Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ phát triển ý thức pháp luật của học viên trường trung cấp cảnh sát vũ trang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.73 KB, 122 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chính trị quốc gia

Chữ viết tắt
CTQG

Công an nhân dân

CAND

Hà Nội

HN

Nhà xuất bản

Nxb


MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN Ý

g
3

THỨC PHÁP LUẬT CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG
13


1.1.

TRUNG CẤP CẢNH SÁT VŨ TRANG
Thực chất phát triển ý thức pháp luật của học viên

13

1.2.

Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
Một số vấn đề có tính quy luật trong phát triển ý thức pháp

luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Ý

35

THỨC PHÁP LUẬT CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG
2.1.
2.2.

TRUNG CẤP CẢNH SÁT VŨ TRANG HIỆN NAY
Thực trạng phát triển ý thức pháp luật của học viên

48

Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay

48


Giải pháp cơ bản phát triển ý thức pháp luật của học

viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

68
86
88
93

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang là
một nội dung trong nhân cách của người chiến sĩ Cảnh sát Vũ trang. Ý thức
pháp luật có vai trị chỉ đạo hành động của người chiến sĩ Cảnh sát Vũ trang
trong quá trình học tập tại Nhà trường và thực thi pháp luật khi ra trường.
Phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
là một mặt, một nội dung quan trọng trong q trình hiện thực hóa mục tiêu,
u cầu đào tạo những cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát Vũ trang của Bộ Công an.
Phát triển ý thức pháp luật cho học viên là q trình chuẩn bị cơng phu, có
chủ đích của các chủ thể ở Nhà trường nhằm trang bị, củng cố, mở rộng
những tri thức, tình cảm, niềm tin để điều chỉnh hành vi về pháp luật cho
những chiến sĩ Cảnh sát Vũ trang - những người thực thi pháp luật, thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở các cơ quan, đơn vị và địa phương trong cả nước để giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội, góp phần quan trọng vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới.
Những năm qua, Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang đã quan tâm tồn
diện từ mơ hình, mục tiêu yêu cầu đào tạo, tiến hành đổi mới tồn diện và
đồng bộ nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức giáo dục ý thức pháp
luật cho học viên. Nhà trường đã đặc biệt coi trọng và yêu cầu cao về sự
thống nhất giữa nhận thức và hành động, giữa giáo dục với rèn luyện và tự rèn
luyện của học viên. Mức độ chuyển hóa từ ý thức pháp luật đến hành động
thực tế của học viên đã có sự chuyển biến rõ nét trong chấp hành Nghị quyết,
chỉ thị và điều lệnh CAND, các nội quy, quy định của Nhà trường; tâm thế
chuẩn bị hành trang về tri thức và nghiệp vụ công tác để khi ra trường là
những người thực thi pháp luật của đại đa số học viên đã có nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, ý thức pháp luật của một bộ phận học viên
3


còn đơn giản, chưa tỏ rõ “tầng sâu” của sự hiểu biết về tri thức pháp luật; sự
chuyển hóa thành ý chí, niềm tin của một bộ phận học viên chưa sâu sắc; việc
chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, Nghị quyết, chỉ thị và Điều lệnh CAND; nội quy, quy định của Nhà
trường của một bộ phận học viên chưa nghiêm; chưa thật sự thống nhất giữa ý
chí và hành động để thực hiện mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường; thậm
chí, một bộ phận học viên có biểu hiện giảm sút ý chí phấn đấu trong học tập,
rèn luyện, mức độ chuyển biến trong đào tạo chưa theo kịp sự phát triển yêu
cầu về phẩm chất cách mạng của người chiến sĩ CAND trong thời kì mới.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, vấn đề đảm bảo an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự
nghiệp đổi mới đất nước đặt ra cho lực lượng CAND những yêu cầu về nắm
vững và thực thi hiệu quả hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Vấn đề đào tạo cán bộ của lực lượng CAND đặt ra những yêu cầu

về phẩm chất, năng lực; trong đó có trang bị về kiến thức pháp luật và từng
bước hình thành ý thức pháp luật cho họ. Phát triển ý thức pháp luật cho học
viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang là một đóng góp quan trọng trong
xây dựng đội ngũ cán bộ CAND góp phần thực hiện nhiệm vụ giữ vững an
ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội của đất nước. Vì vậy, học viên lựa chọn
vấn đề “Phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp là vấn đề cấp thiết trên
cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thứ nhất, nhóm những cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về học viên
Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang.
Trong thời gian gần đây, đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu
về đối tượng học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang như: Nâng cao
chất lượng dạy học các học phần pháp luật của Trường Trung cấp Cảnh sát
4


