MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay Việt Nam đã bước vào một giai đoạn hội nhập quốc tế sâu sắc và tồn
diện hơn bao giờ hết. Tính đến năm 2013, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với
hơn 180 quốc gia với nhiều cấp độ khác nhau, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư
với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực
(ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp
độ tồn cầu. Việt Nam đảm nhận thành cơng vị trí Ủy viên khơng thường trực Hội
đồng Bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm kì 2008 – 2009.
Việt Nam cũng đảm nhận thành cơng vai trò chủ tịch ASEAN trong năm ASEAN
2010. Chặng đường gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là một quá trình nỗ lực
bền bỉ của đất nước.
Mười năm sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam phải
đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: nền kinh tế - xã hội lâm
vào khủng hoảng nghiêm trọng, an ninh quốc gia bị đe dọa bởi tình trạng vừa có hịa
bình vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc thù địch xiết chặt bao vây cấm vận, quan
hệ đối ngoại bị thu hẹp. Bởi vậy, bước vào thời kì đổi mới (1986), Việt Nam đứng
trước đòi hỏi cấp bách mang ý nghĩa sinh tử là phải tìm cách thốt khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vậy cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất
nước theo con đường đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng ngay từ Đại hội VII cho đến văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX đều khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng và nhân dân ta. Đảng xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn
diện và phong phú về cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vơ giá, là
sự chung đúc và kết tinh những gì ưu tú nhất thuộc về Dân tộc - Thời đại và Nhân loại,
được trí tuệ Hồ Chí Minh, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, đạo đức, nhân
cách và bản lĩnh văn hóa Hồ Chí Minh làm cho thăng hoa, thực sự trở thành giá trị văn
hóa Việt Nam hiện đại. Đại hội XI của Đảng (tháng 01 – 2011) cũng đã tổng kết thực
tiễn 25 năm đổi mới và rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó có bài học: “trong
bất kì điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi
mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy phương pháp "Dĩ bất
biến, ứng vạn biến" trong tư tưởng của Người khơng những mang tính khoa học, biện
chứng của triết học mácxít mà cịn chứa đựng cái tinh tế, sâu sắc của triết lý phương
Đông. Khoa học bởi nó chứa đựng những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác Lênin, đó là tính biện chứng, tính duy vật lịch sử, nguyên lý của phát triển, mối quan
hệ giữa cái chung và cái riêng, mối liên hệ phổ biến v.v.; tinh tế, sâu sắc bởi người sử
dụng khơng bị gị bó mà có thể sáng tạo trên cơ sở hoàn cảnh thực tế, hoàn cảnh khách
quan của hoạt động đang diễn ra và cịn bởi nó không bao giờ trở nên cũ kỹ hay nhàm
chán, khi sử dụng người sử dụng ngày càng nhận thấy nó trở nên phổ biến, bao quát
nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, khơng chỉ trong cách mạng mà cịn giá trị trong cả xây
dựng, phát triển; khơng chỉ cho tồn xã hội mà cịn cho từng gia đình, từng cá nhân
trong xã hội.
Trong thời kì chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta, vận dụng “bất
biến” tức là khơng vì quyền lợi hay lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá nhân nào
đó mà bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, của tập thể.
Phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
lên trên hết. Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế cũng phải
luôn “ứng vạn biến”, biết phân tích, dự đốn và mau lẹ chớp thời cơ để mang lại lợi ích
to lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng trong thời kì chủ động hội nhập và phát triển đất nước hiện nay.
Chính vì những lý do đó, tôi chọn đề tài: Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số cơng trình nghiên cứu về phương pháp, phong cách của Hồ Chí
Minh. Trong việc nghiên cứu mang tính chất hệ thống phương pháp, phong cách Hồ
Chí Minh, các cơng trình này đã đề cập tới phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Hồ Chí Minh.
Tiêu biểu nhất phải kể đến là cuốn: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh –
GS Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, 2004.
Tiếp đó là cuốn: Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh của GS.TS Hồng Chí Bảo,
Nxb Lý luận Chính trị xuất bản, 2007.
Ngồi ra cịn một số sách, giáo trình như:
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng, dùng cho Chương trình Cao cấp lý luận
chính trị), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa Lịch sử
Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2003.
Trường Chinh: con đường cách Chủ tịch Hồ Chí Minh và mạng Việt Nam, Nxb
Thơng tin lý luận, Hà Nội, 1991.
Võ Nguyên Giáp: Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1993.
* Một số bài viết:
Đặng Đình Nguyên: Dĩ bất biến, ứng vạn biến
GS.TS Nguyễn Hùng Hậu (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh): Từ triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đến triết lý hành động Hồ Chí Minh,
Tạp chí Cộng sản điện tử.
Lê Thị Huệ (Học viện chính trị - Hành chính khu vực IV): Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam - nhìn từ góc độ triết học.
Trang thơng tin điện tử tỉnh Sóc Trăng(23 - 11 - 2009): Vận dụng phương châm
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh vào q
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu trên, cũng như các giáo trình và các bài viết về cơ bản
mới dừng lại ở việc chỉ ra cái “bất biến”, cái “vạn biến” trong phương pháp “dĩ bất
biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhiều cơng trình, bài viết cịn cho rằng
đây là một quan điểm, phương châm chứ chưa phân tích nó góc độ là một phương pháp
cách mạng để thấy rõ được giá trị vận dụng của nó trong giai đoạn cách mạng hiện nay
và sau này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài tìm hiểu và làm rõ khái niệm, nguồn gốc, vai trò, nội dung phương pháp
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, những biểu hiện cụ thể của nó trong hoạt động của Hồ Chí
Minh, và sự vận dụng phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Hệ thống hố và phân tích phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh
trong cách mạng Việt Nam và vai trò của phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong hệ thống phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu, tìm hiểu q trình Hồ Chí Minh sử dụng phương pháp “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến” trong lãnh đạo cách mạng, trên các lĩnh vực: Kinh tế, Chính trị, Quân
sự, Ngoại giao, Xây dựng Đảng. .
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn, xác định các nguyên tắc phương pháp
luận cần quán triệt khi vận dụng phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
* Về nội dung:
Luận văn nghiên cứu:
- Phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" - ở góc độ phương pháp cách mạng
Hồ Chí Minh.
- Phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong thực tiễn quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa –
xã hội, đối ngoại, quốc phòng – an ninh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp đổi mới.
