Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ nâng cao năng lực thực thi pháp luật của cảnh sát biển việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.72 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY ĐỊNH
NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT
CỦA CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
1.1.
Thực chất nâng cao năng lực thực thi pháp luật của

10

Cảnh sát biển Việt Nam
Những nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng lực thực

10

thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG
CAO NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT CỦA
CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
Thực trạng và yêu cầu nâng cao năng lực thực thi pháp

22

luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay
Giải pháp cơ bản nâng cao năng lực thực thi pháp luật


35

1.2.

2.2.

của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

35

65
79
81
87

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ chủ quyền an ninh biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là nhiệm vụ
và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và tồn qn, trong đó, Cảnh sát biển
Việt Nam là lực lượng nòng cốt, chuyên trách của Nhà nước. Để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về an ninh, an toàn, trật tự và bảo đảm việc chấp hành
pháp luật của Việt Nam cùng các điều ước quốc tế trên các vùng biển, thềm lục
địa của Việt Nam, đòi hỏi lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam phải có đầy đủ
phẩm chất và năng lực chuyên môn, nhất là năng lực thực thi pháp luật. Trong

điều kiện hiện nay, trước diễn biến phức tạp của tình hình biển Đơng, nâng cao
năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Trải qua gần 20 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, lực lượng Cảnh
sát biển Việt Nam đã lớn mạnh về tổ chức và lực lượng, trang bị kỹ thuật ngày
càng hiện đại, ln có mặt trên các vùng biển chủ quyền xung yếu; đủ khả năng
độc lập thực thi quyền tài phán quốc gia và phối hợp có hiệu quả với các lực
lượng chức năng làm nhiệm vụ duy trì an ninh trật tự, quyền chủ quyền quốc gia
trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán
bộ, chiến sĩ phải thường xuyên đối mặt với những tình huống phức tạp trên biển,
đặt ra cho lực lượng Cảnh sát biển trách nhiệm nặng nề hơn. Để đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo (nhất là trong
đấu tranh trực diện trên thực địa) đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển phải
đề cao lịng u nước, tự tơn dân tộc, kiên quyết, khôn khéo, linh hoạt, vững
vàng trước những âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc. Đồng thời, trong quá trình đấu tranh, phải quán triệt, chấp hành nghiêm
chủ trương, quan điểm của Đảng, không để xảy ra xung đột, bất lợi. Trên cơ sở
đó, kiên quyết giữ vững chủ quyền lãnh thổ và giải quyết đúng đắn, hài hòa
các quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng
3


giềng. Đó cũng là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh và cấp ủy, chỉ huy các cấp
trong lực lượng Cảnh sát biển. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định,
nhất là năng lực đấu tranh chống gian lận thương mại trên biển và các biểu hiện
xâm phạm chủ quyền quốc gia. Tình hình đó đặt ra vấn đề cấp thiết là phải
nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển hiện nay.

Đặc biệt, hiện nay tình hình biển Đơng ngày càng diễn biến phức tạp, có
nhiều nhân tố bất ổn định. Các thế lực thù địch vẫn tiến hành các hoạt động
ngăn chặn, chống phá, xâm lấn với nhiều thủ đoạn khác nhau. Tàu thuyền của
một số nước trong khu vực tiếp tục có những hoạt động trái phép như xâm
phạm vùng biển nước ta để thăm dị dầu khí, đánh bắt trộm hải sản, cướp
biển,... Do đó, việc xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam trở thành lực lượng
chuyên trách của Nhà nước trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biển, đảo
thực sự vững mạnh về mọi mặt là yêu cầu tất yếu khách quan, là một trong
những nội dung, giải pháp quan trọng trong thực hiện Chiến lược biển Việt
Nam và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tình hình trên đặt ra sự cần thiết phải nghiên cứu vấn đề “Nâng cao
năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay” một cách
cơ bản, hệ thống, góp phần quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ
quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực và nâng cao
năng lực cho đội ngũ cán bộ quân đội
Năng lực và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nói chung và cán
bộ quân đội nói riêng là vấn đề ln được Đảng, nhà nước và các nhà khoa
học quan tâm. Những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình khoa học đề cập
đến các khía cạnh khác nhau về năng lực của đọi ngũ cán bộ như: Trần Danh
Bích: “Xây dựng cơ cấu hợp lý đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam
4


trong giai đoạn mới” [4]; Đào Văn Tiến, “Nâng cao năng lực tư duy sáng
tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay” [55]. Mỗi cơng trình, các tác giả đã đề cập lý giải nhiều vấn đề về vị
trí, vai trị, u cầu, cơ cấu, nội dung phải nâng cao về mọi mặt cho đội ngũ
cán bộ, vấn đề năng lực tổ chức, hoạt động thực tiễn dưới những phạm vi,

góc độ và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Những kết quả nghiên cứu đó đã
có nhiều đóng góp cả về lý luận và thực tiễn vào việc xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ từng bước hiện đại; yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, đáp ứng sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong thời kỳ mới.
Xung quanh vấn đề này có nhiều đề tài khoa học đã đề cập tới như: Tổng
cục chính trị, “Nâng cao bản lĩnh chính trị năng lực hoạt động thực tiễn của
cán bộ chủ trì Cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở đơn vị cơ sở” [56]. Cơng
trình khoa học này đã làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về việc nâng cao
bản lĩnh chính trị trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ trì về
chính trị, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao bản lĩnh chính trị
cho đội ngũ cán bộ chủ trì trong hoạt động thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây
dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; Nguyễn Bá Dương, “Tăng
tính thực tiễn trong đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo ở nhà trường quân
đội” [22]. Tác giả làm rõ, nâng cao chất lượng hoạt động thực tiễn sẽ có tác
dụng thúc đẩy nâng cao trình độ năng lực của con người, từ đó đặt ra yêu cầu
khách quan, nhân tố tác động, dự báo xu hướng phát triển và đề ra các giải pháp
thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra cho con người trong hoạt động thực tiễn. Làm rõ
việc nâng cao năng lực của cán bộ cấp phân đội trong những hoạt động cụ thể ở
đơn vị cơ sở, góp phần to lớn vào việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người
cán bộ trong quân đội hiện nay; Nguyễn Văn Hữu, “Nâng cao năng lực giáo
dục chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt

