rẫy rủi ro vì quyền lợi của người kinh doanh chưa được bảo đảm dẫn đến sự phá
sản hàng loạt khi một khâu kinh doanh đổ bể. TDTM ở nước ta hiện nay chỉ dựa
trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa những người mua - người bán dẫn đến tình
trạng quỵt nợ, nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một
số người cho rằng vụ cháy chợ Rồng ở Thanh Hóa và chợ Đồng Xuân ở Hà Nội là
do có kẻ muốn thủ tiêu giấy tờ ghi nợ.
Phải nhìn nhận rằng việc bán chịu hàng ở chợ gần như thành luật lệ của giới
buôn bán. Thường thường, các cơ sở sản xuất phải giao hàng đợt sau mới lấy
được tiền hàng đợt trước. Nơi bán buôn ở các chợ đầu mối cũng phải cũng phải
giao hàng trả chậm cho các mối bán lẻ và cả các mối ở địa phương khác. Khối

TDTM lên đến hàng ngàn tỷ đồng như vậy lại khơng có gì bảo đảm gây thiệt thòi
lớn cho các chủ nợ.
Như ta đã biết, TDTM di chuyển rất nhanh. ở một số tỉnh khối lượng TDTM
lớn đã làm lệch cân đối tín dụng của các ngân hàng địa phương. Ví dụ khi giá cao
14


sự tăng thu hút khách hàng đổ xô vào ứng tiền cho các công ty cao su. Số dư nợ
khổng lồ đối với khối ngân hàng địa phương của công ty này đã giảm sút lớn dẫn
đến đầu vào các các ngân hàng lớn hơn đầu ra.
Theo như thống kê, TDTM chiếm đến 40% tổng số vốn lưu động của các
doanh nghiệp. Con số này còn lớn hơn nhiều với những doanh nghiệp ít vốn hơn.
Họ thường xuyên sử dụng hình thức này để giải quyết vấn đề tiền vốn kinh doanh
hạn hẹp. Những người thường xuyên mua chịu là những người buôn bán ở chợ,
bán lẻ... Các mặt hàng cho mua bán chịu cũng thật là đa dạng: quần áo, vải vóc,
đồ lưu niệm, thiết bị trường học... nó tùy thuộc vào tiềm năng về vốn của người
bán cũng như quy luật chung của thị trường đó. Nhiều khi người bán phải chấp
nhận bán chịu như một hình thức khuyến mại, khuyến khích mua hàng của họ.
Sau đây là một vài số liệu về mặt hàng vải ở chợ Đổ (Hải Phòng).
Theo điều tra sơ bộ, tất cả các hiệu vải ở đây đều sử dụng hình thức TDTM
dưới hình thức này hay hình thức khác. Lý do cơ bản là vì nguồn vốn kinh doanh
có hạn, người bán bn phải chấp nhận một thời hạn nào đó để người bán giải
phóng hàng, gom tiền trả nợ. Người kinh doanh cho biết, đây là giải pháp hữu
hiệu để duy trì hoạt động kinh doanh liên tục, đồng thời họ cũng than phiền là
nhiều khi khơng địi được tiền, bị quỵt nợ mà không biết kêu ai.
Cùng với sự tăng lên của khối lượng TDTM, rủi ro nó mang đến cũng tăng
lên đáng kể. Lẽ dĩ nhiên, buôn bán phát triển, lợi nhuận hấp dẫn, người ta quan
tâm đến điều đó chứ khơng phải những giao ước bằng lời.
Như vậy TDTM là một mảng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh,
nhất là trong hoàn cảnh thiếu vốn của ta hiện nay.