* Về thời gian:
- Quá trình sử dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Hồ Chí Minh
trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Quá trình Đảng vận dụng phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí
Minh vào sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung, phương pháp cách mạng Việt Nam và phương pháp Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu, trình bày trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phương pháp
cách mạng và phương pháp cách mạng Việt Nam.
Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác: Phân tích - Tổng hợp;
Logíc - Lịch sử; thống kê, so sánh, v.v.
5.3. Nguồn tài liệu
* Tài liệu nghiên cứu:
- Gồm có 15 tập Hồ Chí Minh tồn tập.
- Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, toàn tập, các Văn kiện Hội nghị
trung ương các khoá, Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm
đổi mới (1986 - 2016), Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011),...
* Tài liệu tham khảo:
- Các giáo trình, tập bài giảng Triết học, Kinh tế chính trị, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Xây dựng Đảng v,v, dùng cho cử nhân, thạc sỹ và cao cấp lý luận chính trị.
- Sách của các tác giả: Sách viết về hệ thống phong cách và phương pháp Hồ Chí
Minh, sách liên quan đến các nội dung nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, qn sự, văn hố, ngoại giao.
- Các luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến nội dung nghiên cứu của
luận văn.
- Các bài viết của các nhà nghiên cứu in trên báo, tạp chí, các trang báo điện tử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn bước đầu nêu ra định nghĩa khái niệm phương pháp "Dĩ bất biến, ứng
vạn biến" Hồ Chí Minh.
Luận văn lý giải cơ sở hình thành phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ cái “bất biến” và cái “vạn biến” theo quan niệm và
hành động của Hồ Chí Minh trong cách mạng.
Trên cơ sở phân tích q trình đổi mới của Đảng, luận văn đánh giá và đề xuất
phương hướng vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh của
Đảng trong giai đoạn tiếp theo.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên mơn Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
làm 2 chương:
Chương I: Cơ sở hình thành và nội dung của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng
vạn biến" Hồ Chí Minh.
Chương II: Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp “Dĩ bất biến
ứng vạn biến” Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP
"DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN" HỒ CHÍ MINH
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHƯƠNG PHÁP “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN
BIẾN” HỒ CHÍ MINH
1.1. Nghĩa của “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
"Dĩ bất biến, ứng vạn biến" là cụm từ có nguồn gốc tiếng Hán, là một vế của một
câu đối hồn chỉnh mà vế thứ hai của nó là: "Dĩ chúng tâm, vi kỷ tâm" (tức là lấy tình
cảm, ý chí của quần chúng làm tình cảm, ý chí của mình). Đây là lần đầu tiên Hồ Chí
Minh sử dụng vế đối này, ý tại ngôn ngoại, phù hợp khi nói với một nhà Hán học như
cụ Huỳnh Thúc Kháng; câu nói cũng như một bí kíp được truyền lại để xử lý những
tình huống thay đổi liên tục ở thời điểm bấy giờ.
Trong q trình giao thoa văn hố, người Việt dùng nguyên cụm từ này cả âm lẫn
nghĩa. Cụm từ này được ghép bởi các từ đơn: dĩ = lấy; bất = khơng; biến = biến hóa,
thay đổi; ứng = ứng phó, xử lý, đối xử; vạn (số từ) = vạn, hàng vạn. Có thể hiểu nghĩa
đen của cụm từ này là: lấy cái không thay đổi để ứng phó linh hoạt với những cái đang
biến đổi trong hiện tại. Chúng ta đều biết rằng, mối quan hệ giữa cái bất biến và cái
vạn biến, giữa cái không thay đổi và cái thay đổi, giữa bản chất và hiện tượng, v.v, là
vấn đề trung tâm của triết học xun suốt từ cổ chí kim, từ Đơng sang Tây. Như vậy,
"Dĩ bất biến, ứng vạn biến" cịn có thể hiểu là lấy cái có tính quy luật để ứng phó với
cái thiên sai vạn biệt, phong phú đa dạng, biến đổi khơn lường. Cịn ý nghĩa nhân sinh
sâu xa của phương pháp này là ở chỗ, trong cuộc sống nên nắm giữ cái bản chất, cái
lớn lao, không sa vào cái vụn vặt, lạc vào những biến đổi của hiện tượng, nên đứng ở
cái bất biến mà quan sát, từ đó dung hồ, xử lý các quan hệ, xử lý với ngàn vạn những
điều đang xảy ra trong cuộc sống một cách linh hoạt trên cơ sở mục tiêu cơ bản, mục
tiêu lâu dài, đích cuối cùng. Muốn thực hiện được, thực hiện đúng mục tiêu cuối cùng
thì phải lấy nó làm gốc khi ứng phó với những cái đang xảy ra trong hiện tại và tương
lai, ứng phó với hàng vạn những diễn biến phức tạp đang xảy ra trong hiện tại dù linh
hoạt tới đâu vẫn phải dựa trên cơ sở cái không đổi. Nếu không nắm được cái bất biến
mà cứ chạy theo cái vạn biến thì cả đời mỏi mệt, trăm lần khởi sự không một thành
công.
Chúng ta thấy trong cuộc sống, trong mỗi vấn đề, trong mỗi việc có một điều bất
biến riêng, đồng thời với mỗi điều bất biến ấy, tuỳ hồn cảnh, thời điểm mà lại có hàng
vạn điều vạn biến khác nhau. Hiểu nghĩa của "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" như vậy,
chúng ta thấy rằng ngay trong mối quan hệ giữa các các nhân, quan hệ gia đình, anh
em, bạn bè cũng phải cư xử dựa trên cơ sở của cái bất biến. Cái bất biến trong quan hệ
gia đình, anh em, bạn bè trong xã hội xưa được quy định bằng các quan hệ: vua - tôi;
cha - con; vợ - chồng. Ngày nay, dù lễ giáo phong kiến khơng cịn tồn tại một cách
chính thống, mối quan hệ trong gia đình và xã hội cũng có những thay đổi nhất định,
mọi người cởi mở và gần gũi với nhau hơn, nhưng chúng ta rễ dàng để nhận ra là trong
các mối quan hệ chằng chịt ấy, mỗi người phải luôn giữ và xây dựng cho mình một
nguyên tắc ứng xử đảm bảo duy trì các mối quan hệ; khi không xây dựng được nguyên
tắc ứng xử cho riêng mình - một nguyên tắc bất biến phù hợp, thì rất dễ gặp thất bại
trong cuộc sống gia đình cũng như cơng việc.