Vũ trang, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Nhóm tác giả, năm 2013.
Nhóm tác giả phân tích vai trò của việc giảng dạy các học phần Bộ mơn Pháp
luật trong các trường Cơng an nói chung và trường Trung cấp Cảnh sát Vũ
trang nói riêng hiện nay, đã góp phần nâng cao tri thức, bồi dưỡng tình cảm, ý
chí, niềm tin pháp luật cho học viên; đề xuất những biện pháp cơ bản góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn pháp luật trong Nhà
trường.
Kỹ năng tự học của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang,
Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, tác giả Phạm Thị Tới, năm 2014. Luận văn đã
phản ánh thực trạng kỹ năng tự học tập và rèn luyện của học viên Trường
Trung cấp Cảnh sát Vũ trang. Tác giả đã chỉ ra và phân tích một số vấn đề nảy
sinh trong quá trình hình thành kỹ năng tự học của học viên. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng tự học tập và rèn luyện của học

viên trong quá trình học tập tại Nhà trường.
Xây dựng phẩm chất chính trị cho học viên tại Trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang hiện nay, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, tác giả Nguyễn Thị
Thủy, năm 2014. Tác giả đã nhấn mạnh vai trò, chỉ ra các yếu tố cấu thành
các phẩm chất chính trị của cán bộ, chiến sĩ CAND. Luận văn xác định những
vấn đề có tính quy luật của q trình hình thành, phát triển các phẩm chất
chính trị, đánh giá thực trạng từ đó đề xuất các giải pháp để xây dựng và rèn
luyện hiệu quả các phẩm chất chính trị cho học viên Trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang.
Nhìn chung, các cơng trình, đề tài đã đề cập, luận giải nhiều phạm vi,
khía cạnh khác nhau dưới góc độ chính trị - xã hội về đối tượng học viên
Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang. Các kết quả nghiên cứu đã phản ánh
khá sinh động về thực trạng của học viên nói chung. Tuy nhiên, vẫn chưa có
nghiên cứu nào tìm hiểu về khía cạnh phát triển ý thức pháp luật của học viên
Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay.

5


Thứ hai, nhóm cơng trình khoa học nghiên cứu về ý thức pháp luật và
vai trò ý thức pháp luật.
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về “Ý thức pháp
luật và vai trò ý thức pháp luật” có liên quan đến đề tài nghiên cứu của các tác
giả đã được cơng bố. Trong đó, có các cụng trỡnh tiờu biu nh: Nâng cao ý
thức pháp luật của đội ngũ cán bộ hành chính nhà nớc ở nưíc
ta hiƯn nay, Ln ¸n tiÕn sÜ Lt häc, t¸c giả Lê Đình Khiên
năm 1996. Những đặc điểm của quá trình hình thành ý
thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
tác giả Đào Duy Tấn, năm 2000. ý thức pháp luật với việc xây
dựng nỊn d©n chđ XHCN ë ViƯt Nam hiƯn nay, Ln văn thạc

sĩ Triết học, tác giả Mai Thị Minh Ngọc, năm 2003. Chính
sách pháp luật và ý thức pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nớc
và pháp luật, số 4/1993, tác giả Nguyễn Nh Phát.
Cỏc cụng nghiờn cu v bi dưỡng, nâng cao, phát triển ý thức pháp
luật của lực lượng CAND tiêu biểu gồm:
CA-1997-T33-198, đề tài cấp cơ sở; Khổng Minh Trà (1998) “Đảng
lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an tồn xã hội
trong giai đoạn cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước”, NN-1998-T32013, đề tài cấp Bộ; Tơ Lâm (1999) “Vấn đề đảm bảo an ninh quốc gia trong
hoạt động du lịch. Thực trạng và giải pháp”, A37, đề tài cấp Bộ; Nguyễn Văn
Cảnh (1998) “Vai trò nòng cốt của CAND trong sự nghiệp bảo vệ an ninh giữ
gìn trật tự an toàn xã hội phục vụ CNH-HĐH đất nước”, NN-1998-T32-013,
đề tài cấp Bộ; Phan Thị Minh Chương (1999) “Xây dựng lực lượng an ninh
trong thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”, BA-1997-A28-011, đề tài cấp
Bộ; Đàm Xuân Nhung (2001) “Nhân tố gia tăng nguy cơ “diễn biến hồ
bình” ở nước ta thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và giải pháp
6


phòng ngừa, khắc phục”, TA-2001-T38-082, đề tài cấp Bộ; Phạm Quốc Hùng
(2002) “Bảo vệ các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước trong
tình hình hiện nay. Thực trạng và giải pháp”, BA-2000-V15-043, đề tài cấp
cơ sở; Hà Văn Tuyên (2000) “Một số thủ đoạn của các cơ quan đặc biệt TH
đối với cán bộ, chiến sĩ công an thời gian qua - Giải pháp và kiến nghị”, SL1999-X18-002, đề tài cấp cơ sở; Phạm Văn Dần (2000) “Xây dựng lực lượng
CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, NL-1997-X12-019, đề tài cấp Bộ.
Các cơng trình khoa học trên chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số lĩnh vực
cụ thể về công tác nghiệp vụ, pháp luật nhằm đáp ứng tốt nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an tồn xã hội trong giai đoạn hiện nay nhưng
chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu, phát triển ý thức pháp
luật của học viên trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang.

Thứ ba, nhóm cơng trình nghiên cứu về phát triển ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thơng thường, theo nghĩa hẹp thì đó là
ý thức chấp hành những quy định pháp luật của con người. Quan niệm này
thường được xem như sự đánh giá chủ quan của một tập thể, cá nhân nào đó
về mức độ hành vi chấp hành của một đối tượng nhất định trong việc thực
hiện pháp luật theo những quy định trong văn bản pháp lý, đó là sự đánh giá
mức độ ý thức pháp luật cao hay thấp, tốt hay kém của họ. Cách quan niệm
này vơ hình chung đã đồng nhất ý thức pháp luật với một hình thức biểu hiện
cụ thể của nó. Như vậy, sẽ là q hẹp, phiến diện vì nó chưa thể hiện rõ được
vai trò, chức năng, bản chất và kết cấu của ý thức pháp luật.
Trong lý luận khoa học, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, có
tính khách quan toàn diện và khái quát cao. Tuy nhiên, do mục đích yêu cầu
và phương diện nghiên cứu khác nhau nên cho đến nay đã xuất hiện nhiều
quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật.

