Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến xu hướng phát triển ngành logistics của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.54 KB, 8 trang )

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NGÀNH LOGISTICS CỦA VIỆT NAM
THE IMPACT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 TO VIETNAM'S LOGISTICS
DEVELOPMENT TREND
Nguyễn Thị Như Quỳnh
Trường Cao đẳng CNTT hữu nghị Việt Hàn
Email:
Tóm tắt
Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 đang diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ; nó tác động toàn
diện tới mọi lĩnh vực từ hệ thống sản xuất, quản lý, quản trị doanh nghiệp đến toàn bộ nền kinh tế quốc gia, thị
trường lao động... Ngành logistics cũng khơng nằm ngồi sự tác động này. Trong bối cảnh đó, phát triển dịch
vụ logistics một cách hiệu quả sẽ góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Chính vì
vậy, bài viết giới thiệu những thông tin cơ bản về logistics trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; thực trạng
ngành logistics Việt Nam; tập trung phân tích một số cơ hội, thách thức cũng như xu hướng phát triển của
ngành logistics Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm phát triển ngành logistics Việt Nam trong thời đại 4.0.
Từ khóa: logistics; cách mạng công nghiệp 4.0; cơ hội; thách thức
Abstract
Industrial revolution 4.0 is taking place quickly and vigorously. It has a comprehensive impact on all
areas from the production system, business administration to the whole economy of the country, labour
market... Logistics industry is not outside this impact. In this context, the development of logistics services will
effectively contribute to raise the competitiveness of the national economy. Therefore, this article introduces the
basic information about logistics in the industrial revolution 4.0; situation of Vietnam logistics industry; focus
on analyzing a number of opportunities, challenges and the development trend of Vietnam's logistics industry
before the impact of the 4.0 industrial revolution. Then proposing some solutions to develop Vietnam's logistics
industry in the 4.0 era.
Keywords: logistics; industrial revolution 4.0; opportunities; challenges

1. Đặt vấn đề


Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các hoạt động logistics xuyên suốt từ sản
xuất tới tiêu dùng ngày càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với năng lực cạnh tranh của các ngành
sản xuất, doanh nghiệp nói riêng và của tồn nền kinh tế nói chung. Phát triển logistics một cách hiệu
quả khơng chỉ góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh các vùng kinh tế địa phương mà của cả nền kinh
tế quốc gia. Việt Nam nằm trong tốp những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cơng nghệ thơng tin rất
nhanh trên thế giới, vì vậy, cũng như các cuộc cách mạng công nghiệp trước, công nghiệp 4.0 hứa hẹn
mang lại nhiều lợi ích, cơ hội to lớn cho Việt Nam. Đồng thời, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các
ngành nghề trong xã hội phải chuyển đổi theo hướng “thơng minh” hơn để có thề đáp ứng được các
nhu cầu của xã hội. Trong lĩnh vực Logistics, cách mạng 4.0 góp phần làm giảm thời gian giao nhận,
chi phí vận chuyển, chi phí liên lạc thơng tin, từ đó sẽ tối ưu được chi phí kinh doanh. Đồng thời, sẽ
giúp cho hệ thống logistics và chuỗi cung ứng của các công ty, doanh nghiệp được minh bạch hơn.
Bên cạnh những mặt tích cực, ngành logistics Việt Nam cịn phải đối mặt với những thách thức khơng
nhỏ trong công cuộc chuyển đổi theo xu hướng 4.0 này.
2. Logistics 4.0
Logistics là hoạt động theo chuỗi dịch vụ từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay
người tiêu dùng cuối cùng. Lĩnh vực này liên quan trực tiếp đến hoạt động vận tải, giao nhận, kho bãi,
291


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

các thủ tục dịch vụ hành chính, tư vấn (hải quan, thuế, bảo hiểm…), xuất nhập khẩu – thương mại,
kênh phân phối, bán lẻ… Quá trình phát triển của logistics thuờng đuợc xét theo khía cạnh mức độ
dịch vụ mà một doanh nghiệp logistics cung cấp. Tuy nhiên nếu phân tích q trình phát triển của
logistics tương ứng với các cuộc cách mạng cơng nghiệp thì logistics trải qua các giai đoạn sau:
- Logistics 1.0 (từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20): Là giai đoạn cơ giới hóa vận tải. Tàu biển
và xe lửa động cơ hơi nuớc đã được sử dụng như một cơng cụ vận chuyển chính thay vì con người và
động vật để vận chuyển hàng hóa.
- Logistics 2.0 (từ đầu thế kỷ 20 đến năm 1960): Việc phát minh ra điện năng và sản xuất hàng
loạt trong sản xuất dẫn đến sự tự động hóa của việc vận chuyển hàng hố. Do đó logistics giai đoạn