5


Nam” [36]. Tác giả đã giới thiệu những vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực giáo
dục chính trị và nâng cao năng lực giáo dục lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ
chính trị ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong đó, tác giả nhấn mạnh

sự cần thiết nâng cao năng lực của người cán bộ chính trị trong việc giáo dục lý
luận chính trị ở đơn vị cơ sở trước yêu cầu xây dựng Quân đội thời kỳ mới, đồng
thời chỉ ra phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao năng lực giáo dục đội ngũ
cán bộ chính trị ở cơ sở hiện nay; Vũ Quang Tạo, “Nâng cao năng lực thực tiễn
cho đội ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện nay” [51]; Nguyễn Văn Huy,
“Nâng cao năng lực thực tiễn của người Chính trị viên trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” [34]. Các cơng trình này đã tập trung luận giải năng
lực tổ chức, hoạt động thực tiễn của người cán bộ là tổng thể những thuộc tính
hợp thành khả năng giúp người cán bộ hoạt động thực tiễn có hiệu quả theo
yêu cầu nhiệm vụ, chức trách của mình. Trong đó các tác giả nhấn mạnh năng
lực thực tiễn của người cán bộ được thể hiện ở việc xác định mục đích của
hoạt động; sử dụng có hiệu quả các lực lượng, phương tiện; phát hiện, giải
quyết các mâu thuẫn; kiểm tra đánh giá kết quả, tình cảm gắn bó. Những yếu
tố này có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau và tác động đến việc
nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của người cán bộ. Qua đó, các tác giả
bàn đến các giải pháp nâng cao năng lực thực tiễn của người cán bộ thông qua
việc đảm bảo cơ chế chính sách; giáo dục và đào tạo, phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của người cán bộ.
* Các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nâng cao ý thức
pháp luật và năng lực thực thi pháp luật của cán bộ
Xung quanh vấn đề này có các cơng trình, đề tài tiêu biểu như: Tổng
cục Chính trị, “Đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong Quân
đội nhân dân Việt Nam” [56]. Đề tài đã khẳng định vị trí, vai trị của vấn đề
đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một nội dung rất quan trọng
của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Quân đội góp phần nâng cao

6


ý thức pháp luật của quân nhân. Trên cơ sở phân tích và làm rõ những vấn đề

lý luận và thực tiễn của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đề tài đã đưa
ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Phạm Văn Bằng,
“Xây dựng mơi trường văn hóa pháp luật của đơn vị học viên đào tạo cán
bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay” [3]. Tác
giả đã đưa ra quan niệm văn hóa pháp luật bao gồm tổng thể giá trị nhân
đạo, tiến bộ của hệ thống quy phạm và thiết chế pháp luật được sáng tạo
trong lịch sử, các giá trị đó được thẩm thấu vào nhận thức, tình cảm, hành vi
của mỗi cá nhân trở thành thói quen và nhu cầu thường trực trong ứng xử
đúng pháp luật; Đào Duy Tấn, “Những đặc điểm quá trình hình thành ý thức
pháp luật của Việt Nam hiện nay” [52]. Tác giả đã phân tích sâu sắc đặc
điểm, cơ sở lý luận, những vấn đề đặt ra của quá trình hình thành ý thức
pháp luật. Đồng thời đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao ý thức pháp luật của Việt Nam hiện nay; Đào Trí Úc, “Xây
dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật” [61]. Trên cơ sở làm rõ
những vấn đề về lý luận, thực tiễn của việc xây dựng ý thức pháp luật và lối
sống theo pháp luật của nhân dân ta trong những năm đầu của thời kỳ đổi
mới, tác giả đã đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng ý thức pháp
luật và lối sống theo pháp luật ở nước ta hiện nay; Vũ Văn Thường, “Bồi
dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường
Quân đội hiện nay” [54]. Tác giả đã phân tích những đặc điểm cơ bản của
học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội; làm rõ những vấn đề về
lý luận, thực tiễn, xác định những nguyên tắc cơ bản và đề xuất những giải
pháp cơ bản bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên đào tạo sĩ quan ở các
nhà trường Quân đội. Trong đó, tác giả đã quan niệm và chỉ ra cấu trúc của
văn hóa pháp luật của học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội
bao gồm: ý thức, hành vi chấp hành pháp luật của học viên trong hoạt động
học tập, rèn luyện, phấn đấu theo mơ hình, mục tiêu đào tạo; Nguyễn Việt
Hường, “Phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
hiện nay” [35]. Tác giả đã làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật

7


phát triển ý thức pháp luật; đánh giá thực trạng phát triển ý thức pháp luật;
đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển ý thức pháp luật của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Các cơng trình trên đã đánh giá một cách khách quan, cụ thể, tỉ mỉ nhiều
vấn đề khác nhau, trong đó có kết quả hoạt động giáo dục, đào tạo, rèn luyện
nâng cao ý thức pháp luật, năng lực hoạt động của các chủ thể. Chỉ ra những mặt
mạnh, mặt hạn chế, các nguyên nhân, nhân tố tác động, dự báo xu hướng vận
động của các mối quan hệ theo từng vấn đề, đề ra một số giải pháp cơ bản để
khắc phục những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ huy và tổ chức quản lý
điều hành. Tồn bộ những cơng trình trên đã luận giải một cách khoa học vấn đề
thực tiễn, năng lực, nâng cao năng lực, nâng cao ý thức pháp luật theo các góc
độ khác nhau liên quan tới đề tài. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào bàn về “Nâng
cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay” Chính vì
vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề này làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ bản nâng
cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực chất và những nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng
lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng, xác định yêu cầu nâng cao năng lực
thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực thực thi pháp luật
của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Bản chất và những nhân tố quy định nâng cao năng lực thực thi pháp luật
của Cảnh sát biển Việt Nam.
8


* Phạm vi nghiên cứu
Là cán bộ, chiến sĩ lực lượng trực tiếp bảo vệ chủ quyền, quyền chủ
quyền thực thi tài phán trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa Việt Nam.
Thời gian khảo sát từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính
trị, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển về nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa vào các báo cáo tổng kết của đơn vị, kết quả điều tra, khảo sát của
tác giả về thực tế nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; phương pháp nhận thức khoa học chung như: phân tích và tổng
hợp; quy nạp và diễn dịch; lơgíc và lịch sử và phương pháp chuyên gia,... kết
hợp với một số phương pháp của xã hội học.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt
Nam; cung cấp những cơ sở khoa học cho các lực lượng thực thi pháp luật
trên biển nói chung; có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy ở các nhà trường quân đội.
- Luận văn có thể sử dụng vào quá trình nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt

động thực thi pháp luật trong các đơn vị Cảnh sát biển, đáp ứng yêu cầu xây dựng
Quân đội trong giai đoạn mới.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
9


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN QUY ĐỊNH NÂNG CAO
NĂNG LỰC THỰC THI PHÁP LUẬT CỦA CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM

1.1. Thực chất nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát
biển Việt Nam
1.1.1. Quan niệm năng lực, năng lực thực thi pháp luật và năng lực
thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam
* Quan niệm năng lực
Phạm trù năng lực hiện có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển
Tiếng việt, năng lực được hiểu là: “1. Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. 2. Phẩm chất tâm lý và sinh
lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất
lượng cao” [60, tr.565]. Theo Từ điển Giáo dục học, năng lực là: “Khả năng
được hình thành hoặc phát triển, cho phép một con người đạt thành cơng
trong một hoạt động thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp” [59, tr.278]. Dưới góc
độ triết học, năng lực là tổng hợp những phẩm chất cần thiết của cá nhân đáp
ứng với yêu cầu của hành động nhất định, đảm bảo cho hành động ấy nhanh
chóng, thành thạo và đạt hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Năng lực
của người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do cơng
tác, do tập luyện mà có” [42, tr.280]. Có thể nói rằng, năng lực không phải là
tư chất bẩm sinh thuần túy vốn có của con người, tự động bảo đảm cho con

người đạt kết quả trong hoạt động nào đó mà năng lực là kết quả của sự phối
hợp những tư chất bẩm sinh với sự rèn luyện, tu dưỡng học tập thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Năng lực hình thành và phát triển trong
hoạt động thực tiễn của con người, nó là kết quả của q trình giáo dục, tự giáo
dục, tự phấn đấu và rèn luyện của cá nhân. Tư chất bẩm sinh chỉ là tiền đề của
năng lực, là những đặc điểm tâm sinh lý bẩm sinh, trong đó có các đặc điểm của

10


hệ thần kinh, bộ não, cấu tạo gen,... của con người. Những tư chất này cần phải
được chú ý, tạo điều kiện để phát triển và chỉ có thơng qua rèn luyện trong thực
tiễn mới tạo nên một sức mạnh thực sự hữu hiệu của con người. Từ sự tiếp cận
khác nhau ở trên, có thể hiểu: Năng lực là tổng thể những thuộc tính hợp
thành khả năng nhận thức và khả năng hoạt động của con người trên các
nhiệm vụ xác định đạt hiệu quả cao.
Theo đó, năng lực của con người bao gồm cả khả năng nhận thức và
khả năng hành động để cải biến hiện thực, nó vừa dưới dạng tiềm năng, tiềm
tàng, vừa được bộc lộ qua những hành động trên thực tế. Năng lực bao giờ
cũng là của một chủ thể xác định, một cộng đồng, một tổ chức hay một con
người trong việc tác động có hiệu quả cải tạo mọi đối tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy. Năng lực còn được phân thành các cấp độ (cao, thấp) khác nhau
như: năng lực thông thường, tài năng và thiên tài. Năng lực thông thường biểu
hiện phổ biến ở mỗi người trong lao động, nhưng tài năng lại biểu hiện vượt
trội ở một người. Cho nên, nói đến hạn chế hoặc kém về năng lực là biểu hiện
của người kém hoặc khơng hồn thành được công việc phụ trách. Để hành
động cải tạo thế giới và cải tạo bản thân, con người phải nhận thức, muốn nhận
thức được phải có năng lực. Theo C.Mác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” [39, tr.12].
Như vậy, năng lực là tổng hòa các yếu tố vật chất và tinh thần tạo cho

con người (cộng đồng, cá nhân) khả năng nhận thức và hành động trong cải
biến hoàn cảnh sống (tự nhiên và xã hội) của mình. Vì năng lực vừa có yếu
tố thuộc về cái vốn có, bẩm sinh, tiềm ẩn bên trong chủ thể, vừa là sản phẩm
của quá trình nghiên cứu, học tập, rèn luyện tích cực, phấn đấu khơng mệt
mỏi trong q trình hoạt động thực tiễn của từng chủ thể, giúp cho chủ thể
đạt kết quả cao ở từng lĩnh vực nhất định. Do tính phong phú mn vẻ của
năng lực, nên mỗi con người ngồi năng lực chung cịn có các năng lực riêng
như: Năng lực giảng dạy; năng lực nghiên cứu khoa học; năng lực hoạt động
11


nghệ thuật; năng lực chỉ huy; năng lực thực thi pháp luật,... Mỗi năng lực có
những yêu cầu khác nhau về các yếu tố chủ quan của chủ thể. Bởi vậy, để thúc
đẩy năng lực của con người phát triển, phải thúc đẩy các yếu tố cấu thành trong
từng loại năng lực cụ thể ấy. Ở đây, vấn đề cần bàn là năng lực thực thi pháp
luật. Vì vây, muốn hiểu được năng lực thực thi pháp luật, nhất thiết phải hiểu
các yếu tố cấu thành nó.
* Quan niệm năng lực thực thi pháp luật
Năng lực và năng lực thực thi pháp luật khơng hồn tồn đồng nhất mà
nó có sự thống nhất trong khác biệt. Năng lực của con người là phạm trù có
phạm vi rộng bao hàm mọi hoạt động, song năng lực thực thi pháp luật chỉ là
biểu hiện của năng lực hoạt động cụ thể, trực tiếp tác động vào hiện thực.
Năng lực hoạt động thực thi pháp luật gắn với chủ thể hoạt động trong không
gian và thời gian xác định. Năng lực hoạt động thực thi pháp luật tồn tại và
phát triển ở các thành viên với tính cách là chủ thể tham gia vào hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên, lại có sự khác nhau về trình độ do các yếu tố khách quan
và chủ quan chi phối. Do đó, có thể quan niệm: Năng lực thực thi pháp
luật là tổng thể những yếu tố hợp thành khả năng hoạt động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể tạo nên thành quả trực tiếp trên thực tế, hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Từ quan niệm trên cho thấy, năng lực thực thi pháp luật chính là sự hiểu
biết của chủ thể trong xác định mục đích hoạt động; tổ chức sử dụng lực
lượng, công cụ, phương tiện để thực hiện nhiệm vụ xác định. Do vậy, năng
lực thực thi pháp luật được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, năng lực thực thi pháp luật được thể hiện ở khả năng quán
triệt, nắm bắt tình hình nhiệm vụ cấp trên của chủ thể. Bởi vì, năng lực thực
thi pháp luật có quan hệ hữu cơ với năng lực nhận thức, để có năng lực thực
thi pháp luật, nhất thiết chủ thể phải có năng lực nhận thức chỉ đạo. Tác giả
không bàn về năng lực nhận thức, nhưng đây là nhân tố bên trong của năng
12