7


Trong tác phẩm Pháp luật, chính trị, đạo đức và ý thức pháp luật xã
hội, tác giả Diu Righin cho rằng: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã
hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [4, tr.130]. Đây là
quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa thể đầy đủ kết
cấu, nội dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật.
Còn C.Mác - Ph.Ăngghen lại tập trung nhấn mạnh cơ cấu ý thức pháp
luật như: “Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng quan điểm pháp luật
và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những
hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tơn trọng
và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật" [37, tr.233].
Nhấn mạnh yếu tố pháp lý của ý thức pháp luật, có quan niệm cho rằng:
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những học thuyết,

quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về
tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp
luật, về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp trong hành vi xử sự của con người,
trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và
của các chủ thể khác [15, tr.326].
Có thể nói, quan niệm này khá tồn diện nếu xét theo góc độ của người
làm cơng tác quản lý pháp luật. Tuy nhiên, "tính hợp pháp hay không hợp
pháp" cần phải xem xét dưới giác độ giai cấp, gắn với một thể chế nhà nước
nhất định và sự phục vụ cho giai cấp cầm quyền nào trong xã hội. Mặt khác,
quan niệm trên chỉ hàm ý áp dụng cho thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà
nước xã hội chủ nghĩa nó chưa phản ánh tồn diện kết cấu nội dung ý thức
pháp luật .
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng
hịa những quan điểm, quan niệm, tình cảm về pháp luật thể hiện thái độ của
giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo
đối với pháp luật, đối với các yêu cầu khác của pháp luật đối với quyền và
8


nghĩa vụ của công dân" [40, tr.196]. Theo quan niệm này, chỉ phản ánh nội
dung cơ bản ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa theo thể chế chính trị Xơ Viết
với sự thuần chất giai cấp, nó đề cao và nhấn mạnh yếu tố giai cấp, thực tế nó
được áp dụng theo điều kiện mơ hình xã hội chủ nghĩa Xô Viết trước khi Liên
Xô và Đông Âu tan dã. Còn trong điều kiện chế độ dân chủ nhân dân, trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại của
nhiều thành phần giai cấp và tầng lớp xã hội thì nó khó tránh khỏi một sự chủ
quan và phiến diện.
Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu ý thức pháp luật chỉ nhấn mạnh
mặt tri thức pháp luật, yếu tố hợp pháp của pháp luật như: Ý thức pháp luật là
tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành

trong xã hội, thể hiện thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật
hiện hành, pháp luật đã và pháp luật phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp
pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [4, tr.229]. Một quan
niệm khác lại tập trung ý thức pháp luật thể hiện ý thức của chủ thể pháp luật,
chẳng hạn: “Ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân
về pháp luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn
trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp
luật và tội phạm" [25, tr.19].
Mặc dù, ý thức phải gắn với chủ thể với một đối tượng nhất định, song
với quan niệm trên chưa hồn chỉnh, bởi lẽ nó chưa đề cập đến yếu tố giáo
dục, văn hóa pháp luật cũng như chức năng quản lý xã hội của Nhà nước
thông qua pháp luật. Quá nhấn mạnh khía cạnh ngăn ngừa, răn đe trong việc
thực hiện pháp luật sẽ gây tâm trạng bắt buộc và thụ động bởi sự áp đặt của
văn bản pháp luật, nó khơng thể hiện tính nhân đạo ưu việt của pháp luật xã
hội chủ nghĩa.

9


Như vậy, có thể nói do mục đích nghiên cứu của các chủ thể, ý thức
pháp luật được xem xét theo những góc độ khác nhau nên nó cũng được hiểu
một cách khác nhau. Trên bình diện khoa học triết hc, khái quát cơ
bản tính chất cơ cấu, nội dung của ý thức pháp luật, mặt
khác còn đề cập ®Õn ngn gèc, mèi liªn hƯ phỉ biÕn, tÊt
u cđa ý thức pháp luật đối với đời sống xà hội, ý thức pháp luật
là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm pháp lý thịnh
hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, đối với q trình điều chỉnh
pháp luật, sự đánh giá về tính hợp pháp hay khơng hợp pháp trong xử sự của

cá nhân, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội.
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về “phát triển ý
thức pháp luật” có liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả đã được cơng
bố. Trong đó, có các cơng trỡnh tiờu biu nh: Sự hình thành và phát
triển ý thức pháp luật của nhân dân đồng bằng sông Cửu
Long trong ®iỊu kiƯn ®ỉi míi ë ViƯt Nam hiƯn nay, Luận án
tiến sĩ Luật học, tác giả Hồ Việt Hiệp, năm 2000. Lôgíc
khách quan của quá trình hình thành và ph¸t triĨn ý thøc
ph¸p lt ë ViƯt Nam, Ln ¸n tiến sĩ Triết học, tác giả
Nguyễn Thị Thúy Vân, năm 2001. Nguyễn Xuân Trường (2006),
“Phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sÜ triết học; Nguyễn Thái Sinh (2010),
“Phát triển văn hóa chính trị của người sỹ quan biên phòng hiện nay”, luận
án tiến sÜ triết học, Nguyễn Việt Hường (2010),“Phát triển ý thức pháp
luật của học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”, luận văn thạc sÜ triết
học.