Tuy nhiên, khơng dừng lại ở chỗ tìm hiểu xem cái bất biến của mỗi cá nhân là gì
trong những mối quan hệ xã hội. Chúng ta cần nhìn đến những vấn đề lớn hơn, đi tìm
và xây dựng những nguyên tắc, mục tiêu bất biến cho từng tập thể, từng tổ chức và
rộng lớn hơn là cho cả quốc gia. Trên cơ sở cái bất biến của quốc gia - dân tộc, mỗi cá
nhân trong xã hội xác định cái bất biến của mình.
Đối với mỗi quốc gia - dân tộc, cái bất biến là lợi ích quốc gia hay mục tiêu lợi
ích quốc gia đã đuợc hình thành và phát triển qua một q trình lịch sử lâu dài. Cái bất
biến có thể hiểu là cái không đổi, mục tiêu lâu dài, mục tiêu chiến lược. Đối với sự
nghiệp cách mạng thì để cách mạng đi đến thắng lợi phải trải qua nhiều giai đoạn,
nhiều chặng đường. Nhiệm vụ của mỗi giai đoạn, mỗi chặng đường có thể khác nhau,
vì thế mục tiêu từng giai đoạn, từng chặng đường cũng có thể khác nhau, nhưng mục
tiêu chung cuối cùng, cái đích để vươn tới là không thay đổi. Những thay đổi trong
từng chặng đường, từng giai đoạn gọi là sách lược hay nó chính là sự vạn biến cho phù
hợp với giai đoạn, chặng đường đó. Chúng ta cũng có thể thấy cái bất biến và cái vạn
biến có thể chuyển hoá cho nhau. Cái bất biến ở một giai đoạn cách mạng này có khi
lại là cái vạn biến ở cả một thời kỳ của cách mạng. Nhưng dù là gì nó phải phục vụ
mục tiêu khơng đổi, mục tiêu cuối cùng, mục tiêu chiến lược đã được xác định, cái bất
biến lớn nhất và cuối cùng. Đây là phương pháp hành xử của mỗi người, cộng đồng,
quốc gia dân tộc có tính phổ biến trong q trình mưu sinh, và rộng ra là cả quá trình
tồn tại và phát triển trong lịch sử.
Tóm lại, có thể hiểu "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" là dựa trên cơ sở của cái không
thay đổi, lấy cái không thay đổi (mục tiêu vươn tới) để ứng phó với hàng vạn cái thay
đổi nhằm hiện thực hóa cái khơng thay đổi. Ở đây phải hiểu, cái bất biến - cái không
thay đổi lúc đầu chỉ là mục tiêu của hành động, sau hành động với vạn cái thay đổi để
đạt được, giữ vững cái không thay đổi tức là đã biến mục tiêu lúc này đã trở thành hiện
thực, cái bất biến được giữ vững.
1.2. Tinh hoa văn hố nhân loại
Hồ Chí Minh sinh ra trong gia đình có học, ở một vùng quê hiếu học và yêu nước.
Trước khi lên đường qua năm châu bốn biển, sống, học tập, làm việc và tìm hiểu thực
tế ở hầu khắp các nước lớn trên thế giới, trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã được tắm gội, thấm đẫm truyền thống văn hoá quê hương, đất nước cũng
như được học tập, hiểu biết khá sâu sắc văn hoá truyền thống phương Đơng. Chính vì
vậy, khơng thể và khơng phải ngẫu nhiên khi Hồ Chí Minh khẳng định: “Học thuyết
của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.Tơn giáo Giêsu có
ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương
pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tơn Dật Tiên chẳng những có điểm
chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho
xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ
nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết”.1
1 Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo tín ngưỡng (1996), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 152
Khẳng định đó cho chúng ta thấy hiểu biết rất sâu sắc, nghiên cứu tỉ mỉ của Hồ
Chí Minh về triết lý sống và triết lý phát triển xã hội của các bậc vĩ nhân, thánh nhân từ
Đông sang Tây trong lịch sử nhân loại. Trong sự hiểu biết và nghiên cứu ấy, Hồ Chí
Minh ln đi đến tận cùng, nắm chắc bản chất của vấn để, từ đó hình thành cho mình
một phương pháp tư duy giàu tính biện chứng phương Tây nhưng lại hết sức tinh tế
nhạy cảm của phương Đông. Lối tư duy độc lập sáng tạo ấy, nó cho chúng ta thấy
phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh rõ ràng phương Đơng, rất Việt
Nam nhưng có sự vượt lên bởi tính biện chứng, khoa học của phương Tây.
Thật vậy, trong quan niệm triết học phương Đông, Lão Tử cho rằng, mọi cái từ
đạo mà ra, rồi lại trở về với đạo. Đạo là cái bất biến, vĩnh hằng, vĩnh cửu còn vạn vật
là cái vạn biến. Nếu không nắm lấy cái bất biến mà cứ chạy theo cái vạn biến thì cả
đời sẽ mệt mỏi, theo ông nắm được đạo là nắm được mạnh, là biết được cái vạn vật, đã
biết được vạn vật lại giữ được đạo thì suốt đời khơng gay, ai giữ được đạo thì có thể
khống chế được vạn vật. Lão Tử còn cho rằng, biết cái bất biến thì sáng suốt, khơng
biết thì gây ra tai họa. Cũng vấn đề đó, Trang Tử cho rằng, cái chốt của đạo là bất biến,
cịn xung quanh nó là vạn vật biến đổi vô cùng. Thánh nhân dừng ở các chốt đó mà
dung hồ, qn bình vạn vật. Thánh nhân đứng ở cái bất biến mà quan sát những cái
vạn biến, dùng bất biến ứng với vạn biến, do đó mà Thánh nhân trường cửu. Như vậy:
"Dĩ bất biến, ứng vạn biến" đã từng là phép xử thế của các bậc thánh nhân phương
Đông.
Trong triết lý của Phật giáo Ấn Độ, triết lý "tuỳ duyên nhi bất biến" hay nói ngắn
gọn là triết lý tuỳ duyên, cũng thể hiện hành động rất thoáng, rất cởi mở, thoải mái;
theo triết lý này thì hành giả giữ vững đạo tâm, lý tưởng giải thoát khổ, nương theo
duyên (điều kiện sống) mà hành xử việc đạo, việc đời, không cố chấp, không câu nệ.
Đức Phật dạy trong kinh tạng Nikàya đại ý rằng: Phật đến một hội chúng nào thì ứng
xử theo cung cách, ngơn ngữ của hội chúng đó, nói chuyện với bác tiều phu, đức Phật
sử dụng ngôn ngữ thường nhật gần gũi với bác tiều phu. Khơng phải vì thế mà đức
Phật đánh mất mình. Bởi bản chất của việc làm đó là để phổ biến cho mọi người, mọi
đối tượng trong xã hội về con đường giải thoát khỏi nỗi khổ.