lực thực thi pháp luật, hoặc xét ở một mặt nào đó, đây là hai năng lực cơ bản
quan hệ hữu cơ với nhau trong một chủ thể xác định. Nói cách khác, đây là
nội dung được xác định như thành tố “gián tiếp” của năng lực thực thi pháp
luật; là một trong những chuẩn mực đánh giá chất lượng, hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ; là thước đo trình độ, năng lực thực thi pháp luật của chủ thể. Hơn
nữa, các hoạt động thực tiễn thường xuyên có sự thay đổi cùng với sự thay
đổi của thực tiễn xã hội, việc nắm bắt, xử lý tình huống cũng như quán triệt và
nhận thức đúng đắn về thực tiễn là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong
năng lực thực thi pháp luật. Việc thực hiện các hoạt động trên thực tế được thể
hiện tập trung ở ý thức, quan điểm, lập trường chính trị tiến bộ, giải phóng
mọi tiềm năng sáng tạo, hướng tới hành động của con người ngày càng hồn
thiện hơn, vì con người và vì xã hội.
Thứ hai, năng lực thực thi pháp luật được thể hiện qua khả năng khơi
dậy, huy động, tổ chức sử dụng lực lượng, công cụ, phương tiện trong cải tạo
hiện thực. Khi đặt vấn đề năng lực thực thi pháp luật, điều rất căn bản đó là
chất lượng, hiệu quả, sử dụng lực lượng, công cụ, phương tiện nhằm đạt hiệu
quả cao trong công việc. Như vậy, năng lực thực thi pháp luật được thể hiện
thông qua khả năng sử dụng công cụ phương tiện, tổ chức các lực lượng tham gia

vào các hoạt động, nhiệm vụ có hiệu quả trên thực tế. Đây là nội dung thiết thực,
đóng vai trị quan trọng trong nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Bởi vì, thực
tiễn ln vận động phát triển khơng ngừng, q trình đó sẽ có nhiều vấn đề nảy
sinh cần được giải quyết để phù hợp với tiến bộ xã hội, nếu chủ thể không kịp thời
phát hiện và giải quyết tốt, chất lượng và hiệu quả sẽ không cao trong hoạt động.
Do đó, việc phát hiện vấn đề trên thực tế là công việc thường xuyên và cấp thiết
đối với chủ thể, đòi hỏi chủ thể phải nghiên cứu đặc điểm của đối tượng tiếp nhận
dữ liệu, sự kiện phục vụ cho hoạt động có hiệu quả.

13


Thứ ba, năng lực thực thi pháp luật được thể hiện qua khả năng phát
hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong hoạt động thực tiễn. Phát hiện
và giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn là nội dung quan trọng quyết
định đến kết quả của năng lực thực thi pháp luật; là sự thể hiện mục đích của
chủ thể trong nhận thức; là sự vận dụng những kinh nghiệm khoa học được rút
ra từ thực tiễn để chống những biểu hiện giáo điều, chủ quan, duy ý chí trong
hành động. Cho nên, trong hoạt động thực tiễn nếu con người thông qua nhận
thức và vận dụng những kinh nghiệm khoa học thì sẽ chỉ đạo, cải tạo biến đổi
hiện thực theo nhu cầu của mình. Bởi vì, ý thức của con người chỉ là “ý thức
thuần t”, nếu khơng gây được tác động gì đối với thế giới bên ngoài mọi hoạt
động của con người chỉ là sự phản ánh và thực hiện những nhu cầu đã chín
muồi của đời sống xã hội, những nhiệm vụ mà con người phải giải quyết đều
do lịch sử đặt ra; điều kiện khách quan quy định nội dung, biện pháp thực hiện
nhiệm vụ của con người; phẩm chất, năng lực cũng như sức mạnh của chủ thể
chính là sản phẩm của sự vận động khách quan của lịch sử, là quá trình chủ thể
phát hiện và hành động theo những quan hệ tất yếu khách quan.
* Quan niệm năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam
Chức năng của Cảnh sát biển Việt Nam được xác định trong Điều 1

Pháp lệnh Cảnh sát biển Việt Nam ngày 28 tháng 3 năm 2008: “Cảnh sát
biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý về an ninh, trật tự an toàn và bảo đảm việc chấp hành
pháp luật của Việt Nam và các Điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia trên các vùng biển
và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo
đó, Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện hai chức năng đặc biệt đó là: Quản
lý nhà nước về an ninh, trật tự an toàn trên biển và bảo đảm việc chấp
hành pháp luật Việt Nam, những điều ước quốc tế có liên quan mà Việt
Nam (là thành viên) đã ký kết hoặc tham gia trên các vùng biển và thềm
lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
14


Nhiệm vụ của Cảnh sát biển Việt Nam là kiểm tra, kiểm sốt, bảo vệ tài
ngun, mơi trường; phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi buôn
lậu, vận chuyển trái phép và mua bán người, vận chuyển, mua bán trái phép
hàng hố, vũ khí, chất nổ, chất ma tuý và các hành vi vi phạm pháp luật khác;
thu thập, xử lý thông tin về an ninh chủ quyền biển, đảo Việt Nam; hợp tác
quốc tế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; tham gia
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân hoạt động trên biển;
tham gia tìm kiếm cứu nạn, khắc phục các sự cố trên biển; phối hợp với các
lực lượng, các cơ quan chức năng có liên quan để bảo vệ tài sản của Nhà
nước, tính mạng, tài sản của người và phương tiện hoạt động hợp pháp trên
các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam; quản lý chặt chẽ về an ninh, trật
tự an toàn và bảo đảm việc chấp pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế có
liên quan trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Với chức năng,
nhiệm vụ trên có thể quan niệm: Năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát
biển Việt Nam là tổng hòa những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, ý chí của mỗi
cá nhân thường xuyên được huy động vào thực hiện nhiệm vụ, giúp họ tìm