10


Các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Quân đội, Bộ Công an đã đi vào làm rõ nâng cao, rèn
luyện, bồi dưỡng, phát triển ý thức pháp luật của người cách mạng nói
chung, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong nâng cao, rèn luyện, phát triển
ý thức pháp luật nói riêng. Song, việc tiếp cận và giải quyết một cách cơ bản
có hệ thống dưới góc độ triết học vấn đề "Phát triển ý thức pháp luật của
học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay" thì chưa có cơng
trình nào đề cập tới. Với đề tài nghiên cứu đã lựa chọn, tác giả hy vọng sẽ
góp phần làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong

quá trình phát triển ý thức pháp luật nói chung và học viên Trường Trung
cấp Cảnh sát Vũ trang nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển ý
thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang; từ đó, đề
xuất giải pháp cơ bản phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Trung
cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích làm rõ thực chất phát triển ý thức pháp luật của học viên
Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang.
Làm rõ một số vấn đề có tính quy luật về phát triển ý thức pháp luật của
học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang.
Làm rõ thực trạng phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường
Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay.
Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển ý thức pháp luật của học viên
Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

11


* Đối tượng nghiên cứu: Bản chất phát triển ý thức pháp luật của học
viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang.
* Phạm vi nghiên cứu: Là những vấn đề liên quan đến quá trình giáo
dục - đào tạo, hình thành và phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường
Trung cấp Cảnh sát Vũ trang từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: Là quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề pháp
luật, ý thức pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật; các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng uỷ Cơng an Trung ương, Tổng cục Chính trị CAND, Trường Trung cấp
Cảnh sát Vũ trang về giáo dục - đào tạo, xây dựng, rèn luyện kỷ luật CAND
và một số tài liệu liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận văn: là thực trạng ý thức pháp luật và phát triển
ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang; các báo
cáo tổng kết của Nhà trường về thực trạng phát triển ý thức pháp luật của học
viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn vận dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: lơgíc và lịch sử, phân tích
và tổng hợp; hệ thống - cấu trúc; thống kê, so sánh; phương pháp chuyên gia
và nghiên cứu điều tra, khảo sát thực tế tại trường Trung cấp Cảnh sát Vũ
trang để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục pháp luật, phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp
Cảnh sát Vũ trang hiện nay.

12


Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập bộ môn Giáo dục chính trị, Nhà nước và pháp luật, điều
lệnh kỷ luật ở trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang nói riêng và các trường
CAND và những độc giả quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết); kết luận, kiến nghị, danh mục các cơng
trình khoa học đã cơng bố, tài liệu tham khảo và phụ lục.

13



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN Ý THỨC PHÁP LUẬT
CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG TRUNG CẤP CẢNH SÁT VŨ TRANG
1.1. Thực chất phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường
Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
1.1.1. Quan niệm về ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp
Cảnh sát Vũ trang
Học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang được tuyển chọn vào
trường gồm nhiều đối tượng khác nhau gồm: học viên là đối tượng xét nguyện
vọng 2 từ các đối tượng thi vào các Học viện, trường Đại học CAND, cơng
dân phục vụ có thời hạn trong lực lượng CAND, cán bộ cử đi học. Đây là đối
tượng cơ bản đồng nhất về ý thức, phẩm chất chính trị nhưng lại khác nhau về
trình độ nhận thức, chuyên môn; đặc biệt là sự chênh lệch về độ tuổi của học
viên trong cùng một khóa học. Đa phần học viên là nam giới, số lượng học
viên là cán bộ được cử đi học và số cơng dân phục vụ có thời hạn chiếm phần
lớn hơn so với học viên là học viên phổ thông. Số học viên này đã trải qua
q trình cơng tác nhất định tại các đơn vị địa phương, mặc dù có ưu thế là có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn nhưng thường có tâm lý ngại học các mơn cơ sở
bởi q trình cơng tác, chiến đấu gắn liền với thực hành vũ trang.
Tính đa dạng về chuyên ngành đào tạo của học viên biểu hiện rất rõ ở
nội dung, chương trình, kế hoạch học tập huấn luyện của Nhà trường. Ngoài
những nội dung môn học được trang bị kiến thức chung về lý luận cơ bản
như: Chính trị, Tâm lý, Tin học, Ngoại ngữ, Pháp luật, những môn về Nghiệp
vụ cơ sở và Điều lệnh, võ thuật thì từng chuyên ngành cụ thể lại có chương
trình, nội dung, kế hoạch riêng. Ngồi giờ học chính khóa, học viên đều phải
tham gia học tập ngoại khóa: điều lệnh, võ thuật, thể chất… Do lịch học tập,
14