Đối với triết học Mác - Lênin, chủ nghĩa duy vật biện chứng, cái bất biến là vật
chất, nhưng vật chất ln vận động biến đổi, ln chuyển hố từ dạng này sang dạng
khác; nó vĩnh viễn, vơ cùng, vơ tận, nó bất biến so với hiện tượng ln ln thay đổi.
Trong tự nhiên, mọi sự vật hiện tượng đều là những dạng cụ thể của vật chất, có kết
cấu hoặc nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra. Trong thế giới khơng có gì khác ngồi
những q trình vật chất đang vận động, chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên
nhân, kết quả của nhau. Trong sự biến đổi đa dạng và phức tạp của tự nhiên ấy, triết
học Mác - Lênin đã khái quát thành hai nguyên lý, đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển, ba quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy là quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật chuyển hoá từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ
định của phủ định. Các sự vật và hiện tượng đều vận động và phát triển theo nguyên lý,
quy luật đó.
Chúng ta thấy chủ nghĩa Mác là một học thuyết sống khơng chỉ vì những ngun
lý cơ bản của nó vẫn vẹn nguyên giá trị cùng với thời gian, mà cịn vì nó ln vận động
và đổi mới. Các thế hệ học trị đã gìn giữ những nguyên lý ấy bằng cách vận dụng và
phát triển sáng tạo, kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và
ln ln vận động. Lồi người đi từ nấc thang này đến nấc thang khác trong nhận
thức vơ tận để tìm ra chân lý. Học thuyết cách mạng nếu không được bổ sung, không
được phát triển cùng với thực tiễn thì sẽ trở nên xơ cứng, khơng cịn sức sống. C.Mác
và Ph.Ăng-ghen là những nhà cách mạng sáng tạo, thiên tài, trước hết vì nguyên lý mà
các ông nêu ra vượt không gian, thời gian, luôn đâm chồi, nảy lộc cùng với năm tháng.
Là những nhà khoa học, các ông ý thức rõ ràng rằng, học thuyết cách mạng phải là học
thuyết "mở", học thuyết phát triển. Ngay trong Lời tựa viết năm 1872, tức là 24 năm
sau khi Tuyên ngôn ra đời, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng, "vài chi tiết cần phải
xem lại". Chính ngay Tun ngơn cũng đã giải thích rõ rằng, "bất cứ ở đâu và bất cứ
lúc nào, việc áp dụng những ngun lý đó cũng phải tùy theo hồn cảnh lịch sử đương
thời". Trong suốt cuộc đời mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nhiều lần nhấn mạnh,
trong bất luận trường hợp nào cũng không nên coi học thuyết của hai ông như những
khuôn mẫu; rằng, "lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển chứ không phải là
giáo điều". Cả hai ông đều nhấn mạnh tới sự cần thiết của "tự do phát triển" học thuyết
về chủ nghĩa xã hội khoa học.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự coi mình là người học trò nhỏ của C.Mác. Khi ca ngợi
người thầy, Hồ Chí Minh cho rằng C.Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng. Vì vậy, Người nhấn mạnh tới việc học tinh thần xử trí mọi việc của C.Mác;
dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích tình
hình cụ thể và tìm ra quy luật của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều
lần nhấn mạnh ý kiến của V.I. Lênin cho rằng, lý luận cách mạng khơng phải là giáo
điều, khơng phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo, là kim chỉ nam cho
hành động cách mạng, cần phải luôn bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong
thực tiễn sinh động. Ngay từ năm 1924, trong khi khẳng định "chủ nghĩa Mác sẽ cịn
đúng cả ở đó", Người đã khơng ngần ngại viết rằng: Dù sao thì cũng không thể cấm bổ
sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà
Mác ở thời mình khơng thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một
triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? "Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì?
Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”.1
Cần nhận thức một cách khoa học rằng, mỗi dân tộc có quyền lựa chọn con đường
tiến lên để đạt mục tiêu cách mạng, phù hợp với đặc điểm, tình hình của mình, khơng
nhất thiết mọi nước đều có cùng khn mẫu giống nhau. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định khơng có một mơ hình, con đường chung đi lên chủ nghĩa xã hội cho tất
cả các nước. Người viết: Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong
kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì lồi người
phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát
triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)
như Liên Xơ. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã
hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam.
1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 465
Người cịn nhấn mạnh: "Ta khơng thể giống Liên Xơ, vì Liên Xơ có phong tục tập
qn khác, có lịch sử địa lý khác... Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa
xã hội".1
Có được những quan điểm phát triển như vậy bởi ngay từ đầu khi ra đi tìm đường
cứu nước, Người đã xác định mục tiêu là: "Tơi muốn ra nước ngồi, xem nước Pháp và
các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng
ta”2. Như vậy là Hồ Chí Minh muốn đi tìm một phương pháp cách mạng có trong thực
tiễn của các nước chứ khơng chỉ là một phương pháp có tính chất lý thuyết sách vở.
Phương pháp Người tìm kiếm là phương pháp hoạt động xuất phát từ thực tiễn nhằm
cải tạo thực tiễn. Thực tiễn Việt Nam lúc đó là khơng tìm thấy một con đường cứu
nước đúng đắn và sự thất bại của các phong trào cách mạng đi theo các khuynh hướng
cũ. Trên con đường tìm tịi nghiên cứu thực tiễn, Hồ Chí Minh đã tìm tịi, nghiên cứu
nhiều học thuyết, trong đó Người tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin cái "cẩm nang thần
kỳ" để cứu nước, nhưng với tư duy độc lập và sáng tạo, cũng như xuất phát từ thực tiễn
hoàn cảnh Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ coi đó là những ngun lý mang tính chất gợi
mở, cần bổ sung và phát triển bằng thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Tôi cho rằng, ở Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước đã có sự thấm
đẫm truyền thống văn hóa dân tộc, truyền thống văn hóa phương Đơng. Ở Người đã có
sẵn tư tưởng của phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" và khi bắt gặp chủ nghĩa
Mác - Lênin, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tính biện chứng, nguyên tắc thực tiễn
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm cho phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" ở Hồ
Chí Minh thăng hoa lên một tầm cao mới, trở thành phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn
biến". Nó là một trong những điều kiện giúp cho Hồ Chí Minh nắm vững bản chất của
phương pháp cách mạng mácxít, để đem áp dụng vào thực tế đất nước. Điều đó làm
cho Hồ Chí Minh vượt lên trên các nhà cách mạng tiền bối, các nhà cách mạng đương
thời, trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam.