ra những nội dung, biện pháp thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, cũng như mọi năng lực khác, năng lực thực thi pháp luật nói
chung và năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng
khơng phải là một yếu tố đơn nhất, hay sự cộng lại giản đơn của các yếu tố
chủ quan, mà là sự thống nhất hữu cơ của các yếu tố. Các yếu tố đó ln tác
động biện chứng, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, chúng có vai trị, vị trí
khác nhau. Theo đó, năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam
bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
Một là, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của Cảnh sát biển. Đây là yếu
tố cơ bản và chủ đạo, phản ánh trình độ của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt
Nam. Nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của Cảnh sát biển thể hiển ở: sự nhận
thức, tự giác, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng,
15


của dân tộc; trung thành vô hạn với Đảng Cộng sản Việt Nam, với Tổ quốc, với
nhân dân; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ở
lòng tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường xã hội chủ nghĩa; ở ý
chí quyết tâm chiến đấu cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân dân; tích cực đấu tranh bảo vệ
Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực tư tưởng lý luận và hoạt động
thực tiễn; ở sự vững vàng của từng cá nhân và của cả lực lượng Cảnh sát biển
trước những tác động tiêu cực của tình hình, trước những khó khăn, thử thách,
khơng dao động, mất phương hướng, ln yên tâm gắn bó với quê hương, đất
nước, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh; không
để bệnh cá nhân, thực dụng chi phối; luôn suy nghĩ và hành động vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân dân, vì sự nghiệp bảo
vệ tồn vẹn chủ quyền an ninh, an toàn biển, đảo của Tổ quốc.
Nhận thức về chức năng, nhiệm vụ giữ vai trò định hướng và điều
chỉnh hành vi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển theo các chuẩn

mực chính trị, đạo đức cách mạng, giúp cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển ln
vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, khơng giao động, chệch hướng về
lập trường, quan điểm, không giảm sút niềm tin và ý chí. Nhận thức về chức
năng, nhiệm vụ là hạt nhân để phát huy các phẩm chất khác hướng vào hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Hai là, sự năng động, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ. Sự năng
động, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ là yếu tố đảm bảo cho việc hoàn
thành nhiệm vụ thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam đạt kết quả
cao. Sự năng động, linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ của Cảnh sát biển Việt
Nam thể hiện ở trình độ sử dụng và vận dụng pháp luật trong thực hiện nhiệm
vụ, là khả năng nhận rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù; khả năng xử lý
đúng đắn, kịp thời các tình huống vi phạm chủ quyền biển, đảo và khả năng

16


tham gia có chất lượng, hiệu quả các hoạt động trên biển. Nếu khơng có sự
năng động, linh hoạt trong thực tiễn thì cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt
Nam không thể biến nhận thức về pháp luật, niềm tin và ý chí, quyết tâm
thành hiện thực. Với ý nghĩa ấy, sự năng động, linh hoạt là một yếu tố cấu
thành năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam.
Ba là, ý chí, bản lĩnh trong thực hiện nhiệm vụ. Ý chí bản lĩnh là một
trong những phẩm chất quan trọng của Cảnh sát biển Việt Nam. Ý chí bản lĩnh
nói nên lịng quyết tâm vượt qua mọi khó khăn trở ngại; giúp cán bộ, chiến sĩ
xác định động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn, trong sáng, thơi thúc họ tích cực
tìm tịi sáng tạo, tích luỹ kinh nghiệm, cập nhật thơng tin, ln ln suy nghĩ mài
sắc năng lực tư duy, bảo vệ chân lý, lịng say mê hứng thú với nghề nghiệp. “Có
chí làm thì quyết tìm được việc làm và quyết làm được việc” [41, tr.186]. Đó cũng
là cơ sở, nền tảng để hình thành và củng cố nâng cao năng lực thực thi pháp
luật của Cảnh sát biển Việt Nam. Nếu ý chí, bản lĩnh thiếu vững vàng, sẽ dễ

nản chí khi gặp khó khăn, đưa đến trạng thái thụ động, sức ỳ lớn gặp việc dễ thì
làm, gặp khó khăn thì lảng tránh.
Các yếu tố trên có mối quan hệ, tác động qua lại, tạo nên năng lực thực
thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam. Song mỗi yếu tố có vai trị khơng
ngang bằng nhau. Trong đó nhận thức về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ là
yếu tố giữ vai trò quyết định, chi phối đến sự phát triển của các yếu tố khác; ý
chí, cảm xúc, tình cảm được xem như là động cơ thúc đẩy sự phát triển của các
yếu tố; tư chất cá nhân là nền tảng vật chất. Vì vậy, nâng cao năng lực thực thi
pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam không xem nhẹ hoặc bỏ qua yếu tố nào,
tuy nhiên, phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào yếu tố giữ vai trị quyết
định. Từ sự phân tích trên cho thấy sự cần thiết phải nâng cao năng lực thực thi
pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam, góp phần giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định và phát triển đất nước.

17


1.1.2. Quan niệm nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh
sát biển Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng việt: “Nâng cao là làm cho cao hơn trước, đưa lên
mức cao hơn, nâng cao là làm cao, làm ở mức tốt hơn” [60, tr.320]. Thực tế
nâng cao là toàn bộ những hoạt động tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo
của chủ thể, nhằm tác động đến khách thể phát triển theo mục đích, u cầu
cơng việc đặt ra. Do đó, nâng cao chính là việc chuyển từ trạng thái chất lượng
này sang trạng thái chất lượng khác cao hơn, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu phát
triển của sự vật, hiện tượng; hay nâng cao là sự huy động cao khả năng, làm tăng
thêm hiệu quả, giúp con người nhận thức và hoạt động tốt hơn.
Từ góc độ tiếp cận trên, có thể quan niệm: Nâng cao năng lực thực thi
pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam là xây dựng tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo, khôn khéo trong xử lý các tình huống; xây dựng bản lĩnh, ý chí, niềm tin

cho cán bộ, chiến sĩ trong thực thi pháp luật trên biển và đề cao ý chí, quyết
tâm sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ chủ quyền thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc.
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam là
q trình tăng cường, bổ sung, hồn thiện theo hướng phát triển các yếu tố,
các mối quan hệ cấu thành năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt
Nam. Vì vậy, quá trình nâng cao này cần phải nâng cao toàn diện các yếu tố,
các mối quan hệ cấu thành năng lực thực thi pháp luật của họ như: phẩm chất
và năng lực; trí tuệ và thể lực; chức trách và nhiệm vụ; ý chí và bản lĩnh; ý
thức và trách nhiệm. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trị riêng nhưng giữa chúng có
mối quan hệ ràng buộc tác động ảnh hưởng lẫn nhau trong một chỉnh thể
thống nhất. Nên trong quá trình nâng cao cần phải tuân thủ theo các nguyên
tắc, không đề cao hoặc coi nhẹ một yếu tố nào, khơng bỏ sót mối quan hệ nào,
phải xác định đúng các yếu tố, mối quan hệ căn bản, bản chất, cốt lõi, khi