này cũng được tự động hóa, như kho tự động và hệ thống phân loại tự động, hệ thống xếp dỡ tự động...
- Logistics 3.0 (Năm 1960 - Năm 2000): Là giai đoạn hệ thống hóa quản trị logistics, nó bắt
nguồn từ việc phát minh ra máy tính và cơng nghệ thơng tin (CNTT). Bằng việc sử dụng hệ thống CNTT
trong lĩnh vực logistics, như Hệ thống quản lý kho (WMS) và Hệ thống Quản lý Vận tải (TMS), tự động
hóa và hiệu quả quản lý logistics, kiểm kê và vận chuyển đã phát triển và được cải tiến đáng kể.
- Logistics 4.0 (Năm 2000 - Nay): Là giai đoạn phát triển mới nhất của logistics, chủ yếu dựa trên
sự phát triển của Mạng lưới vạn vật kết nối Internet (Internet of Things - IoT) và Dữ liệu khổng lồ (Big
Data). Mục đích chính của Logistics 4.0 là tiết kiệm lao động và tiêu chuẩn hóa lực lượng lao động trong
quản trị chuỗi cung ứng (Kesheng Wang, 2016). Các công nghệ như robot kho và tự động lái xe đang cố
gắng thay thế các quy trình khơng địi hỏi phải vận hành và quyết định bởi sức lao động của con người.
Mục đích là sự cân bằng hồn hảo giữa tự động hóa và cơ giới hóa (Laura Domingo, 2016).
3. Thực trạng phát triển ngành logistics tại Việt Nam
Trong những năm qua, ý thức được tầm quan trọng và hiệu quả to lớn từ dịch vụ logistics, Việt
Nam đã chú trọng vào việc xây dựng và phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam. Các cơ quan quản lý
nhà nước liên quan đã từng bước xây dựng khung pháp lý và chính sách phát triển dịch vụ logistics,
nhiều doanh nghiệp logistics đã được thành lập cung cấp dịch vụ logistics và từng bước hình thành
chuỗi cung ứng hàng hoá, dịch vụ tới các vùng miền trong cả nước và tới các nước trên thế giới.
Theo Hiệp hội DN dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại
Việt Nam ở Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14%-16%, với quy mô khoảng 40-42 tỷ
USD/năm. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới về Chỉ số hoạt động logistics (LPI) công bố ngày 24
tháng 7 năm 2018, Việt Nam đứng thứ 39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25 bậc so với năm 2016
và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước ASEAN sau Singapore và Thái Lan. Việt Nam cũng là nước
xếp hạng ở tốp đầu trong các thị trường mới nổi. Đây là kết quả tốt nhất mà Việt Nam có được kể từ
khi Ngân hàng Thế giới thực hiện việc xếp hạng LPI kể từ năm 2007 đến nay.
Theo nghiên cứu của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), thống kê từ
nguồn Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thì số lượng các doanh nghiệp tham
gia cung cấp các loại hình dịch vụ logistics là khoảng 23.000 doanh nghiệp, trong đó 3.000 doanh
nghiệp có hoạt động logistics quốc tế, chủ yếu tập trung ở khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
lân cận (khoảng 70%). Tuy nhiên, nhìn chung các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
logistics hoạt động ở quy mô vốn đăng ký nhỏ cũng như quy mô lao động hạn chế, hoạt động kinh

doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ
bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ
đóng vai trị là nhà thầu phụ hay đại lý cho các cơng ty nước ngồi gồm: Dịch vụ logistics chủ yếu mà
các doanh nghiệp kinh doanh logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải
hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho... còn các dịch vụ
khác trong chuỗi dịch vụ logistics mặc dù có một số doanh nghiệp cung ứng nhưng số lượng không
nhiều và chưa được quan tâm phát triển. Bên cạnh đó, cịn thiếu sự kết nối giữa doanh nghiệp xuất