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, t8, tr. 227
2 Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (1994), NXB Thanh niên, Hà Nội, tr. 13
1.3. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do, quyết tâm giữ vững độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc - mục tiêu bất biến trong quá trình dựng nước và giữ
nước
Việt Nam là một trong những quốc gia hình thành sớm. Với những đặc điểm địa
chính trị, kinh tế đặc thù chi phối, ngay từ rất sớm nhân dân ta đã phải tìm ra nhiều
cách thức, biện pháp để đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Cộng đồng cư
dân người Việt đã tạo dựng và tiếp thu để rồi từng bước xây dựng, bồi tụ cho mình
những truyền thống văn hóa, trong đó có phương châm hành xử "Dĩ bất biến, ứng vạn
biến".
Nhìn lại lịch sử ta có thể thấy yêu cầu đầu tiên và cơ bản nhất đối với mỗi quốc
gia dân tộc nói chung, Việt Nam nói riêng là: Dân tộc độc lập, Tổ quốc thống nhất. Đó
là yêu cầu bất biến bền vững nhất. Đạt được yêu cầu này thì những nhu cầu chính đáng
khác đối với mỗi con người và cả quốc gia dân tộc mới có thể thực hiện được. Vì thế,
dù thời gian mất chủ quyền dân tộc vào tay ngoại bang có lâu (hơn 1100 năm Bắc
thuộc), thời gian chia cắt đất nước có dài (hơn 200 năm), nhưng khát vọng dân tộc độc
lập, Tổ quốc thống nhất vẫn là dòng chảy chủ đạo, tư tưởng xuyên suốt mọi ứng xử
hàng ngày của dân tộc. Điều này được minh chứng rõ ràng nhất ở hai thời điểm lịch sử
của dân tộc:
Thứ nhất, đó là thời kỳ hơn ngàn năm Bắc thuộc, kẻ thù đã sáp nhập đất nước ta
thành quận, huyện của chúng, chúng áp đặt và nô dịch chúng ta bằng nền văn hóa Hán,
chúng cố gắng đồng hóa dân tộc ta về mọi mặt. Qua nhiều thế hệ, chúng cố tình xóa đi
tất cả những gì thuộc về bản sắc văn hóa Việt Nam, nhằm làm cho người Việt khơng
thể nhận diện được chính mình mà vui lịng với nền văn hóa của kẻ nơ dịch. Nhưng
cuối cùng nền văn hóa của cộng đồng cư dân Việt chẳng những khơng bị mất đi mà sức
mạnh của nó cịn làm cho chính những người thực hiện đồng hóa bị đồng hóa trở thành
một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt, tự mất gốc dần theo năm tháng; đồng thời
với q trình đó, nhân dân ta cịn làm giàu bản sắc văn hố truyền thống của mình bằng
sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa của người đi nơ dịch từ chính q trình bị nơ dịch.
Do vậy, cái bất biến - tinh thần độc lập dân tộc khơng những khơng mất đi mà nó cịn
phát triển mạnh mẽ hơn, kết quả tất yếu là độc lập của dân tộc không chỉ tồn tại ở tinh
thần mà đã trở thành hiện thực, độc lập thực sự.
Thứ hai là, thời kỳ đất nước bị các thế lực phong kiến chia cắt, đó là thời gian
khơng hẳn dài đối với lịch sử một dân tộc có mấy ngàn năm lịch sử, nhưng sự chia cắt
ấy cũng đã tạo nên khơng ít tư tưởng cục bộ, thù hằn giữa các vùng miền. Tuy nhiên,
sự cục bộ, những mâu thuẫn, thù hằn đó chỉ xảy ra giữa các tập đồn phong kiến thuộc
tầng lớp trên của xã hội, cịn lòng dân vẫn sắt son hướng về một Tổ quốc chung, núi
sơng nối liền một dải. Nó chẳng khác gì thời đô hộ và cai trị của các thế lực phong kiến
phương Bắc, sự cai trị không bao giờ áp đặt được tới đơn vị hành chính nhỏ nhất là
làng, xã. Nhân dân Việt Nam qua bao thế hệ vẫn bảo tồn những nét văn hóa làng xã, có
những lúc nó cũng trở nên cực đoan khi "phép vua thua lệ làng", nhưng nó cũng đã cho
thấy có những giá trị bền vững, khơng đổi. Những giá trị văn hóa mà bất kỳ một giai
cấp, một nhà nước nào trong quá trình quản lý cũng cần phải khai thác và phát huy
những mặt tích cực của nó. Chính việc các thế lực phong kiến cát cứ khơng có được sự
ủng hộ của nhân dân nên dù có cố tình ngăn cản, khống chế nhưng khi được đứng lên
dưới ngọn cờ chính nghĩa, thì nhân dân đã ứng xử thống nhất trên một lập trường bất
biến, tạo nên sức mạnh kỳ diệu xóa sạch hàng rào chia cắt hàng trăm năm tưởng chừng
không thể nối liền đất nước. Độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc là truyền thống
văn hóa của cộng đồng cư dân Việt đã trải qua những thử thách khó khăn để định hình.
Như vậy, q trình nhân dân ta cùng với các triều đại phong kiến đấu tranh trong
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lịch sử dựng nước - giữ nước của dân tộc khẳng
định cái bất biến của dân tộc Việt là tinh thần độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Đó cũng chính là nguồn gốc, là cơ sở nền tảng, là giá trị truyền thống để hình thành
nên phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh, phương pháp hành động
số một của Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong sự nghiệp của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin.
1.4. Hành trình tìm đường cứu nước - cơ sở thực tiễn quan trọng hình thành
phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh
Ra đi tìm đường cứu nước, tắm mình trong thực tiễn đời sống giai cấp công nhân
và nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, đồng thời tích cực tham gia vào các
phong trào cách mạng, thực tiễn đó giúp Nguyễn Ái Quốc phát hiện ra chân lý bất biến
và mục tiêu cách mạng của mình.