rèn luyện quá nhiều nên khó khăn cho học viên trong việc ôn lại bài cũ, vận
dụng, liên hệ những kiến thức đã học với thực tiễn.
Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang là một trong những trường trọng
điểm trong khối các trường Trung cấp CAND, với đặc thù chuyên ngành đào
tạo là trường duy nhất trong khối các trường CAND đào tạo chính quy học
viên: Huấn luyện viên Quân sự, Huấn luyện viên Võ thuật, Cảnh sát Cơ động,
Cảnh sát Đặc nhiệm và Cảnh sát Bảo vệ mục tiêu - Hỗ trợ tư pháp của Bộ
Công an. Mỗi chuyên ngành có một u cầu, nhiệm vụ, cơng việc riêng mang
tính đặc thù nên việc đào tạo phụ thuộc vào yêu cầu thực tiễn của Bộ Công
an, đơn vị chiến đấu của Công an địa phương.
Hoạt động giáo dục của Nhà trường mang nét đặc thù bởi người thầy
vừa là người truyền thụ kiến thức đồng thời là những cán bộ, chiến sĩ CAND.
Người học bên cạnh nhiệm vụ học tập, rèn luyện còn phải phấn đấu, trau dồi
để khi ra trường phải đảm bảo đạt được các tiêu chí: vững vàng về chính trị,
nắm chắc về pháp luật và tinh thông về nghiệp vụ.
Đối với học viên các trường CAND việc tuân thủ các quy định chung
của Ngành là yêu cầu quan trọng trong xây dựng nhân cách người Công an
cách mạng. Đối với học viên trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang đòi hỏi phải
tuân thủ theo Điều lệnh CAND, quy định của Nhà trường hết sức chặt chẽ,
nghiêm túc. Do đó, học viên phải nắm vững những nội quy, quy định của
Ngành, Điều lệnh CAND và quy định của Nhà trường. Để làm được điều này,
học viên phải thật sự tâm huyết với nghề, yêu nghề và có ý chí quyết tâm vượt
qua khó khăn, gian khổ mới có thể đáp ứng mục tiêu, yêu cầu học tập của
từng chuyên ngành.
Những nội dung thực hành chiếm phần lớn đơn vị kiến thức mỗi khóa
học trong chương trình đào tạo của Nhà trường. Học viên ra trường thường
đảm nhiệm các công việc như: thực hiện phương án tác chiến chống hoạt
động phá hoại an ninh, bạo loạn vũ trang, khủng bố, bắt cóc con tin, trấn áp
15



tội phạm có sử dụng vũ khí; giải tán các vụ gây rối, biểu tình trái pháp luật; tổ
chức tuần tra, kiểm soát, xử lý các vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự an
toàn xã hội; tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
Các cơng việc trên có tính chất gay go, phức tạp, thậm chí nguy hiểm đến tính
mạng nên những nội dung thực hành tại Nhà trường đòi hỏi lòng dũng cảm,
có tính kỷ luật cao, bản lĩnh vững vàng trong luyện tập mới có khả năng leo
dây chiến thuật, rạn địn trong đấu tập, khơng ngại nguy hiểm trong các tình
huống giả định đấu tranh với các loại tội phạm. Do tính chất nguy hiểm của
cơng việc nên địi hỏi học viên nắm vững những kiến thức cơ bản, thường
xuyên tập luyện cũng như cần có sự quan tâm, theo dõi sát sao của giáo viên,
huấn luyện viên. Thời gian dành cho các môn thực hành nhiều hơn các môn
cơ bản cũng là một trong những yếu tố khiến học viên đánh giá chưa đúng về
vị trí, vai trị từ đó xác định mục đích học tập các mơn cơ bản nói chung và
mơn pháp luật nói riêng.
Quan niệm về ý thức pháp luật của học viên trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp;
trong đó thể hiện tri thức và sự đánh giá về tính cơng bằng của những quy tắc
được chấp nhận trong một xã hội nhất định với tính cách là luật pháp, về
quyền hạn và nghĩa vụ các thành viên trong xã hội, về tính hợp pháp hay
khơng hợp pháp của hành vi con người, nó là một trong những vấn đề cơ bản,
đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật.
Đời sống pháp luật có nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có
tính lặp đi, lặp lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã
hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của
cộng đồng xã hội. Nhu cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ánh một
cách tích cực và sáng tạo hình thành ý thức pháp luật.
16



Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực cơng
cộng, nó là cơng cụ của bộ máy Nhà nước để quản lý và điều chỉnh xã hội.
Thực chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể chế hóa và
được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Do vậy, bên cạnh sự
phản ánh công bằng xã hội theo những chuẩn mực nhất định, ý thức pháp luật
phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp thống trị trong xã hi.
Là một hình thái ý thức xà hội, ý thức pháp luật phản
ánh sâu sắc đời sống pháp luật, trớc hết là sự phản ánh quá
trình nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật
của nhân dân và việc điều chỉnh hành vi của họ nhằm duy
trì trật tự kỷ cơng xà hội theo pháp luật của Nhà nớc. Bởi
vậy, để đạt đợc mục tiêu "dân giàu, nớc mạnh, xà hội dân
chủ, công bằng, văn minh" ở nớc ta, đòi hỏi một mặt phải
nâng cao hiệu lực pháp luật xó hi ch ngha, mặt khác phải
đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật
cho nhân d©n nói chung, đặc biệt là lực lượng thực thi pháp luật nói
riêng.
Từ việc tiếp cận quan niệm tương đối đầy đủ, toàn diện về ý thức pháp
luật trên đây tạo cơ sở khoa học để nhận thức bản chất, cấu trúc của nó. Ý thức
pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang là một bộ phận
trong chỉnh thể xã hội, do vậy ý thức pháp luật của học viên Nhà trường cũng
chịu sự quy định của ý thức pháp luật nói chung. Hơn nữa, ý thức pháp luật của
học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang cịn mang những nét đặc thù.
Như vậy, có thể hiểu về ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang như sau: Ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang là tổng hồ những tri thức, tình cảm, ý chí và niềm tin pháp luật
có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi của họ trong thực thi, chấp hành