1.2.2. Chưa có những quy định cụ thể cho TDTM
Trước đây, dù nhà nước có cấm ngặt TDTM thì nó vẫn ngấm ngầm tồn tại.
Cho đến nay vẫn chưa có luật lệ cụ thể nào về thương phiếu, nghiệp vụ chiết khấu
bị bỏ ngỏ, lại chưa có thị trường cổ phiếu... gây nhiều cản trở cho TDTM phát huy
tác dụng.
1.2.3. Rủi ro đầy rẫy trong TDTM ở Việt Nam do chưa được thừa nhận và
bảo đảm bởi pháp luật.
- Hiện tượng di chuyển mạnh mẽ của loại hình tín dụng này làm lệch cân đối.
Tín dụng của ngân hàng địa phương. Nó làm di chuyển nguồn vốn vay ngân hàng
vì ngân hàng cho doanh nghiệp vay, doanh nghiệp lại bán chịu cho nơi khác nên
15


vốn ngân hàng cho vay gồm luôn phần TDTM của doanh nghiệp và di chuyển
luôn sang nơi mua chịu hàng hóa của doanh nghiệp. Hiện tượng này cịn có thể
làm lệch cung cầu vốn trong từng khu vực hay từng ngành, ảnh hưởng mạnh mẽ
tới lãi suất thị trường.
- TDTM gây rủi ro cho TDNH
Ngay cả khi cấm TDTM, nó vẫn tồn tại dưới hình thức chiếm dụng vốn lẫn
nhau giữa các doanh nghiệp, khơng trả lãi và khơng có kỳ phiếu nhận nợ. Điều
này dẫn đến tình trạng cơng nợ dây dưa khó địi mà trong giai đoạn I năm 1995 đã
lên tới 10.000 tỷ đồng lớn hơn tổng số dư nợ vay toàn bộ hệ thống ngân hàng thời
kỳ đó. Nhiều khi ngân hàng bị mất trắng do chủ nợ chặn hàng siết nợ hoặc đẩy
ngân hàng đến chỗ cho vay khơng có vật tư bảo đảm. Mặt khác, nhiều khoản vay
ngân hàng bị sử dụng sai mục đích vì phải trang trải cho các món nợ TDTM đã
vay vì TDTM mang tính bắt buộc, người mua buộc phải trả tiền vô điều kiện khi
đến hạn. Nếu không có khả năng thanh tốn, để khỏi vỡ nợ, các doanh nghiệp bù
đắp TDTM bằng các khoản vay khác.
- Hiện tượng quỵt nợ, công nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau là phổ biến
vì khơng có thương phiếu bảo đảm. Do đó trong vụ vỡ nợ Sối Kình Lâm, thiệt

hại lên tới 100 tỷ đồng.
1.3. Vai trò của TDTM trong nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu ở Việt
Nam
1.3.1. Tăng nguồn vốn kinh doanh
Nền kinh tế nước ta còn nghèo, vốn cho kinh doanh hạn chế, đòi hỏi phải có
những hình thức tạo vốn. Vấn đề này càng bức thiết hơn với các đơn vị buôn bán
nhỏ. Nhờ có TDTM, sản xuất kinh doanh ổn định và mở rộng. Tuy nhiên khơng
nên lạm dụng TDTM vì thời hạn tín dụng thương mại và dễ dẫn đễn vỡ nợ hàng
loạt.
1.3.2. Tiết kiệm chi phí lưu thơng tiền tệ
TDTM với cơng cụ là thương phiếu được coi là hình thức lưu thơng khơng
dùng tiền mặt. Nó tiết kiệm chi phí lưu thông và giảm bất trắc trong việc chuyển
tiền.
1.3.3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh
doanh

16


Nhờ có TDTM, q trình sản xuất kinh doanh liên tục, khơng ngắt qng.
Nhờ đó hiệu quả của sản xuất kinh doanh tăng lên đáng kể.
1.3.4. Khuyến khích sản xuất kinh doanh
Trong thực tế, TDTM chiếm hơn 40% vốn lưu động của các doanh nghiệp.
Với khối lượng tín dụng đó, các doanh nghiệp có thể mở rộng kinh doanh, có
nhiều cơ hội kiếm lời. Mặt khác nó cịn khuyến khích sản xuất kinh doanh vì hoạt
động đó được bí mật tương đối, không phản ánh trên thương phiếu nên rất được
ưa chuộng.
Như vậy, TDTM đặt chúng ta trước sự lựa chọn khó khăn. Nên chẳng hợp
pháp hóa TDTM ở Việt Nam.
2.