Trước hết là thực tiễn về phong trào cách mạng của các nước, thực tiễn về tình
cảnh khổ cực của giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước dưới sự áp bức bóc
lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Thực tiễn đó cho Người thấy: Đối tượng của cách
mạng thế giới là chủ nghĩa thực dân, đế quốc nói chung. Vì bất kỳ ở đâu, chủ nghĩa đế
quốc cũng tàn bạo bất công và độc ác - chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù chung của nhân
dân lao động thế giới. Người kết luận "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai
giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột" 1. Từ thực tiễn này, Hồ Chí
Minh đã nhận diện đúng đắn kẻ thù chung của cách mạng thế giới; nhận thức đúng về
những người lao động, dù là màu da gì, dù thuộc châu lục nào, đất nước nào, cũng bị
bóc lột, bị đọa đày. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kêu gọi: Mặc dầu chúng ta là
những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thương yêu nhau như
anh em. Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực
dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành
độc lập cho Tổ quốc chúng ta.
Đó là điều bất biến đầu tiên mà Hồ Chí Minh đúc rút ra trong thực tiễn đấu tranh:
dù ở đâu, màu da gì, tơn giáo nào người lao động cũng bị bọn thực dân bóc lột, đồng
thời dù màu da gì, dân tộc nào, tơn giáo nào cũng phải đấu tranh vì lý tưởng chung là
giải phóng đồng bào và giành độc lập dân tộc.
Thứ hai là, sự vật lộn trong cuộc sống hàng ngày của Nguyễn Ái Quốc, bằng hai
bàn tay lao động, Người đã phải trải qua nhiều nghề từ thợ phóng ảnh, chép tranh, phụ
bếp, xúc tuyết đến viết báo v.v, trong những lúc cuộc sống khó khăn nhất, phải lao
động vất vả nhất, mọi hoạt động bị bọn mật thám theo dõi, rình rập; khi thực dân Pháp
cịn đang thống trị trên đất nước Việt Nam và sự thống trị ấy tưởng như khơng có gì lay
chuyển được, trước sự đe dọa và dụ dỗ của kẻ thù, song Người vẫn khơng nao núng,
1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, t1, tr. 266
không mềm long, vẫn kiên quyết giữ vững con đường mình đã chọn, tiếp tục đấu tranh
cho độc lập tự do của đồng bào và Tổ quốc, "Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào
tôi được tự do, Tổ quốc tơi được độc lập1"
Trong q trình hoạt động của Hồ Chí Minh, có rất nhiều sự kiện chứng tỏ bản
lĩnh, tinh thần, quyết tâm khơng gì có thể lay chuyển được và có sự vạn biến khéo léo
để thoát ra khỏi những cảnh huống hiểm nghèo, tiếp tục mục tiêu cách mạng đúng đắn
của mình. Nhưng theo tơi có ba sự kiện đáng kể nhất. Đó là: Sự hiểu lầm của Quốc tế
Cộng sản trong những năm 30 của thế kỷ XX, đặt Nguyễn Ái Quốc ra ngoài những
hoạt động, phong trào chung của Quốc tế Cộng sản, vụ án Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở
Hồng Kông và thời gian Nguyễn Ái Quốc bị giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch.
Trong đó, thời gian Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh bị giam cầm trong các nhà tù của
Tưởng Giới Thạch, là thời gian mà Người đã khẳng định một lẽ sống, triết lý về cuộc
sống, và một phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn bằng một thứ ngôn ngữ hết
sức tinh tế - ngôn ngữ của thơ.
Trong phạm vi của luận văn, tôi không đi sâu phân tích từng sự kiện để chứng
minh tính kiên định mục tiêu và khả năng vạn biến của Người để đạt tới mục tiêu đã
đặt ra: trở về Tổ quốc lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cách mạng, lật đổ ách áp bức
bóc lột đem lại tự do, no ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Song, có thể khẳng định rằng
khơng phải cá nhân nào cũng có thể vượt qua được sự nghi ngờ của tổ chức, của tập
thể, bị tổ chức cách ly và theo dõi, để vẫn nhiệt tình, hăng hái đấu tranh cho mục tiêu,
lý tưởng. Phải là con người nắm vững được quy luật của cuộc sống, hiểu rõ thời cuộc,
có quyết tâm cao độ và niềm tin sắt đá vào con đường mình đã lựa chọn. Đó chính là
cái bất biến mà Hồ Chí Minh đã có được từ thực tiễn cuộc sống.
Như vậy, chính thực tiễn hoạt động cách mạng với mn vàn khó khăn, thử thách
mà Hồ Chí Minh đã vượt qua, rèn luyện nên bản lĩnh, trí tuệ Hồ Chí Minh trong tổng
kết và sử dụng phương châm "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" vốn có từ trong minh triết
phương Đơng. Kết hợp với tính khoa học và biện chứng của chủ nghĩa duy vật mácxít
Hồ Chí Minh đã nâng tầm phương châm ấy, làm cho nó trở thành phương pháp cách
1
T.Lan, Vừa đi đường vừa kể chuyện (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.15
mạng và phương pháp ấy đã chứng tỏ được vị trí, vai trị của mình trong những thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
2.VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA PHƯƠNG PHÁP “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN
BIẾN” TRONG HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Vị trí của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong hệ thống
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với các tác giả trong cuốn sách: Tư tưởng Hồ
Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, đã nhận xét rằng: phương pháp luận Hồ
Chí Minh, về cơ bản là phương pháp luận Mác - Lênin, là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Hồ Chí Minh đã chỉ ra điều quan trọng nhất, nổi
bật nhất trong tiếp thu chủ nghĩa Mác là "phép biện chứng”, là “cách làm việc biện
chứng”. Nhưng phương pháp luận Mác - Lênin được Hồ Chí Minh tiếp thu đó có sự bổ
sung, phát triển mang những đặc trưng mới, độc đáo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kết
hợp các nguyên tắc phương pháp luận Mác - Lênin với những nhân tố duy vật biện
chứng của triết học phương Đông, của tư duy truyền thống Việt Nam và rút ra từ cuộc
đời hoạt động phong phú, đầy biến cố và những kinh nghiệm ứng nhân xử thế của Hồ
Chí Minh.
Trên cơ sở của những phân tích và nhận định, các tác giả đã đề cập đến một số
quan điểm có tính phương pháp luận của Hồ Chí Minh, hệ thống hóa lại thành bảy
quan điểm:
Thứ nhất, nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt có ý nghĩa cơ sở xuất
phát và quyết định mọi nhận thức, tư duy Hồ Chí Minh là quan điểm thực tiễn và
nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn.
Thứ hai, nguyên tắc toàn diện, hệ thống, trọng điểm và thiết thực.
Thứ ba, phát hiện mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn với phương thức, phương
pháp phù hợp, có hiệu quả nhất.
Thứ tư, quan điểm phát triển, đổi mới và hướng về cái mới.
Thứ năm, quan điểm về con người, quan điểm về nhân dân.