292


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

khẩu và doanh nghiệp logistics do thói quen nhập khẩu CIF và xuất khẩu theo FOB. Khả năng cạnh
tranh của các DN nội địa cũng còn thấp so với doanh nghiệp ngoại.
Xét trên khía cạnh doanh thu từ ngành dịch vụ logistics có thể thấy, theo thống kê của Biinform
Database thì doanh thu của 100 cơng ty dịch vụ logistics lớn nhất ở Việt Nam năm 2016 vào khoảng
8,74 tỷ USD, tăng 15,6% so với năm 2015, đóng góp 2-4% trong tổng GDP của cả nước. Theo ước
tính của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng doanh thu của ngành dịch vụ logistics được dự báo
vào khoảng 18-20% thì quy mơ thị trường dịch vụ logistics năm 2018 ước tính đạt 10 - 11 tỷ USD. Xét
theo quy mô doanh thu và sử dụng lao động trong doanh nghiệp cũng như số lượng các loại hình dịch
vụ logistics cung cấp, nhóm các doanh nghiệp dịch vụ logistics lớn nhất ở Việt Nam có thể kể đến như:
Tân Cảng Sài Gòn, Gemadept, Transimex, Sotrans, MP Logistics, U&I Logistics, TBS Logistics, Bắc
Kỳ Logistics, ALS, SCSC, Seaborne, IndoTrans, và các cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi như DHL,
Nippon Express, Yusen Logistics,...
Hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương
mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mơ lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch
vụ đi kèm đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Tuy nhiên, cơ sở
hạ tầng giao thơng vận tải cịn chưa đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi
nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Việt

Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay,
đường quốc lộ, cơ sở sản xuất, mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam. Thực tế cũng cho
thấy, việc kết nối các phương thức vận tải chưa hiệu quả; chưa phát huy tốt các nguồn lực về hạ tầng,
con người, thị trường nội địa và khu vực; các trung tâm logistics đóng vai trò kết nối Việt Nam với
quốc tế chưa được đầu tư, xây dựng… dẫn đến chi phí logistics cịn cao, chiếm 25% GDP (so với các
nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ
này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh dịch vụ, hàng hóa của các
doanh nghiệp Việt Nam, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Những khó khăn của doanh nghiệp trong kinh doanh đã được từng bước giải quyết, nhất là dịch
vụ hải quan. Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể. Năm
2017, thời gian thông quan hàng xuất khẩu là 105 giờ, hàng nhập khẩu là 132 giờ... Quy trình khai báo,
xử lý hồ sơ thủ tục hải quan đã được tự động hóa ở mức độ rất cao với hơn 99,60% doanh nghiệp tham
gia thực hiện hải quan điện tử tại 100% các đơn vị hải quan trên phạm vi toàn quốc. Đặc biệt, thời gian
gần đây đã có sự bùng nổ về thương mại điện tử và e-Logistics. Theo Cục Thương mại điện tử và kinh
tế số của Bộ Công Thương, thương mại điện tử tăng trưởng 35%/năm; doanh số bán lẻ thương mại
điện tử của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 20%/năm và tổng doanh số bán lẻ
thương mại điện tử Việt Nam dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2020. Những yếu tố này đã tạo điều kiện
cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu; hình
thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện, đa dạng và ngày càng chuyên sâu hơn, góp phần
quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.
Bảng 1. Bảng xếp hạng LPI của Việt Nam qua các năm
Năm
2018
2016
2014
2012
2010

Thứ hạng
LPI

39
64
48
53
53

Điểm LPI

Hải quan

Hạ tầng

3.27
2.98
3.15
3
2.96

2.95
2.75
2.81
2.65
2.68

3.01
2.7
3.11
2.68
2.56


Vận tải
quốc tế
3.16
3.12
3.22
3.14
3.04

Năng lực
logistics
3.4
2.88
3.09
2.68
2.89

Theo dõi và
truy xuất
3.45
2.84
3.19
3.16
3.1

Thời gian
3.67
3.5
3.49
3.64
3.44


Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Đánh giá chung năm 2018, ngành dịch vụ logistics được phát triển thêm một bước so với 2017
với mức tăng trưởng ước tính là 12% cùng với mức tăng 13,6% của kim ngạch xuất nhập khẩu trong 9
293