Giải pháp:

Như đã đề cập, bên cạnh những ưu thế, TDTM còn nhiều hạn chế cần khắc
phục. Từ năm 1932, Liên Xơ (cũ) đã xóa bỏ TDTM, coi đó là sự phá vỡ việc phân
bổ tín dụng theo kế hoạch. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc
cấm hay hợp pháp hóa TDTM đặt ra nhiều tranh cãi. Dù vậy, TDTM là một đặc
trung của cơ chế thị trường, chúng ta đã chấp nhận cơ chế thị trường tại sao không
coi TDTM là một tất yếu? Hơn nữa TDTM bổ sung rất hồn hảo cho các hình
thức tín dụng khác và chưa hề chịu tác động của các lệnh cấm. Giờ đây, vấn đề là
ở chỗ phải làm gì để khắc phụ những khiếm khuyết của nó mà thơi.
Trong tình hình hiện nay, với sự bung ra của TDTM, việc hợp pháp hóa hình
thức tín dụng này là đòi hỏi cấp thiết để giảm rủi ro cho người kinh doanh, xóa bỏ
thị trường ngầm và lại khuyến khích phát triển sản xuất. Để phát huy vai trị của
TDTM thật hồn hảo cần có những biện pháp sau:
2.1. Với TDTM quốc tế
- Hạn chế các doanh nghiệp vay nước ngoài.
- Quy định cụ thể về thể lệ mở L/c trả chậm, tránh trường hợp công ty bán
phá giá hàng nhập lấy vốn kinh doanh mục đích khác. Hiện quy chế bảo lãnh cho
khách hàng vay vốn nước ngoài chỉ là 1 quy chế chung chung, không thể là một
thể lệ cụ thể để quản lý nghiệp vụ mở thư tín dụng trả chậm.
- Giảm tối đa việc mở L/c trả chậm cho việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, hàng
xa xỉ. Nước ta còn nghèo, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng không làm tăng sức sản
xuất trong nước, gây áp lực bên cán cân thanh toán quốc tế. Khối lượng hàng

17


nhập khẩu quá nhiều tấn công hàng sản xuất trong nước, hàng nội địa khơng có
sức cạnh tranh dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp trong nước.

- Phải xây dựng được một chế độ kế toán phù hợp. Trong TDTM quốc tế,
cần bám sát UCP500 để bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp xuất nhập khẩu
trong nước tránh những sai lầm về chứng từ khơng đáng có dẫn đến việc khơng
được thanh tốn.
- Vụ chức năng phải phối hợp với vụ kế toán Ngân hàng để quản lý bằng một
chế độ kế toán hợp lý, chặt chẽ, hạch tốn thống nhất.
- Xây dựng hệ thống thơng tin hiện đại qua ngân hàng hoặc các công ty tư
vấn, tránh trường hợp một công ty mở quá nhiều L/c trong khi vốn có hạn.
- Hỏi cơ quan phụ trách chung của các ngân hàng về các quy định trong luật
hối phiếu áp dụng ở mỗi nước, khắc phục tình trạng thiếu thống nhất trong pháp
luật của mỗi nước.
- Yêu cầu ngân hàng của người mua bảo lãnh để tránh rủi ro khi không biết
cặn kẽ về đối tác.
- Sử dụng các công cụ kỹ thuật hiệu quả như kỹ thuật tín dụng chứng từ.
2.2 Với TDTM trong nước
2.2.1. Hợp pháp hóa TDTM nên làm dần từng bước cùng với sự hoàn
thiện hệ thống luật. Cụ thể:
- Sớm ban hành pháp luật về thương phiếu, hướng dẫn cụ thể cho doanh
nghiệp cùng các thương nhân biết rõ tính chất của từng loại thương phiếu hay
nhận diện được thương phiếu, đưa TDTM vào quỹ đạo thanh tốn sịng phẳng.
- Ban hành pháp lệnh điều chỉnh nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu từ điều
21 đến 24 quyết định 198 quy định chứng từ có giá cịn chung, việc hướng dẫn
thủ tục nghiệp vụ, hạch toán kế toán, chiết khấu chưa đầy đủ. Để thi hành điều
luật 57 luật các tổ chức tín dụng, NHNN nên tách ra xác lập riêng thể lệ chiết
khấu, cầm cố thương phiếu.
- Chống thất thu thuế. Việc giao dịch trong TDTM không thể hiện rõ trên
thương phiếu, dẫn đến nhà nước không thu được thuế: nên tiến hành thu thuế trên
giá trị thương phiếu.
- Thực hiện kiểm toán nội bộ giúp điều hành thanh tra, giám sát hoạt động
hối phiếu của các ngân hàng thành viên.