Thứ sáu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp là
một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản trong khi giải quyết những vấn đề xã hội của
Hồ Chí Minh.
Thứ bảy, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.1
Từ bảy quan điểm nêu trên, các tác giả cho rằng, có một phương pháp luận Hồ
Chí Minh. Đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được Người quán
triệt, vận dụng sáng tạo và bổ sung phát triển, kết hợp kế thừa truyền thống tư duy dân
tộc, tiếp thu tinh hoa triết học thế giới, nhất là triết học phương Đông và thực tiễn để
xem xét và giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Nội dung phương pháp
luận Hồ Chí Minh, có thể coi những quan điểm, ngun tắc nêu trên là đặc trưng cơ
bản nhất.
Trong cơng trình: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, do cố Giáo sư Đặng
Xuân Kỳ cùng với tập thể tác giả cho rằng Hồ Chí Minh là một bậc thầy về phương
pháp cách mạng đầy sáng tạo và các tác giả cũng cho rằng lúc đầu Hồ Chí Minh chỉ
xác định những phương pháp cụ thể đối với những hoạt động thực tiễn cụ thể nhằm đạt
những mục tiêu cụ thể. Nhưng chính trong q trình ấy, đã hình thành những phương
pháp chung cho tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Như vậy có thể thấy rằng việc
hình thành phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh ln đan xen giữa phương pháp
riêng, cụ thể với phương pháp chung. Nhưng một phương pháp cụ thể đã trở thành
nguyên tắc định hướng cho hoạt động nhận thực và hoạt động thực tiễn trong mọi giai
đoạn, mọi thời kì cách mạng về sau này thì phương pháp cụ thể ấy đã trở thành phương
pháp chung của cách mạng Việt Nam. Những phương pháp đã được Hồ Chí Minh xác
định, trở thành những phương pháp cách mạng chung đó là:
Một là, lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực
Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
Hai là, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng.
1 Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (2008), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 295 - 305
Ba là, dĩ bất biến ứng vạn biến.
Bốn là, nắm vững thời cơ, giải quyết đúng mối quan hệ giữa thời, thế và lực.
Năm là, biết thắng từng bước.
Sáu là, kết hợp các phương pháp.1
Khi nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí
Minh, tơi cũng nhất trí với các quan điểm và kết quả nghiên cứu của các tác giả trong
hai cơng trình trên. Hơn nữa, tôi muốn nhấn mạnh "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một phương pháp cách mạng quan trọng hàng đầu, có liên quan
và chi phối việc thực hiện các phương pháp cách mạng khác trong hệ thống các
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Thật vậy, chúng ta có thể xem xét đến phương pháp cách mạng thứ nhất của Hồ
Chí Minh theo quan điểm của cố Giáo sư Đặng Xuân Kỳ và các tác giả là: lấy thực tế
Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục tiêu
cho mọi hoạt động cách mạng. Mục tiêu của mọi hoạt động cách mạng chính là cái bất
biến. Đứng ở một góc nhìn rộng chúng ta có thể chỉ thấy có một thực tiễn, một hiện
thực là Việt Nam là một nước nghèo đang phải chịu hai tầng áp bức bóc lột, nhưng ở
những góc nhìn khác chúng ta có thể thấy có nhiều mục tiêu, mỗi mục tiêu ứng với
từng thời kỳ, từng điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những mục
tiêu đó phải phù hợp với mục tiêu chung và phục vụ cho mục tiêu chung, mục tiêu cuối
cùng. Thực tế Việt Nam, hiện thực Việt Nam chính là yêu cầu phải có những cái vạn
biến trong từng giai đoạn cách mạng và người làm cách mạng phải lấy mục tiêu khơng
đổi ra làm đích ngắm cho những hành động cách mạng của mình. Hay phương
pháp: tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Ai
cũng biết xã hội Việt Nam dưới thời đại Hồ Chí Minh có bao nhiêu tầng lớp, giai cấp,
dân tộc Việt Nam có bao nhiêu dân tộc anh em, nhưng bằng hành động cụ thể cũng
như sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh các tầng lớp nhân dân, các dân tộc anh em đã đoàn
kết với nhau đứng lên chống lại kẻ thù chung của dân tộc. Nghệ thuật "cầu đồng tồn
1 Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh (2004), NXB lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 67 - 117
dị" ở Hồ Chí Minh đã đạt tới đỉnh cao không chỉ ở chỗ tập hợp lực lượng, cô lập kẻ thù
của cách mạng ở trong nước mà còn thể hiện cả trong mối quan hệ với các nước anh
em, cũng như trong mối quan hệ với nhân dân các nước đi xâm lược. Nghiên cứu kỹ
thái độ ứng xử của Hồ Chí Minh đối với các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam
nhằm mục tiêu tập hợp lực lượng cách mạng, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đã vận dụng
hết sức nhuần nhuyễn phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Chỉ đơn cử như việc
Hồ Chí Minh không đánh đồng, không coi tất cả địa chủ phong kiến là đối tượng phải
đánh đổ; Hồ Chí Minh phân loại rõ các hạng địa chủ, hạng nào cần đánh đổ, hạng nào
khơng cần và khi nào thì đánh đổ đã cho thấy sự ứng biến thiên tài, cũng như việc nắm
chắc bản chất của từng giai cấp, tầng lớp trong xã hội của Hồ Chí Minh cho mục tiêu
tập hợp cao nhất lực lượng để làm cách mạng.
Cho đến nay, nhiều tác giả nghiên cứu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh đều
cho rằng: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" là nguyên tắc xem xét và hành động số một của
Hồ Chí Minh trong giải quyết những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam.
2.2. Vai trò của phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh
Xuất phát từ vị trí của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh
trong hệ thống phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy phương pháp
"Dĩ bất biến, ứng vạn biến" có vai trị lớn trong việc làm phong phú kho tàng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin về phương pháp cách mạng và phương pháp “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến” Hồ Chí Minh trở thành phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam, của cách
mạng Việt Nam.