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

tháng đầu năm. Dự báo, đến hết năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt mức 300
tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy, tiềm năng phát
triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở
thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.
4. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến xu hướng phát triển ngành logistics của Việt
Nam
Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) là nền tảng cốt lõi để phát triển ngành logistics trong
tương lai. Nó khơng chỉ tham gia giải quyết bài tốn về logistics cho các cơng ty mà cịn giúp các
doanh nghiệp có thể vận dụng và đưa ra được những giải pháp đột phá cho từng khâu cung ứng nói
riêng và logistics nói chung. Đặc biệt trong bối cảnh chi phí trung bình logistics Việt Nam đang cao
gấp đôi so với thế giới, các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang đến nhiều cơ hội
cho ngành logistics Việt Nam, nhất là giải quyết bài tốn về chi phí.
4.1. Cơ hội
Ngành logistics là ngành mang tính quốc tế cao và ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ
vào các hoạt động. Hiện nay, các nước phát triển đang từng bước thực hiện E-Logistics, green logisitics,
E-Documents... và ứng dụng cơng nghệ điện tốn đám mây, công nghệ Blockchain... Trong điều kiện
cách mạng công nghiệp 4.0, đã bắt đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo hay robot vào thực hiện một số dịch vụ,
như dịch vụ đóng hàng vào container hay dỡ hàng khỏi container, xếp dỡ hàng hóa trong kho, bãi... Đối
với lĩnh vực logistics, cuộc cách mạng này sẽ ngày càng mở rộng việc kết nối những thiết bị phi truyền
thống như pallet, xe cần cẩu, thậm chí xe rơ-mooc chở hàng với mạng internet.

Tại Việt Nam, nhận thức được những lợi ích từ CMCN 4.0 mang lại cho ngành logistics nên cả
Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đã quyết tâm phát triển ngành logistics theo xu hướng 4.0. Có
thể thấy rằng, cơ hội đầu tiên đối với ngành logistics Việt Nam đó là cách mạng 4.0 sẽ góp phần làm
giảm chi phí vận chuyển và chi phí thơng tin liên lạc, từ đó làm chi phí kinh doanh được tối ưu hóa, đồng
thời hệ thống logistics và chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp cũng trở nên minh bạch hơn.
Nhờ cơng nghệ phát triển mà các doanh nghiệp có cơ hội rút ngắn thời gian thực hiện đơn hàng
và đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Chẳng hạn với ứng dụng hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử
(Electronic Data Interchange - EDI) mà hiện nay một số doanh nghiệp Việt Nam đang ứng dụng không
những giúp tiết kiệm được rất nhiều thời gian mà còn giảm thiểu đuợc những rủi ro do sai sót trong
q trình làm vận đơn.
Một cơ hội mà CMCN 4.0 đem lại cho logistics Việt Nam nữa đó là sự xuất hiện các loại hình
dịch vụ mới liên quan đến hoạt động logistics. Năm 2017, công ty cổ phần Ifreight đã cho ra mắt hệ
thống booking trực tuyến đầu tiên tại Việt Nam. Hệ thống ifreight.net bao gồm Website và Mobile app
giúp doanh nghiệp có thể lựa chọn đơn vị vận chuyển với danh sách trên 40 hãng tàu để quyết định
mức giá thấp nhất tại từng thời điểm, từ đó có thể booking trực tuyến thay vì thủ cơng như truớc đây.
Một ví dụ điển hình trong việc nắm bắt cơ hội tạo ra bởi CMCN 4.0 tại Việt Nam chính là việc sử
dụng công nghệ mới trong hai đội máy bay Boeing787 Dreamliner và Airbus A350 do Vietnam
Airlines khai thác. Khi máy bay hoạt động, các thiết bị cảm ứng trên máy bay sẽ gửi những dữ liệu về
tình trạng của máy bay về mặt đất. Nhân viên kỹ thuật dưới mặt đất sẽ nhận được các cảnh báo và có
kế hoạch sửa chữa và chuẩn bị phụ tùng thay thế. Các phụ tùng thay thế này có thể sản xuất được trong
khi máy bay đang bay nhờ công nghệ in 3D và có thể tiến hành sửa chữa ngay khi máy bay hạ cánh.
4.2. Thách thức
Tuy nhiên, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và Cách mạng công
nghiệp 4.0, bên cạnh những cơ hội lớn mang lại, ngành logistics Việt Nam sẽ phải đối diện với khơng
ít khó khăn, thách thức, địi hỏi các cơ quan quản lý, hiệp hội và doanh nghiệp logistics phải nắm rõ để
có giải pháp điều chỉnh phù hợp tình hình mới.
294