18


nâng phải nhịp nhàng, đồng bộ, cân đối, thống nhất thì mới tạo nhanh được sự
chuyển biến trên thực tế, tránh được những sai lầm trên thực địa.
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam thực
chất là q trình tích lũy dần dần về lượng dẫn đến sự chuyển hóa về chất; là
q trình cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển tích lũy dần dần và không ngừng nâng
cao sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người; tích lũy những kinh nghiệm
thực tế bổ sung vào kho tàng kinh nghiệm hiện có làm cho tri thức và kinh
nghiệm ngày càng phong phú hơn, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới.
Cùng với sự hiểu biết, bản lĩnh, ý chí của lực lượng thực thi pháp luật
ngày càng được củng cố vững chắc. Để có được sự vững vàng về bản lĩnh,
sự kiên định về ý chí, lập trường, địi hỏi lực lượng thực thi pháp luật phải
được tôi luyện, thử thách trong thực tiễn cơng tác, trải qua q trình học tập,

tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu không mệt mỏi. Biểu hiện của nó là sự thấm
nhuần đường lối quan điểm của Đảng, nhiệm vụ cách mạng, mục tiêu lý
tưởng chiến đấu của quân đội; ở tinh thần không quản ngại khó khăn, sẵn
sàng nhận và hồn thành bất cứ nhiệm vụ gì khi tổ chức giao phó.
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam là quá
trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lỗi thời, lạc hậu,
bảo thủ, trì trệ trong đơn vị và trong chính bản thân họ. Mọi sự vật, hiện tượng
đều là tất yếu trong điều kiện hồn cảnh đã sinh ra nó. Khi điều kiện hồn cảnh
đã thay đổi căn bản thì sự vật, hiện tượng cũng sẽ trở nên lỗi thời, lạc hậu, đồng
thời tất yếu sẽ nảy sinh những sự vật, hiện tượng mới. Do vậy, cái mới, cái cũ,
cái tiến bộ, cái lỗi thời, lạc hậu, trì trệ ln tồn tại đan xen và đấu tranh với nhau
trong quá trình nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam
là tất yếu khách quan. Vì thế, cùng với tạo lập, xây dựng môi trường khách quan
thuận lợi cho q trình này, cịn phải đấu tranh khắc phục những biểu hiện nhận
thức chưa đầy đủ về vai trị, vị trí của lực lượng thực thi pháp luật.

19


Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam là
quá trình phủ định của phủ định quanh co phức tạp. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy biện chứng, phát triển không chỉ là tăng lên hay giảm đi đơn thuần
về lượng, mà là quá trình mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới, là sự phủ
định của cái mới, cái tiến bộ đối với cái cũ, cái lỗi thời, lạc hậu. Lực lựơng
thực thi pháp luật đã được đào tạo cơ bản ở các nhà trường quân đội (sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp); được tuyển chọn, bồi dưỡng, tập huấn (hạ sỹ
quan, chiến sĩ) nâng cao trình độ chun mơn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nhưng thực tiễn luôn vận động, nên trong họ ít nhiều kiến thức, kinh nghiệm
đã và đang lỗi thời, lạc hậu cần loại bỏ để hình thành những tri thức, kinh
nghiệm mới tiến bộ hơn. Nhờ q trình phủ định đó mà các yếu tố cấu thành

năng lực thực thi pháp luật ngày càng được nâng cao.
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam là
sản phẩm thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Hàm
lượng tri thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn mà lực lượng thực thi pháp
luật tiếp nhận được không chỉ do tác động của các điều kiện khách quan, mà
còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan như: trình độ tri thức, động cơ, thái độ,
trách nhiệm, lòng say mê yêu mến nghề nghiệp. Nâng cao năng lực thực thi
pháp luật phải có sự tác động tổng hợp của cả điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan. Do vậy, nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển
Việt Nam cần quan tâm đến cả hai mặt, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa mặt
nào; vừa tích cực tạo lập điều kiện mơi trường thuận lợi, vừa phải có biện pháp
tích cực phát huy nỗ lực chủ quan của họ. Từ những phân tích trên, nâng cao
năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam tập trung vào các
nội dung sau:
Thứ nhất, nâng cao trình độ tri thức khoa học. Tri thức khoa học là yếu tố
cơ bản quyết định đến năng lực thực thi pháp luật, nó chi phối các yếu tố khác,
các yếu tố khác dựa trên nền của tri thức để phát triển. Trình độ tri thức càng cao
20


thì càng có khả năng tái tạo và sáng tạo. Tri thức của nhân loại là vô cùng tận,
song nhận thức của con người trong từng thời điểm là có hạn. Do vậy, phải
thường xuyên học tập để nâng cao tri thức, chiếm lĩnh tri thức nhân loại. Nâng
cao trình độ tri thức khoa học là nâng cao sự hiểu biết sâu hơn, rộng hơn về tự
nhiên, xã hội và con người. Với lực lượng thực thi pháp luật của Cảnh sát biển
Việt Nam, nâng cao tri thức đó là nâng cao sự hiểu biết và khả năng vận dụng lý
luận vào thực tiễn, khả năng nắm và vận dụng giải quyết những vấn đề, những
tình huống phức tạp có thể xảy ra trong thực thi nhiệm vụ.
Hai là, củng cố nâng cao ý chí và bản lĩnh chính trị. Nếu có tri thức
khoa học, nhưng ý chí, bản lĩnh chính trị khơng vững vàng thì tri thức khoa học