18


2.2.2. Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng
- Nâng cao nghiệp vụ của ngân hàng nhất là nghiệp vụ chiết khấu, đảm bảo
cho TDTM thuận lợi, đồng thời phải có cơ chế để các doanh nghiệp không thể
chiếm dụng vốn lẫn nhau.
- Sử dụng nhiều loại cho vay để kiểm sốt chặt chẽ ảnh hưởng của TDTM.
Có nhiều loại cho vay với TDTM như cho vay chiết khấu thương phiếu cho vay
theo chứng từ gửi hàng theo tàu, cho vay động sản hóa các khỏan TDTM, cho vay
bao thu nợ, cho vay nhà thầu về các khoản phải đòi ngân sách trong thời gian chờ
kinh phí, cho vay thương phiếu ghi băng từ...
Thực chất, khoản nợ phải đòi người mua là khoản có tính rủi ro cao. Nó nằm
trong phạm vi vốn lưu động của doanh nghiệp. Cho vay bằng nhiều loại vào
khoản này tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm sốt sâu các khoản TDTM để sàng
lọc những gì cho vay được và biết mục đích sử dụng vốn.
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính. ở nước ta, thủ tục hành chính rất rườm rà,
làm cho chất lượng tín dụng khơng bảo đảm, hơn nữa nhiều khi chúng chồng chéo
lên nhau tạo những kẽ hở đáng lo ngại. Vì vậy, phải tiến hành cải cách hành chính
sao cho việc giao dịch với khách hàng chiết khấu đơn giản mà vẫn đảm bảo tính
ngun tắc, an tồn.
- Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng. Hiện nay đa số cán bộ
ngân hàng khơng có trình độ và năng lực cần thiết. Mặt khác, chúng ta thiếu trầm
trọng những chuyên viên am hiểu về hoạt động ngân hàng. Vì vậy cần có kế
hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ mới, đủ năng lực đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
ngành ngân hàng.
- Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ ngân hàng. Đây là đòi hỏi bức thiết vì hàng
loạt những vị tham nhũng, vay ngân hàng khơng có thế chấp hoặc khơng có khả
năng trả nợ đều do cán bộ ngân hàng làm sai nguyên tắc, ăn hối lộ như vụ Minh

Phụng, Epco...
2.2.3. Xây dựng thị trường cổ phiếu
Việc này làm tăng khả năng lưu thơng và hốn chuyển của thương phiếu
giảm rủi ro cho người bán chịu. Trong trường hợp người bán cần vốn, họ dễ dàng
đem bán quyền sở hữu thương phiếu để lấy tiền trước thời hạn. Thông qua thị
trường với sự cạnh tranh, thương phiếu được bán với giá cao nhất có thể nên nó
khuyến khích được người kinh doanh.
19


2.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và báo cáo lại
Nhờ hoạt động này, thông tin về doanh nghiệp tương đối đầy đủ và cập nhật,
giúp khách hàng tránh rủi ro, góp phần ổn định kinh tế, xã hội.

ii.
1.

Tín dụng ngân hàng (TDNH) .
Thực trạng:

Tín dụng ngân hàng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian
nhiều chiều (ngang, dọc; trên, dưới; trong, ngồi) của chính sách tiền tệ quốc gia.
Hệ quả của hoạt động hệ tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận hành
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, và hội nhập thế giới.
Xét về tầm quản lý vĩ mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng
tạo tiền, sự tạo tiền này sẽ được xoá đi khi hồn trả tín dụng đến hạn. Tất nhiên,
trong một nền kinh tế phát triên mạnh thì thường xảy ra tình trạng cịn đọng lại
một lượng tiền nhất định trong lưu thơng nên khơng kiểm sốt được sẽ sinh ra lạm
phát làm ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả, gây phức tạp cho mơi trường cạnh tranh.
Nói hẹp về lĩnh vực tín dụng, hoạt động của tổ chức tín dụng là kinh doanh theo

nguyên tắc “đi vay để cho vay” tức là xoay quanh vấn đề giữ vững thế cân bằng
giữa “ đầu vào ” và “ đầu ra”. Một sự chệch khớp nào đó, từ chủ thể này hay chủ
thể khác, bất kể xuất phát từ nguyên nhân nào đều tác động dây truyền đến hiệu
quả của hoạt động kinh doanh. Các NHTM khi cung ứng tín dụng cho khách hàng
đều có thể gặp rủi ro từ hiện tượng người vay mất khả năng thanh tốn hoặc ít
nhất là do khoản tín dụng đó khơng được hồn trả đúng thời hạn như đã cam kết.
Xuất phát ỳ nhận thức đó, NHTM trước khi quyết định cho vay cần quan tâm
đến năng lực và tiến trình hoạt động kinh doanh của khách hàng trên các mặt:
Tài chính (phương pháp sử dụng các nguồn vốn tự có, đảm bảo cân đối các tài sản
Nợ - Có và khả năng sinh lời, khả năng thanh tốn trên mọi tình huống); Thị
trường (nguồn cung ứng nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, cung - cầu sản phẩm
hàng hoá) và cả mặt quản lý kinh doanh.
ở Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, tín dụng vẫn rủi

ro nhưng lại được bao che bởi chính sách bao cấp. Đến thời kỳ đổi mới sang cơ

20


chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa lĩnh
vực tín dụng ngày càng bộ lộ nhiều điều không đơn giản.
Trong xã hội, có rất nhiều doanh nghiệp thiếu vốn, cần vốn trong khi đó, các
ngân hàng thừa vốn, nhưng vì khơng tìm được dự án đủ điều kiện cho vay, sợ gặp
rủi ro nên đã không dám bỏ vốn cho vay.
Nếu cứ “mạnh dạn” cho vay, mà không chắc được đảm bảo thu hồi về dúng
hạn, hoặc doanh nghiệp đem sử dụngvào mục đích khác, hoặc doanh nghiệp say
sưa dồn vốn vay vào kinh doanh một loại sản phẩm mà cung vượt q cầu, cũng
có thể là các cán bộ tín dụng dễ bị cuốn hút bởi đồng tiền đã móc ngoặc với khách
hàng, khi đó thì rõ ràng tín dụng đã gặp rủi ro.
Như vậy rủi ro TDNH là điều không thể không xảy ra. Và một trong những

nhiệm vụ quan trọng của mỗi NHTM là tối thiểu hoá rủi ro tín dụng. Để đạt được
mục tiêu này, các NHTM sử dụng nhiều phương pháp, quy trình đánh giá rủi ro
khác nhau, bao gồm cả hình thức chính thức, và cả khơng chính thức.
Một trong những địi hỏi của các NHTM là địi hỏi khách hàng phải có tài
sản thế chấp khi đi vay. Người vay cần phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản trước
khi vay. Tuy nhiên giải pháp này khơng bảo đảm sự thành cơng cho chính sách tín
dụng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Nguyên nhân:
- Tính phức tạp trong việc dự báo biến động giá cả tài sản thế chấp;
- Không thể dự báo chính xác chu kỳ tín dụng;
- Tính khơng ổn định của diễn biến lạm phát;
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vấn đề đảm bảo an toàn cho các nghiệp vụ
tín dụng ln ln là một trong những vấn đề nổi cộm. Dễ dàng thấy rằng tín
dụng trước đây và hiện nay có một điểm chung cơ bản là đều cần có sự bảo đảm.
Tuy nhiên, đảm bảo tín dụng trong cơ chế thị trường khác biệt đáng kể so với
đảm bảo tín dụng trong cơ chế trước đây.
- Trong chế độ kế hoạch hoá tập trung