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020


Theo Báo cáo logistics Việt Nam năm 2018 của Bộ Công thương, hạ tầng công nghệ thơng tin
(CNTT) phục vụ logistics cịn hạn chế. Các doanh nghiệp logistics Việt Nam đã có chú trọng đầu tư
vào hệ thống CNTT, tuy nhiên hiệu quả mang lại chưa thực sự cao. Bên cạnh đó, do chi phí đầu tư lớn
nên các doanh nghiệp chỉ đầu tư vào các hệ thống như quản lý vận tải (TMS), quản lý kho hàng
(WMS) ... một cách nhỏ lẻ và chưa có tính đồng bộ cho tồn bộ doanh nghiệp. Chưa có cơng ty nào
ứng dụng các hệ thống tự động hóa cho kho hàng, trung tâm phân phối. Việc ứng dụng CNTT vào
công việc hàng ngày tại các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam cịn ở trình độ thấp,
chủ yếu là sử dụng phần mềm khai hải quan điện tử, công nghệ định vị xe, email và internet cơ bản...
Lý do chính là hiện nay các doanh nghiệp đều có quy mơ nhỏ và vừa nên hạn chế về vốn đầu tư, nguồn
nhân lực chuyên sâu về CNTT còn yếu và thiếu, mặc dù, 96% doanh nghiệp được điều tra của VLA
vừa qua đều cho rằng, công nghệ là nhân tố khác biệt tạo thuận lợi cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Tuy hạ tầng và trình độ CNTT tại Việt Nam có phát triển nhưng vẫn cịn thiếu nhiều ứng dụng
cho chuyên ngành, nhất là cho logistics. Đối với hệ thống thơng tin hàng hóa xuất nhập khẩu, nhu cầu
kết nối với nhiều bên liên quan hơn giữa cơ quan Hải quan, thuế, cơ quan quản lý chuyên ngành và
người khai hải quan đang là một vấn đề cấp thiết. Ngồi ra, Việt Nam cũng chưa có định hướng rõ
ràng trong việc đầu tư nghiên cứu ứng dụng hay phát triển sản phẩm nào trong lĩnh vực công nghệ
thông tin logistics...
Một thách thức lớn khác của logistics 4.0 tại Việt Nam chính là vấn đề về nguồn nhân lực.
Trước khi cuộc CMCN 4.0 diễn ra, việc giải quyết các yêu cầu về nguồn nhân lực trong ngành
logistics luôn là bài tốn khó cho Việt Nam. Nguồn nhân lực trong ngành logistics Việt Nam hiện còn
yếu và thiếu hụt về cả số lượng lẫn chất lượng. Thực tế, nguồn nhân lực logistics hiện nay có đến
80,26% số người tự tích lũy kiến thức về logistics. Đối với đội ngũ nhân viên tác nghiệp hàng ngày,
phần lớn tốt nghiệp đại học nhưng khơng chun, phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề trong
q trình làm việc. Cịn đội ngũ nhân cơng lao động trực tiếp đa số trình độ học vấn thấp, công việc
chủ yếu là bốc xếp, kiểm đếm ở các kho bãi, lái xe vận tải, chưa được đào tạo tác phong công nghiệp,
sử dụng sức lực nhiều hơn là bằng phưong tiện máy móc. Sự yếu kém này là do phưong tiện lao động
còn lạc hậu, chưa địi hỏi lao động chun mơn. Bên cạnh đó, nguồn cung nhân lực logistics trình độ
đại học ở Việt Nam cịn rất yếu, cả nước chỉ mới có một số cơ sở giáo dục đại học có đào tạo chuyên
ngành logistics nhưng số lượng hạn chế, tính thực tiễn của chương trình giảng dạy tại các trường đại

học, cao đẳng không cao, làm cho người học chưa thấy hết vai trị và sự đóng góp của logistics, giao
nhận vận tải trong nền kinh tế. Vấn đề đào tạo và quy hoạch nguồn nhân lực dù đã được đặt ra từ vài
năm nay, nhưng còn chậm so với đòi hỏi thực tế. Chính điều này dẫn đến hệ quả là thiếu những chuyên
viên có kinh nghiệm trên lĩnh vực logistics đủ khả năng làm việc với các đối tác quốc tế.
4.3. Xu hướng phát triển ngành logistics Việt Nam
Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) với những bứt phá trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo tích
hợp trí tuệ nhân tạo với mạng lưới kết nối Internet vạn vật (IoT) và các cơng cụ hiện đại hóa đang bắt
đầu thay đổi toàn bộ viễn cảnh của dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa trên tồn thế giới với ước
tính khoảng 5,5 triệu thiết bị mới được kết nối mỗi ngày. Chính vì vậy, cuộc cách mạng cơng nghiệp
4.0 sẽ tác động mạnh mẽ đến xu hướng phát triển ngành logistics thế giới và ngành logistics Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó.
Trong lĩnh vực logistics, cuộc cách mạng này sẽ ngày càng mở rộng hơn với việc kết nối những
thiết bị như pallet, xe cần cẩu, xe rơ-mooc chở hàng với mạng internet. Tất cả các công ty logistics
quốc tế lớn dự kiến sẽ sử dụng cơng nghệ IoT và dự báo trong vịng 3 năm tới, IoT sẽ trở nên phổ biến
trong lĩnh vực logistics, nó sẽ giải quyết được nhiều bài tốn ứng dụng trong các khâu thuộc quy trình
logistics. IoT có thể được tích hợp trong kho bãi thơng qua các cảm biến cài đặt tại các kệ, hàng hóa.
Thơng tin về vị trí, tình trạng đơn hàng, khối lượng sẽ được cập nhật theo thời gian thực từ các pallet
(tấm kê hàng), gửi tới hệ thống quản lý kho bãi (WMS), giúp giảm nhẹ các công việc tiêu tốn nhiều
thời gian như kiểm đếm. Các máy quay gắn ở cổng có thể được dùng để phát hiện các hỏng hóc và
295