17


pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, kỷ luật CAND và chế độ, quy định của Nhà
trường, nhằm đáp ứng mơ hình, mục tiêu, u cầu đào tạo học viên.
Từ quan niệm trên, có thể nhận thấy cấu trúc ý thức pháp luật của học
viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang bao gồm những yếu tố sau:
Tri thøc ph¸p lt cđa häc viªn Trêng Trung cấp Cảnh sát Vũ
trang, là sự hiểu biết những nội dung cơ bản của pháp luật,
hiểu rõ sự cần thiết phải tuân thủ những yêu cầu của pháp
luật Nhà nớc, kỷ luật CAND. Ngời học viên đợc trang bị những
nội dung cơ bản của pháp luật trong chơng trình giáo dục,
đào tạo. Những tri thøc, hiĨu biÕt nµy cã ý nghÜa quan träng
cho viƯc hình thành và ngày càng hoàn thiện những khái
niệm, phạm trù pháp luật, hệ thống các luật định của Nhà nớc
và các văn bản dới luật, điều lệnh, kỷ luật CAND, giúp cho
mỗi học viên có định hớng đúng trong công tác bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an ton xó hi và đời sống hàng ngày. Đối với ngời
học cần phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về yêu cầu
khách quan của pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật,
cũng nh các hậu quả khôn lờng do ý thức pháp luật không tốt
gây ra.
Trong hệ thống tri thức pháp luật của học viên gồm có tri
thức lý ln ph¸p lt, ph¸p chÕ x· héi chđ nghÜa; hệ thống
các quan điểm, t tởng của Đảng về xây dựng Nhà nớc pháp
quyền xà hội chủ nghĩa, xây dựng bộ máy và đổi mới hoạt
động lập pháp, hành pháp, t pháp. Hệ thống các văn bản
pháp luật, là cơ sở để điều tiết hành vi của ngời học trong

18



mọi quan hệ xà hội, đồng thời là hệ tiêu chí để học viên
kiểm tra hành vi, thái độ của m×nh trong häc tËp, rÌn lun.
Học viên trong q trình 2 năm học tại Nhà trường từng bước được
trang bị những kiến thức nhất định về xây dựng và thực hiện pháp luật của
Nhà nước, điều lệnh CAND. Tri thức, hiểu biết pháp luật của họ tác động trực
tiếp tới tình cảm, ý chí, niềm tin của họ đối với pháp luật. Tri thức, hiểu biết
về pháp luật càng đầy đủ thì tình cảm pháp luật càng sâu sắc, bền vững. Tình
cảm, ý chí, niềm tin pháp luật được hình thành, nuôi dưỡng trên cơ sở hiểu
biết tri thức pháp luật. Do đó, thiếu hiểu biết về pháp luật khơng thể có niềm
tin pháp luật đúng đắn, lành mạnh, bền vững.
Ý thức pháp luật của người học viên được biểu hiện ở trình độ hiểu biết
về pháp luật, điều lệnh, điều lệ CAND và trình độ năng lực vận dụng tri thức,
hiểu biết trong chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật CAND; thái độ trong
ứng xử, chấp hành pháp luật, kỷ luật; phát huy tính tích cực, chủ động sáng
tạo của cá nhân và tập thể trong chấp hành pháp luật. Đấu tranh khắc phục
những việc làm sai trái với quy định của điều lệnh, điều lệ, những biểu hiện tự
do vô kỷ luật, dựa dẫm vào tập thể, ỷ lại vào người khác.
Sự tơn trọng và tính tự giác của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát
Vũ trang trong chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật CAND đang được hình
thành, chưa ổn định. Đội ngũ học viên này trong quá trình học tập, rèn luyện
ở Nhà trường được tiếp thu lượng kiến thức khá cơ bản, toàn diện về hệ thống
về pháp luật. Từ những kiến thức pháp luật được tích luỹ bồi dưỡng nên tình
cảm và củng cố niềm tin vững chắc vào pháp luật, đã trở thành sức mạnh trực
tiếp thôi thúc người học viên ln tơn trọng và tự giác chấp hành pháp luật.
Vì vậy, hệ thống tri thức pháp luật là cơ sở giúp cho học viên tự ý thức
về hành vi của mình, tự kiểm tra, tự điều chỉnh và điều khiển hành vi theo
những chuẩn mực pháp luật. Tri thức, hiểu biết pháp luật là tiền đề cho việc
19



hình thành và phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh
sát Vũ trang.
Tình cảm pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang, là
yếu tố quan trọng trong cấu trúc ý thức pháp luật của họ. Nếu chỉ có tri thức
pháp luật, mà thiếu tình cảm chấp pháp thì khơng thể có hành vi pháp luật
đúng. V.I.Lênin cho rằng: Khơng có sự cảm xúc của con người thì xưa nay
khơng có và khơng thể có sự tìm tịi chân lý” [14, tr.79]. Tình cảm là biểu hiện
sự tán thành hoặc khơng tán thành, thiện cảm hay ác cảm, hài lòng hay bất bình
của người học viên đối với những hành vi ứng xử pháp luật. Nhờ đó, người học
viên biểu lộ những cảm xúc, sự tin tưởng và hành động chấp hành nghiêm túc
hay lảng tránh các vấn đề pháp luật. Người học viên có tình cảm pháp luật thì
thái độ của họ không thể thờ ơ, không thể vô cảm trước các quy tắc chuẩn
mực pháp luật.
Tình cảm pháp luật cịn kích thích sự lĩnh hội các tri thức pháp luật, vận
dụng có kết quả các tri thức đó vào việc hồn thành nghĩa vụ cơng dân. Xây
dựng tình cảm pháp luật là giáo dục cho học viên có thái độ đúng đắn, tâm
trạng hứng khởi, lạc quan trong quá trình học tập các mơn pháp luật.
Ý chí pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang là
năng lực điều khiển bản thân kiên quyết vượt qua mọi khó khăn trở ngại, triệt
để thực hiện mọi yêu cầu của pháp luật nhà nước, điều lệnh CAND, chế độ,
quy định của Nhà trường để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Ý
chí được coi là mặt năng động của ý thức, của trí tuệ, tình cảm, là hình thức
điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người. Giá trị chân chính của ý chí
khơng phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay yếu, mà điều chủ yếu là ở ý nghĩa
xã hội, ở nội dung đạo đức của mục đích hành động mà người học viên nỗ lực
vươn tới.