khơng thể phát huy tác dụng. Ý chí và bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ thơi thúc
cán bộ, chiến sĩ tìm tịi sáng tạo nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các
nhiệm vụ. Củng cố ý chí và bản lĩnh cho lực lượng thực thi pháp luật là xây
dựng thái độ, động cơ, trách nhiệm đối với đơn vị, với chức trách, nhiệm vụ
được giao; lòng tin vào sự nghiệp cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, xây
dựng ý chí quyết tâm vượt mọi khó khăn, vượt qua chính mình trong mọi lúc,
mọi nơi, mọi điều kiện, hồn cảnh, nhất là những lúc khó khăn gian khổ, xây
dựng lòng tin, sự hứng thú say mê nghề nghiệp.
Ba là, thường xuyên đổi mới phương pháp tư duy khoa học. Phương
pháp tư duy khoa học có vai trị quan trọng đối với nhận thức, người khơng có
tư duy khoa học thì khó có kết quả tư duy đúng và khơng thể có năng lực tư
duy sáng tạo. Người có năng lực tư duy sáng tạo tốt, trước hết phải có phương
pháp tư duy khoa học, tiên tiến, và luôn được đổi mới. Đổi mới phương pháp tư
duy khoa học là từng bước khắc phục phương pháp tư duy chủ quan, phiến
diện, siêu hình, khơng ngừng phát triển phương pháp tư duy biện chứng duy
vật, củng cố cách nhìn khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Bốn là, quan tâm phát huy tư chất cá nhân. Phát huy tư chất cá nhân là
khơi dậy, phát triển ưu thế và khắc phục những hạn chế khuyết tật trong phẩm
21


chất tâm sinh lý của họ. Chúng ta không tuyệt đối vai trị của tư chất cá nhân
song cũng khơng thể xem nhẹ nó. Tư chất cá nhân cùng các phẩm chất khác
làm cho năng lực thực thi pháp luật ngày càng được phát triển vững chắc hơn.
Phát huy tư chất cá nhân trước hết là tạo ra động lực để kích thích sự say mê,
sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ; tạo lập điều kiện, môi trường thuận lợi, thường
xuyên đặt ra yêu cầu cao trong thực hiện nhiệm vụ.
Năm là, nâng cao phẩm chất năng lực. Phẩm chất năng lực được nâng cao sẽ
tạo cho con người khả năng sáng tạo và quyết đoán, những khả năng ấy lại liên
quan trực tiếp tới tính tự chủ, khả năng làm chủ bản thân, dũng khí đấu tranh vì

lẽ phải, vì đạo lý, khơng sợ hy sinh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
khắc phục được tính rụt rè, nhút nhát, ngại khó khăn gian khổ; xác định đúng
mục đích, động cơ, xu hướng và thái độ chính trị.
1.2. Những nhân tố cơ bản quy định nâng cao năng lực thực thi pháp
luật của Cảnh sát biển Việt Nam
1.2.1. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt
Nam phụ thuộc vào chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng
Giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nói chung, lực lượng thực thi
pháp luật nói riêng được thực hiện chủ yếu ở các học viện, nhà trường trong
và ngoài quân đội. Hoạt động giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng bao gồm cả hai
quá trình đó là huấn luyện và giáo dục, hai q trình này tuy có khác nhau về
nội dung và hình thức, nhưng chúng lại thống nhất với nhau ở mục đích,
nhằm hình thành ở đối tượng đào tạo những phẩm chất và năng lực cần thiết
cho việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của họ trong thực tiễn công tác sau
này. Giáo dục, đào tạo lực lượng thực thi pháp luật là quá trình truyền thụ
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo; phát triển trí tuệ và rèn luyện nhân cách; tạo điều
kiện rất cơ bản ban đầu về học vấn và phẩm chất nghề nghiệp giúp họ hoàn
thành nhiệm vụ trên cương vị chức trách được giao.

22


Bồi dưỡng lực lượng thực thi pháp luật là quá trình nhằm củng cố, bổ
sung, nâng cao cho họ trình độ chuyên môn nghề nghiệp và năng lực thực tiễn.
Hoạt động này được diễn ra thường xuyên ở đơn vị, kết hợp với các lớp bồi
dưỡng ngắn ngày. Bồi dưỡng năng lực thực thi pháp luật thường được tiến
hành thông qua các đợt tập huấn, các hội nghị tổng kết hay nghiên cứu chuyên
đề, các hoạt động bồi dưỡng thường xuyên của cán bộ cấp trên đối với cấp
dưới ngay trong công tác và học tập hàng ngày tại đơn vị.
Giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng, tự học tập, tự bồi dưỡng của lực lượng

thực thi pháp luật có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Mặt nọ vừa đòi hỏi,
vừa là điều kiện để mặt kia diễn ra một cách có hiệu quả. Tuy nhiên trong giáo
dục, đào tạo và bồi dưỡng hiện nay thì giáo dục, đào tạo là khâu khởi điểm,
điểm xuất phát ban đầu, là cơ sở, nền tảng; bồi dưỡng là khâu tiếp theo của
giáo dục, đào tạo làm cho kết quả giáo dục, đào tạo của lực lượng thực thi pháp
luật ngày càng được củng cố vững chắc và phát triển phù hợp với sự vận động,
phát triển của thực tiễn khách quan.
Như vậy, chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng lực lượng thực thi pháp
luật luôn là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến nâng cao năng lực thực thi
pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam. Sự tác động đó diễn ra trên tất cả các yếu tố
cấu thành năng lực thực thi pháp luật, biểu hiện cụ thể của sự tác động đó là:
Thứ nhất, chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng trực tiếp tác động đến
nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam.
Giáo dục, đào tạo ở nhà trường là con đường nhanh nhất, ngắn nhất và
tập trung nhất để tạo ra hệ thống tri thức và năng lực thực thi pháp luật cho
người học. Xét đến cùng và lâu dài, hoạt động thực tiễn ở đơn vị sẽ quyết định
đến việc nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Nhưng chất lượng giáo dục, đào
tạo ở nhà trường có tác dụng chủ yếu và trực tiếp để tự giác hóa năng lực thực
thi pháp luật lên trình độ cao hơn.