21


Quan hệ tín dụng mang tính chất hành chính, khơng có luật để điều chỉnh.
Uy tín trong các quan hệ tín dụng chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi phương thức điều
hành mệnh lệnh.
Có đề cập đến bảo đảm tín dụng nhưng là bảo đảm có sau hành vi tín dụng,
là kết quả của hoạt động tín dụng.
Đảm bảo khơng phải là điều kiện tín dụng (mà chỉ là nguyên tắc tín dụng)
nên kinh doanh tín dụng bị đẩy vào trạng thái bị động.
Đảm bảo đưa ra nhưng khơng có mục đích và đối tượng rõ ràng.
Giá trị bảo đảm phải tương đương (lí tưởng bằng) với lượng tín dụng.

Độ tin cậy của các bảo đảm cũng rất thấp, chỉ có vật tư hàng hố là bảo đảm
tín dụng.
- Trong cơ chế thị trường.
Đảm bảo là tiền đề, là điều kiện bắt buộc của một quan hệ tín dụng, là “ cái
chốt an tồn” của lịng tin. Kinh doanh tín dụng có bảo đảm ở trong trạng thái
chủ động, đảm tín dụng có đối tượng, mục đích rõ ràng. Giá trị các bảo đảm tín
dụng nhìn chung phải lớn hơn lượng tín dụng. Sự “ chắc chắn” an tồn đối với
đảm bảo tín dụng được cao hơn. Hình thức đảm bảo đa dạng và phong phú.
2.

Giải pháp:

Tính tất yếu của sự đổi mới trong hoạt động ngân hàng là khách quan sự so
sánh ở trên có thể giúp chúng ta có thêm định hướng rõ ràng trong các quan hệ
kinh doanh tiền tệ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường ngày
càng phát triển. Khách hàng là “thượng đế”, nhưng đồng thời cũng phải bình đẳng
với ngân hàng. Sự tin cậy trong quan hệ tiền tệ, uy tín trong giao dịch của khách
hàng và ngân hàng được thử thách theo thời gian. Do đó, ngân hàng phải ln
ln xác định được hành động tích cực của mình trong các trường hợp để đạt
được sự ổn định, độ tin cậy và tính hiệu quả cao trong quan hệ đối với khách
hàng. Đảm bảo tín dụng ln ln là một công cụ quan trọng và năng động trong
tay ngân hàng để đạt được mục đích đó.
iii.

Tín dụng nhà nước.

1.

Thực trạng:


22


Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 12, các chính phủ đã nhận thấy nhu cầu
cần thiết phải tài trợ cho hoạt động chính quyền của mình thơng qua việc phát
hành những công cụ nợ chủ yếu của nhà nước, ngồi ra cịn có tín phiếu kho bạc.
Năm 1999, chính phủ Việt Nam phát hành cơng trái quốc gia huy động được
hơn 4000 tỉ đồng. Tuy vậy coi đây là thất một bại do chi phí cho việc mua cơng
trái q lớn. Cịn gần đây thất bại là do đợt phát hành lại huy động vốn trong các
doanh nghiệp. Nhà nước, lực lượng vũ trang, đây chính là hình thức dùng tiền nhà
nước lại cho nhà nước vay. Hơn nữa muốn cho tín dụng nhà nước hoạt động có
hiệu quả thì cần phải có thị trường chứng khốn, mà ở Việt Nam chưa có thị
trường chứng khốn hoạt động theo đúng nghĩa của nó. Do đó khơng tạo ra được
sự biến động của thị giá, vì vậy khơng kích thích được các nhà đầu tư.
Tại Việt Nam, mua cơng trái là sự bắt buộc đối với người dân, họ có thói
quen gửi tiết kiệm hơn là mua cơng trái, mặc dù mua công trái và gửi tiết kiệm là
như nhau. Hơn nữa việc phát hành công trái ở Việt Nam thường gắn với một mục
đích màu sắc chính trị (mua công trái là yêu nước) mà công chúng không phải ai
cũng thích chính trị, những việc làm về chính trị. Và một điểm nữa khiến cho tín
dụng nhà nước khơng được dân chúng chấp nhận nhiều đó là họ còn thấy được
những chi tiêu của nhà nước là chưa hiệu quả và chứa đựng những hiện tượng
tiêu cực.
Giải pháp:

2.