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

theo dõi lỗi hàng. IoT cũng mang lại giải pháp tốt hơn trong việc quản lý đội xe giao hàng bằng cách
tối ưu hóa thời gian trống của xe hoặc đưa ra các dự báo bảo trì xe tự động dựa trên các cập nhật từ
cảm biến gắn trên xe. IoT đem tới một giải pháp giao hàng tồn diện cho người tiêu dùng thơng qua
năng lực giao hàng thơng minh, ví dụ như trường hợp giao hàng tới tận cốp xe của khách hàng thông
qua mã code mã hóa hoặc khóa thơng minh của Amazon.
Song hành cùng IoT, những công nghệ ngày càng ảnh hưởng sâu rộng tới logistics còn bao

gồm dữ liệu lớn (Big Data) và AI bởi lượng dữ liệu khổng lồ phát sinh trong chuỗi cung ứng. Dữ liệu
lớn giúp tối ưu năng lực, nâng cao trải nghiệm người dùng, giảm thiểu rủi ro và tạo ra mơ hình kinh
doanh mới. Thêm nữa, dữ liệu lớn giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, chất lượng quá trình, hiệu
suất để tăng tốc độ và minh bạch trong việc ra quyết định, từ đó cải thiện hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp. Chẳng hạn mối tương quan giữa các luồng dữ liệu như thơng tin giao hàng, thời tiết,
giao thơng có thể được tận dụng cho việc lên kế hoạch theo thời gian thực, tối ưu hóa các trình tự tải
và dự đốn thời gian xe đến theo thời gian thực.
Cơng nghệ thực tế ảo (VR) & thực tế tăng cường (AR) đang nhanh chóng trở thành cơng nghệ
quan trọng giúp kết nối thế giới thực và ảo. Trong logistics, công nghệ này có thể giúp cơng nhân nhận
diện nhanh chóng thơng tin lơ hàng, từ đó đẩy nhanh thời gian làm hàng. DHL đã thử nghiệm AR ở
châu Âu và Hoa Kỳ bằng cách trang bị cho công nhân kho hàng kính thơng minh AR, giúp nhận diện
các món hàng theo thời gian thực, trên đó hiển thị tuyến đường tối ưu để thu gom đơn hàng, giúp giảm
thời gian trong kho hàng. Ngồi ra, cơng nhân khơng cần phải scan các gói hàng, chiếc kính có thể làm
thay họ. Lợi ích của AR bao gồm nâng cao hiệu quả, giảm thiểu sai sót, tối ưu hóa việc huấn luyện và
sử dụng nhân lực.
Bên cạnh đó, các cơng ty logistics trên thế giới đang nhanh chóng cải tiến cơng nghệ để bắt kịp
xu hướng này và cải thiện tỷ suất lợi nhuận, thông qua việc trang bị các công cụ tự động, hiện đại như:
Robot giúp tiết kiệm năng lượng, chi phí lao động phổ thơng; Xe chuyển hàng tự động (AGV) có thể
thực hiện đơn hàng, tự bổ sung hàng trong kho bãi; Thiết bị theo dõi, định vị, dẫn đường và quan sát
bằng các thiết bị sử dụng WiFi, Bluetooth; Ứng dụng Co-pilot trên Android của điện thoại di động
được sử dụng trong hoạt động logistics quốc tế; Ứng dụng cung cấp định tuyến (mapping) và định
hướng (direction routing), tạo điều kiện cho chuyển hướng thông qua việc theo dõi trực tuyến phương
tiện vận tải; Ứng dụng quét mã vạch trực tuyến trong quản lý kho; Tối ưu hóa hàng tồn kho dựa trên
điện toán đám mây; Ứng dụng kiểm soát lao động hàng ngày trong logistics (Ứng dụng Web fleet của
Android); Tích hợp hợp đồng dịch vụ, quản lý đơn hàng, quan hệ khách hàng trong logistics trực
tuyến...
Như vậy, có thể thấy xu hướng cơng nghệ 4.0 sẽ là nền tảng cốt lõi để đưa logistics cất cánh trong
tương lai. Mặc dù Việt Nam có xuất phát điểm thấp trong cuộc cách mạng công nghệ 4.0 (Theo báo cáo
mới nhất của WEF), tuy nhiên Việt Nam vẫn có nhiều tiềm năng trong tương lai để cạnh tranh trong
ngành logistics. Trong tương lai, sự ảnh hưởng của công nghệ sẽ làm cho các doanh nghiệp logistics Việt