23


Ở nhà trường người học được trang bị hệ thống kiến thức cơ bản, cơ sở
và chuyên ngành tương đối toàn diện cả về tri thức lý luận, tri thức chun mơn
nghiệp vụ. Qúa trình giáo dục, đào tạo đã đưa lại cho người học trình độ học
vấn và phương pháp tư duy lơgíc. Chẳng hạn, thơng qua hệ thống khái niệm,
phạm trù, quy luật, nguyên lý làm cho người học nắm được bản chất, các quan
hệ của các sự vật, hiện tượng, nhất là trong hoạt động thực tiễn, từ đó giúp họ
nắm được xu hướng vận động, phát triển tất yếu của xã hội. Nhà trường cung

cấp cho người học phương pháp tiếp thu kiến thức, sử dụng tri thức, điều đó tạo
ra trình độ, năng lực tư duy và khả năng tự học lâu dài. Như vậy chất lượng
giáo dục, đào tạo ở nhà trường là yếu tố quyết định sự hình thành năng lực
phân tích, tổng hợp, suy luận, xét đoán của người học, là cơ sở, nền tảng quan
trọng để nâng cao năng lực thực thi pháp luật.
Thứ hai, chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng có vai trị to lớn đối
với phát triển phương pháp tư duy lơgíc và khả năng sáng tạo của lực lượng
thực thi pháp luật.
Nội dung giáo dục, đào tạo không chỉ là tri thức khoa học về tự nhiên, xã
hội, tri thức chun ngành,… mà cịn có cả tri thức về tư duy, phương pháp,
cách lĩnh hội, tiếp nhận tri thức và hình thành ở người học cách thức giải quyết
một vấn đề cụ thể. Như vậy, nhà trường cung cấp cho người học phương pháp
tư duy, tiếp thu, sử dụng tri thức tạo ra trình độ, năng lực thực thi pháp luật. Bởi
vì, trong nhà trường, điều chủ yếu không phải nhồi nhét cho người học một mớ
kiến thức hỗn loạn, tuy rằng kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho
họ phương pháp suy nghĩ, suy luận, diễn tả, nghiên cứu, học tập và phương pháp
giải quyết các vấn đề.
Thông qua nội dung giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đã đặt đối tượng
trước các tình huống cụ thể, địi hỏi họ phải vận dụng tri thức, độc lập suy nghĩ
và tìm cách giải quyết, qua đó rèn luyện và phát triển ở họ khả năng tư duy
sáng tạo trong xem xét, đánh giá, phân tích sự vật, hiện tượng để nắm vững bản
chất vấn đề và xu hướng vận động phát triển của nó, từ đó đề xuất giải pháp tối
24


ưu để giải quyết nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Chất lượng giáo dục, đào tạo và
bồi dưỡng lực lượng thực thi pháp luật thường xuyên tác động đến lòng say mê,
ham muốn tìm tịi, hoạt động sáng tạo của người học, một phẩm chất quan trọng
góp phần nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Chính nội dung giáo dục, đào
tạo; phương pháp giảng dạy; uy tín, phẩm chất của người thầy, cán bộ cấp trên là

những chuẩn mực tạo động lực bên trong thôi thúc họ khao khát vươn lên chiếm
lĩnh tri thức, thúc đẩy họ tích cực học tập, rèn luyện để khơng ngừng hồn thiện
phẩm chất năng lực của mình.
Có thể khẳng định chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng lực
lượng thực thi pháp luật có vai trị to lớn, tác động trực tiếp đến phát triển
tri thức, phương pháp tư duy, khả năng sáng tạo, tạo cảm xúc tốt đối với
nghề nghiệp; là cơ sở để nâng cao năng lực thực thi pháp của Cảnh sát biển
Việt Nam. Sự tác động của chất lượng giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng tri
thức đến nâng cao năng lực thực thi pháp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước
hết là nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo, cái quy định hàm lượng tri
thức của người học. Nội dung giáo dục, đào tạo phù hợp với đối tượng sẽ
đưa lại kết quả cao, người học sẽ được trang bị hệ thống kiến thức toàn diện
và phương pháp tư duy khoa học, là những yếu tố quan trọng trong nâng cao
năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam.
Chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên tác động trực tiếp đến chất
lượng giáo dục, đào tạo, thể hiện ở chất lượng bài giảng và phương pháp
giảng dạy. Chất lượng bài giảng là sự phản ánh hàm lượng khoa học, độ sâu
tri thức của người thầy cả lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên như thế chưa đủ mà
địi hỏi phải có sự phù hợp giữa hàm lượng tri thức giáo viên truyền thụ với
khả năng nhận thức của học viên và mục tiêu yêu cầu đào tạo. Vì vậy, sự phù
hợp ấy là khâu quan trọng để nâng cao hiệu quả tác động của chất lượng
giảng dạy đến nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Các hình thức dạy học

25


tích cực có vai trị quan trọng trong nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
không ngừng bổ sung, phát triển hệ thống tri thức và năng lực thực tiễn, hình
thành khả năng độc lập trong suy nghĩ và giải quyết các tình huống cụ thể
mang lại hiệu quả cao trong thực thi nhiệm vụ.

1.2.2. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt
Nam phụ thuộc vào vai trò nhân tố chủ quan của chủ thể
Mỗi sự vật, hiện tượng đều được cấu thành từ nhiều yếu tố, nhiều bộ
phận và chịu quy định của các yếu tố, bộ phận cấu thành đó. Năng lực thực thi
pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam được nâng cao, không chỉ phụ thuộc vào
các điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào cả nhân tố chủ quan. Nhân tố
chủ quan có vai trị to lớn trong việc hiện thực hóa sự tác động của các điều
kiện khách quan trong quá trình nâng cao năng thực thi pháp luật. Nội dung
trên đã được thực tiễn chứng minh: cùng điều kiện hồn cảnh, mơi trường cơng
tác nhưng năng lực thực thi pháp luật của mỗi chủ thể lại khác nhau.
Lực lượng trực tiếp thực thi pháp luật trên biển (làm nhiệm vụ trên
những con tàu) của Cảnh sát biển Việt Nam, tuổi đời, tuổi quân chưa cao, vốn
sống và kinh nghiệm tích lũy chưa được nhiều, hệ thống tri thức được trang bị
ở nhà trường quân đội, đơn vị là yếu tố cốt lõi, trong đó tri thức chuyên mơn
giữ vai trị chủ đạo, chi phối đối với sự phát triển các tri thức khác; là tiền đề,
cơ sở quyết định đến phát triển nhân cách; là yếu tố cốt lõi trong nhân tố chủ
quan; là sản phẩm của tư duy, đồng thời là tiền đề, điều kiện để nâng cao năng
lực thực thi pháp luật. Bởi vì, nâng cao năng lực thực thi pháp luật luôn phụ
thuộc vào q trình tích lũy tri thức, sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội và bản
thân con người.
Tri thức, là nền tảng cho việc hình thành và củng cố niềm tin vào lý
tưởng của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là cơ sở ban đầu
định hướng cho lực lượng thực thi pháp luật dám nghĩ, dám làm, dám chịu

26


×