20



Ý thức pháp luật của đội ngũ học viên được thể hiện đầy đủ nhất, sâu
sắc nhất thông qua ý chí quyết tâm rèn luyện và chấp hành nghiêm pháp luật
Nhà nước, điều lệnh CAND và các quy định của đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy, cần phải xét đốn con người khơng phải qua lời nói, ý nghĩ mà
phải qua việc làm, học phải đi đôi với hành. Vì vậy, sự huy động cao trí tuệ,
sức lực và kiên quyết học tập, rèn luyện tốt, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà
nước, điều lệnh CAND, các quy tắc, quy định của nhà trường, là một bộ phận
quan trọng của ý thức pháp luật của học viên. Đó là biểu hiện rõ rệt nhất của
sự giác ngộ về pháp luật, thể hiện sự thống nhất giữa lời nói và việc làm. Ý
chí pháp luật tạo cho người học dũng khí đấu tranh khắc phục những nhận
thức sai và toan tính chấp hành khơng nghiêm, vi phạm pháp luật, điều lệnh,
điều lệ của CAND.
Khi có được tri thức, tình cảm pháp luật sẽ hình thành ở học viên thái
độ đúng đối với pháp luật, trước hết là những thói quen tuân thủ nghiêm
những quy phạm pháp luật; thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp luật;
thói quen sử dụng các qui phạm pháp luật và áp dụng pháp luật trong hoạt
động xã hội; thói quen đấu tranh kiên quyết đối với những hành vi trái với
chuẩn mực pháp luật.
Niềm tin pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
là sự tin tưởng vào sự công bằng, tính nghiêm minh của pháp luật, thấy rõ sự
cần thiết phải chấp hành pháp luật và có thái độ không khoan nhượng với
những biểu hiện coi thường luật pháp, tự do, vơ chính phủ.
Niềm tin pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
dựa trên cơ sở, nền tảng giá trị truyền thống của dân tộc, Bộ Công an và chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển thành ý thức chính trị
của người học viên. Niềm tin pháp luật trực tiếp thôi thúc hành động của con
người, thể hiện ở sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, suy nghĩ và hành
21



động. Tính tự giác, nghiêm minh của kỷ luật Cơng an sẽ làm cho học viên
tuân theo pháp luật một cách tự nguyện, tự giác, tích cực bảo vệ cái đúng,
kiên quyết đấu tranh với những thái độ và hành vi khơng đúng đắn trong q
trình thực hiện Hiến pháp, pháp luật, điều lệnh CAND, khơng dao động trước
khó khăn, thử thách, kiên quyết chiến đấu chống kẻ thù, ngăn chặn, phòng
ngừa với các loại tội phạm..
Ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang là
sự phản ánh cụ thể, rõ nét toàn bộ đời sống, hoạt động giáo dục, bồi dưỡng,
rèn luyện chấp hành pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ
trang, mà xuyên suốt là hoạt động chuyển hoá những nội dung, yêu cầu của
pháp luật, kỷ luật thành ý thức pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của
học viên. Do vậy, ý thức pháp luật của học viên được biểu hiện trong tất cả
các hoạt động học tập, công tác, sinh hoạt và thái độ trách nhiệm hành vi của
họ thực thi pháp luật.
Ý thức pháp luật của đội ngũ học viên này còn được biểu hiện ở sự tự ý
thức đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi cá nhân, biết tự kìm chế,
làm chủ bản thân, tự giác chấp hành mọi quy định, quy chế của CAND và quy
định của Nhà trường. Đặc biệt là tự chủ động, tự giác chấp hành nghiêm qui
chế trong huấn luyện, trong rèn luyện, công tác, kể cả khi xa sự quản lý của
cán bộ và đơn vị (như đi huấn luyện dã ngoại, dân vận, thực tập, nghỉ phép...).
Càng những lúc khó khăn, phức tạp, khơng có sự quản lý, kiểm tra của tổ
chức, người học viên càng phải chủ động, sáng tạo, tự giác chấp hành nghiêm
kỷ luật. V.I.Lênin đã dạy, kỷ luật không phải chỉ bó hẹp ở chỗ tuân theo những
yêu cầu cơ bản đã vạch ra, mà kỷ luật là phải có tinh thần độc lập, tự chủ và
tính chủ động sáng tạo trong đấu tranh. Người học viên có ý thức pháp luật cao
không ỷ lại, dựa vào người khác mà dám đấu tranh khơng khoan nhượng với
các toan tính và hành vi vi phạm điều lệnh, điều lệ, qui chế của nhà trường. Với