Nam nói riêng và quốc tế nói chung phải định hướng lại chiến lược phát triển, cụ thể như sau:
- Tự động hóa dữ liệu và minh bạch: Dữ liệu luôn là trọng tâm của logistics và những tiến bộ
mới trong việc thu thập và phân tích dữ liệu tạo cơ hội cho các cơng ty đạt được mục tiêu của mình tốt
hơn. Những đổi mới được thực hiện là hệ thống thu thập và xử lý dữ liệu, tháp kiểm soát logistics, trí
tuệ nhân tạo...
- Các phương pháp vận chuyển mới (tự động hóa phương tiện vận tải): Xe khơng người lái,
robot và máy bay không người lái sẽ được đưa vào hoạt động và đem lại lợi ích tài chính cho các công
ty đã sử dụng chúng.
- Kinh doanh trên nền tảng kỹ thuật số: Bằng cách chia sẻ chi phí vốn, các doanh nghiệp logistics sẽ tối đa hóa được công suất phương tiện vận tải và tránh được tĩnh trạng phương tiện chạy rỗng
trên chuyến đi.
296


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

- Các phương pháp sản xuất mới do ảnh hưởng của kỹ thuật 3D: có thể thay đổi các dịch vụ
logistics truyền thống, thúc đẩy quá trình sản xuất sản phẩm ra thị trường. Rút ngắn khoảng cách giữa
nơi sản xuất và thị trường tiêu thụ, do đó làm giảm chi phí vận tải theo qng đường và nâng cao tầm
quan trọng của dịch vụ phân phối.
5. Một số kiến nghị nhằm phát triển ngành logistics Việt Nam trong thời đại 4.0
Hiện nay, ngành dịch vụ logistics Việt Nam còn tụt hậu xa so với thế giới về việc ứng dụng
công nghệ cao. Để ứng dụng khoa học, cơng nghệ hiện đại, bắt kịp trình độ quốc tế, theo xu hướng
hình thành ngành Logistics trong bối cảnh CMCN 4.0 địi hỏi sự nổ lực của khơng chỉ Chính phủ, các
hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam mà còn phải xuất phát từ bản thân mỗi doanh
nghiệp logistics.
- Về phía Chính phủ: Cải thiện cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải như hệ thống đường bộ,
đường thủy và đường hàng không; tiếp tục rà sốt các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của
hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics; gắn kết quy
hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Nhà nước cần
có chính sách hỗ trợ một phần vốn đầu tư cho doanh nghiệp logistics và chính sách khuyến khích các