Thứ nhất, vai trò của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh
trong việc làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" lấy phương pháp biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Đứng trên nền tảng ấy, Hồ Chí Minh đã phân
tích sâu sắc tình hình xã hội Việt Nam, xác định rõ những mâu thuẫn cơ bản nhất, nhờ
vậy Người đã xác định đúng mục tiêu bất biến của cách mạng và Người cũng đã vạn
biến trong từng hoàn cảnh, điều kiện để sử dụng, huy động tối đa các lực lượng tiến
hành cách mạng.Phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" thể hiện sự cơ đọng trong
phương pháp tư duy cách mạng Hồ Chí Minh. "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" thể hiện
phương pháp cách mạng biện chứng của tư duy và hành động, nó biểu hiện ở sự linh
hoạt, uyển chuyển trong đối nhân, xử thế, trong chỉ đạo hoạt động cách mạng. Như
vậy, phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng
duy vật mácxít kết hợp với các yếu tố biện chứng của triết học phương Đơng, truyền
thống văn hố Việt Nam cùng với những kinh nghiệm được đúc rút từ chính cuộc đời
hoạt động phong phú của Người được vận dụng vào thực tiễn Việt Nam để xử lý thành
công những vấn đề cách mạng Việt Nam đặt ra, bằng cái riêng đã làm phong phú cái
chung.
Phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh ln có sự đan xen giữa
phương pháp riêng, cụ thể của từng giai đoạn cách mạng với phương pháp chung trong
hiện thực hoá đường lối cách mạng.
Việc xác định đường lối cách mạng trước hết bắt đầu từ những cái chung phải
được xác định đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng và xu thế của
thời đại. Những cái chung đó là mục tiêu, con đường đi lên của cách mạng Việt Nam.
Đây là những vấn đề có ý nghĩa quyết định, là cái"bất biến" cần phải giữ vững.
Mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đường lối chung của cách mạng Việt Nam là phải tiến hành hai giai đoạn cách mạng
nối tiếp nhau: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Chính vì vậy, phải có mục tiêu và đường lối của từng giai đoạn cách mạng. Hơn
nữa, cịn phải có mục tiêu, đường lối cụ thể của từng thời kỳ trong mỗi giai đoạn cách
mạng. Mục tiêu, đường lối trong từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng chính là cái vạn
biến để đạt được, tiến tới cái bất biến, hiện thực hoá cái bất biến của cách mạng. Như
vậy có phương pháp riêng, cụ thể và phương pháp chung cho tồn bộ tiến trình cách
mạng. Phương pháp riêng, cụ thể nhằm đạt những mục tiêu cụ thể, trong hồn cảnh cụ
thể cịn phương pháp chung là những nguyên tắc có ý nghĩa phương pháp luận định
hướng cho mọi hoạt động cách mạng, những cách thức để thực hiện đường lối cách
mạng được đặt trong một chỉnh thể thống nhất.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung với cái riêng thể hiện qua quá trình vận
động của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tiến trình cách mạng Việt
Nam, sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam là biện chứng của hành động, của thực tiễn
làm sáng tỏ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh ln thể hiện rõ các quan
điểm lịch sử, cụ thể, đổi mới và phát triển. Chữ "dĩ", chữ "ứng" và sự vận động của nó
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam đã nói lên điều đó. Cái bất biến hay mục tiêu cách
mạng Việt Nam không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà nó là một quá trình Hồ Chí
Minh nghiên cứu và tìm hiểu thực tiễn, tìm hiểu lịch sử. Quá trình lịch sử của nhân loại
trải qua các hình thức nhà nước, các chế độ sở hữu, Hồ Chí Minh nhận thấy đi lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một tất yếu khách quan của lịch sử. Quan điểm lịch
sử cụ thể cịn được Hồ Chí Minh vận dụng vào cách mạng Việt Nam hết sức nhuần
nhuyễn, Người thấy rõ rằng: Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ
phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì lồi
người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc
phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội (cộng
sản) như Liên Xơ. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ
nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam. Người cũng
nhấn mạnh: "Ta khơng thể giống Liên Xơ, vì Liên Xơ có phong tục tập quán khác, có
lịch sử địa lý khác... Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội".1
Nhưvậy, mục tiêu thì có một nhưng con đường đi đến mục tiêu thì khơng chỉ có
một. Để tiến tới cái bất biến thì trên con đường ấy chúng ta phải ln vạn biến vì mỗi
chặng đường cụ thể lại có những hồn cảnh mới thay đổi, hay nói khác là ln đổi mới
và phát triển. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Muốn hiểu biết một việc gì, một vật gì, thì phải
tham gia vào cuộc đấu tranh và biến đổi của việc ấy, vật ấy. Có như thế mới thấy được
hiện tượng của nó, và tiến tới hiểu bản chất của nó.
1 Hồ Chí Minh, Tồn tập, sđd, t8, tr. 227
Hồ Chí Minh đã cho thấy sự vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp "Dĩ bất biến,
ứng vạn biến" với quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển trong việc xác định rõ đối
tượng lật đổ của cách mạng Việt Nam. Trong Cương lĩnh, Hồ Chí Minh thể hiện quan
điểm trái với Quốc tế cộng sản khi cho rằng chưa cần phải đánh đổ địa chủ phong kiến
Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam sau này chứng minh quan điểm của Hồ Chí
Minh là đúng đắn, nó giúp cho cách mạng có thêm được lực lượng để đánh để đế quốc
thực dân, kẻ thù chung của cả dân tộc. Có được quan điểm như vậy bởi Hồ Chí Minh
nắm vững thực tiễn khách quan, quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Với phong trào cách mạng chung của thế giới đã phát triển đến lúc phải
lật đổ chế độ tư bản chứ khơng cịn ở giai đoạn đánh đổ phong kiến nữa. Việt Nam làm
cách mạng theo con đường cách mạng vô sản, cần thiết phải đánh đổ chế độ phong
kiến nhưng với phong trào cách mạng Việt Nam, thực tiễn Việt Nam thì lại chưa phát
triển đến mức đã phải coi địa chủ phong kiến là kẻ thù cần đánh đổ ngay của cách
mạng.
Như vậy, trên cơ sở nền tảng phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp "Dĩ
bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh khơng chỉ làm phong phú kho tàng lý luận Mác Lênin về phương pháp cách mạng mà còn nâng các nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật lên tầm cao mới, thích ứng, phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam. Lấy
thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục
tiêu, phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" làm phong phú cho kho tàng lý luận
Mác - Lênin ở góc độ bổ sung cái nhuần nhị, tinh tế trong phương pháp cách mạng của
phương Đông.
Thứ hai, phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh trở thành
phương pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam, của cách mạng Việt Nam
Phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" không chỉ là sự vận dụng tổng hợp các
nguyên tắc của phép biện chứng duy vật, từ nguyên tắc khách quan, toàn diện, lịch sử
đến nguyên tắc đổi mới, phát triển mà nó cịn được cấu trúc lại một cách khoa học và
nâng các nguyên tắc đó lên tầm cao mới, thích ứng với điều kiện, hoàn cảnh của cách
mạng Việt Nam.