Với những thực trạng trên muốn phát triển tín dụng nhà nước là cịn nhiều
khó khăn, địi hỏi chính phủ phải đề ra những chủ trương, chính sách hợp lý về
kinh tế cũng như về mặt chính trị xã hội.
iv.


Tín dụng thuê mua.

1.

Thực trạng:
Tín dụng thuê mua là một nghiệp vụ tài trợ vốn đầu tư vào tài sản. ở Việt

Nam nhằm tạo ra kênh tín dụng mới để hỗ trợ vốn trung và dài hạn cho các
doanh nghiệp đổi mới thiết bị cơng nghệ trong thời kỳ Cơng nghiệp hố, Hiện đại
hố đất nước, chính phủ đã có nghị định 64/cp ngày 09/10/1995 ban hành quy chế
tổ chức và hoạt động của cơng ty cho th tài chính tại Việt Nam. Các công ty
này đã hoạt động và tiến hành nhiều giao dịch thuê mua.

23


Tuy vậy nhìn tổng thể có thể thấy, mặc dù nhu cầu thuê máy móc thiết bị của
các doanh nghiệp là rất lớn song ngành nghề thuê mua chưa đủ cơ hội để phát
triển.
Nguyên nhân:
Thứ nhất, tín dụng thuê mua là lĩnh vực hoàn toàn mới du nhập vào Việt
Nam.
Thứ hai, các định chế chủ thể của thị trường tín dụng th mua (cơng ty cho
th tài chính) để hình thành và phát triển phải có vốn lớn trong khi nhìn chung
định chế tài chính và các doanh nghiệp Việt Nam với thực trạng tài sản có rất nhỏ.
Điều đó đã làm xuất hiện mơ hình cơng ty th ttài chính với nước ngồi. Song
để tạo ra loại cơng ty này, khơng thể một sớm, một chiều có thể làm được.
Thứ ba, do trong giai đoạn thử nghiệm, chúng ta chưa thể tạo lập một cơ chế
thật sự khả thi để tín dụng thuê mua phát triển.

2.

Giải pháp:

Do những nguyên nhân trên mà cần có những giải pháp để phát triển tín
dụng thuê mua như sau:
2.1. Về phía đi thuê.
Để mở rộng thị phần và phân tán rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng th mua
cần đa dạng hố đối tượng đi thuê.
2.2. Đối với công ty cho thuê tài chính, có thể là các thể nhân, doanh nghiệp
tư nhân, hoặc các công ty. Tuy nhiên, các công ty cho th tài chính phải có sự
chi phối về vốn của tổ chức tín dụng tham gia. Đây là yêu cầu có tính bắt buộc để
tránh rủi ro cho thị trường tín dụng thuê mua ở Việt Nam mới phát triển bước đầu.
2.3. Trong điều kiện nước ta, những năm trước mắt, các cơng ty cho th tài
chính chủ yếu dựa vào nhập khẩu để tạo nguồn tài sản cho thuê.
2.4. Do đồng tiền Việt Nam chưa thể chuyển đổi, tỷ giá với ngoại tệ thường
biến động, bởi vậy việc áp dụng đồng tiền trong thanh tốn hợp đồng tín dụng
th mua là cần xem xét sao cho phù hợp.

24


Kết luận
------***----Qua việc phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy quan hệ tín dụng rất đa dạng
và phong phú. Tuy nhiên, tình hình phát triển của mỗi loại tín dụngtrong nền kinh
tế là khác nhau. Bởi vậy cần có nhiều giải pháp để nâng cao, mở rộng các loại
hình tín dụng đó.
Chúng ta đều biết tín dụng là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Do đó, tín
dụng rƯa đời là một tất yếu, nhưng khơng phải vì thế mà chúng ta tất yếu để nó
phát triển một cách tự nhiên. Chúng ta cần đưa nó vào những quy luật để phục vụ

cho nhu cầu của chính chúng ta. Và chúng ta ngày càng phải hoàn thiện và phát
triển các quan hệ tín dụng đó.

25


×