doanh nghiệp công nghệ cao, hỗ trợ các doanh nghiệp trẻ, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong lĩnh vực logistics và các doanh nghiệp chế tạo các sản phẩm cơng nghệ phục vụ cho logistics.
Cùng với đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống “Một cửa quốc gia”, Một cửa ASEAN với sự tham gia tích
cực của các bộ, ngành, qua đó tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc làm thủ tục xuất nhập khẩu
hàng hóa; Xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số, với cốt
lõi là cung cấp dịch vụ công trực tuyến cấp độ cao cho người dân và doanh nghiệp.
Đồng thời, hoàn thiện hệ thống thông tin xuất nhập khẩu để đảm bảo sự kết nối của các bên
liên quan trong hoạt động logistics. Nghiên cứu, triển khai giải pháp nền tảng công nghệ cho dịch vụ
logistics phục vụ hiệu quả cho việc trao đổi dữ liệu giữa các bên liên quan, bao gồm các cơ quan chính
phủ, các hãng tàu biển, các cơng ty logistics… và cho q trình "số hóa" ở phạm vi quốc gia.
- Về phía hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam: Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng
thành tựu của CMCN 4.0 vào hoạt động logistics. Hiện nay, VLA đang nghiên cứu ứng dụng khoa học
công nghệ cao như Blockchain vào một số hoạt động logistics. Trong đó, đang thực hiện việc nghiên
cứu áp dụng đại trà e-DO (Giấy giao hàng điện tử) cho các lô hàng lẻ (LCL) và tham gia dự án e-B/L
của Hiệp hội Giao nhận vận tải quốc tế FIATA. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu rộng, cơng tác hợp
tác quốc tế có một ý nghĩa quan trọng đối với phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
dịch vụ logistics Việt Nam. Thông qua việc hợp tác quốc tế, Việt Nam có thể tranh thủ nguồn vốn đầu
tư vào ngành logistics và mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp, học tập kinh nghiệm quản lý,
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyển giao kỹ thuật trong điều kiện cuộc CMCN 4.0.
Trong bối cảnh đó, vai trị kết nối, hợp tác quốc tế về lĩnh vực dịch vụ logistics của VLA là rất lớn, từ
đó tiếp tục phát huy những kết quả và nền tảng tích cực mà VLA đã gây dựng trong nhiều năm qua.
- Về phía các doanh nghiệp logistics: Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics cần
có nhiều đột phá và đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị,
tăng cường hợp tác, kết nối trong nước, khu vực và toàn cầu, quản lý tốt chuỗi cung ứng, giảm chi phí,
rút ngắn thời gian lưu chuyển hàng hóa. Cụ thể, các doanh nghiệp logistics trong nước cần tăng cường
ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại theo xu hướng hình thành ngành logistics trong cuộc CMCN
4.0 để nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm giá, phí các dịch vụ. Sớm hình
thành ngày càng nhiều doanh nghiệp dịch vụ logistics có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường trong
nước và quốc tế. Bên cạnh đó, trong một mơi trường cạnh tranh gay gắt của thị trường dịch vụ và yêu
cầu nguồn nhân lực trong điều kiện CMCN 4.0 sắp tới ngày càng cao, ngành logistics Việt Nam cần

phải có nguồn nhân lực chất lượng cao cả về kỹ năng thực tế, kiến thức chun mơn và trình độ tiếng
Anh chuyên ngành logistics. Vì vậy, cần phối hợp với các cơ sở đào tạo trong việc truyền đạt kinh
nghiệm cho sinh viên. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể ký kết các đơn đặt hàng về thiết kế phần
297


Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020

mềm quản lý hoặc các sản phẩm ứng dụng công nghệ tại các trường Đại học, Cao đẳng, nhờ đó có thể
giảm đuợc chi phí đầu tư cho doanh nghiệp, đồng thời nâng cao đuợc kỹ năng thực hành cho sinh viên,
nguồn nhân lực logistics trong tương lai.
6. Kết luận
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự phát triển của những công nghệ mới, đặc biệt là sự
phát triển của Mạng lưới vạn vật kết nối Internet (Internet of Things - IoT) và Dữ liệu khổng lồ (Big
Data) sẽ tác động mạnh mẽ đến xu hướng phát triển của ngành logistics với nhiều cơ hội nhưng cũng
đặt ra khơng ít thách thức, đặc biệt đối với một trong những quốc gia có ngành dịch vụ logistics còn tụt
hậu so với thế giới về việc ứng dụng cơng nghệ cao như Việt Nam. Vì vậy, u cầu đặt ra cho Việt
Nam hiện nay là cần có lộ trình rõ ràng cho việc phát triển ngành logistics trong xu thế chung của toàn
cầu, để làm được điều này địi hỏi sự nổ lực và phối hợp của Chính phủ, các hiệp hội doanh nghiệp
dịch vụ Logistics Việt Nam và bản thân mỗi doanh nghiệp logistics.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ công thương (2018), Báo cáo logistics Việt Nam 2018: Logistics và thương mại điện tử, Nhà xuất bản
công thương.
2. Đinh Thu Phương (2018), “Logistics Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và thách thức”, Kỷ
yếu hội nghị khoa học công nghệ giao thông vận tải, (5), tr. 108-112.
3. Phạm Hồng Nhung (2019), “Xu hướng phát triển logistics Việt Nam trong cách mạng cơng nghiệp 4.0”, Tạp
chí tài chính.
4. Phạm Trung Hải (2019), Phát triển ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam, truy cập ngày 15/11/2019.
5. Kesheng Wang (2016), “Logistics 4.0 Solution: NewChallenges and Opportunities, IntematiaonWorkshop
on Advanced Manufacturing and Automation 2016”, Manchester, United Kingdom, pp 68 – 74.


298



×