22


những biểu hiện ý chí pháp luật trên, ý thức pháp luật không những thể hiện
phẩm chất đạo đức của người học viên mà cịn thể hiện tính chiến đấu của
người học viên, chiến thắng tính ích kỷ, ỷ lại, thụ động của bản thân.
Ý thức pháp luật của học viên còn được biểu hiện ở phương pháp, tác
phong đúng mực, nếp sống chính quy, có văn hố, khiêm tốn trong sinh hoạt
hàng ngày, trong thực thi pháp luật. Mỗi lời nói và việc làm đều theo Hiến
pháp, pháp luật Nhà nước, điều lệnh CAND và quy định của Nhà trường.
Ý thức pháp luật của đội ngũ học viên này được biểu hiện ở thói quen
tự đặt ra yêu cầu cao trong học tập, rèn luyện, gương mẫu trong chấp hành các
chế độ, chủ động khắc phục khó khăn để vươn lên, huy động tiềm năng và
nghị lực, toàn tâm, toàn ý thực hiện bằng được nội dung, yêu cầu nhiệm vụ
được giao, ln có tinh thần thương u đồng chí, đồng đội, tích cực tự
nguyện giúp đỡ nhau cùng giữ nghiêm kỷ luật trong học tập và công tác, cùng
nhau quản lý, sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị, mơ hình học cụ, trang
thiết bị huấn luyện, cơ sở vật chất kỹ thuật của Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ
trang.
Ý thức pháp luật của họ còn biểu hiện ở sự kiên quyết và khéo léo
trong đấu tranh tự phê bình và phê bình với các hành vi vi phạm pháp luật.
Người học viên có ý thức pháp luật cao khơng cho phép tự bng thả mình
trong mọi hồn cảnh, khơng dễ dãi, vơ ngun tắc trong học tập, rèn luyện và
cuộc sống. Họ có tác phong làm việc khoa học, khả năng hoạt động chính xác,
mau lẹ; luôn ủng hộ cái đúng, cái tiến bộ, đấu tranh không khoan nhượng với
cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu; không lùi bước thoả hiệp, cho dù là sự nhượng bộ
rất nhỏ dẫn đến giảm sút kết quả học tập, rèn luyện, chấp hành pháp luật, kỷ
luật. Tự nguyện và khơn khéo giúp đỡ đồng chí mình khắc phục mọi khó khăn,
nhất là vào những thời điểm, giây phút “mềm lòng” để cùng chấp hành nghiêm
các quy định, quy chế, cùng thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ. Tự nguyện giúp


23


đỡ nhau và giúp đỡ có hiệu quả cũng là biểu hiện của sự trưởng thành về ý thức
pháp luật của mỗi học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang.
Ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang nét
đặc trưng cơ bản là sự tơn trọng và tính tự giác trong chấp hành pháp luật Nhà
nước, kỷ luật CAND và chế độ qui định của Nhà trường đang được hình
thành, chưa ổn định.
Ý thức pháp luật của đội ngũ học viên là sản phẩm của quá trình thực hiện
nhiệm vụ giáo dục đào tạo của Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang. Sự hình
thành, phát triển, hoàn thiện ý thức pháp luật của người học luôn gắn liền, chịu
sự chi phối của hoạt động giáo dục, đào tạo. Đồng thời, thông qua thực tiễn
hoạt động giáo dục, đào tạo, ý thức pháp luật của học viên ngày càng được hình
thành, phát triển. Từ năm thứ nhất đến năm cuối của khoá học, học viên được
nghiên cứu, học tập hệ thống tri thức toàn diện về nghiệp vụ, chính trị, pháp
luật kết hợp với thực tiễn chấp hành các nền nếp, chế độ, quy định học tập, sinh
hoạt, hoạt động hàng ngày nên hiểu biết và thói quen chấp hành pháp luật, kỷ
luật được hình thành và ngày càng củng cố, hoàn thiện theo tiến trình đào tạo.
Kiến thức pháp luật của học viên ngày càng được trang bị đầy đủ cùng thái độ,
tình cảm, niềm tin, trách nhiệm ngày càng được nâng cao đã thôi thúc, điều
chỉnh hành vi của người học ngày càng đúng hơn với chuẩn mực luật pháp. Họ
đã hiểu và ngày càng hiểu sâu sắc hơn, ngày càng tự giác chấp hành triệt để
hơn điều lệnh CAND, chế độ, qui định của Nhà trường.
Tự giác chấp hành pháp luật, kỷ luật của người học viên để trở thành
thói quen, nếp sống là cả một quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện nghiêm
túc, công phu theo yêu cầu, mục tiêu đào tạo của Nhà trường. Đó là q trình
tích luỹ, tiếp thu kiến thức tổng hợp, là sự thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, tư tưởng của Đảng, với mục tiêu rõ ràng,

trở thành những giá trị bền vững trong nhân cách của họ.

24


Việc tôn trọng và tự giác chấp hành pháp luật, kỷ luật của người học
viên được biểu hiện ở khả năng tự ý thức, tự chấp hành tuyệt đối, chính xác
các yêu cầu của pháp luật Nhà nước, kỷ luật CAND, chế độ của Nhà trường.
Nếu chấp hành pháp luật chỉ do sự bắt buộc từ bên ngồi thì chưa phải là
người có ý thức pháp luật. Như vậy sẽ chỉ chấp hành những qui định của pháp
luật Nhà nước một cách nhất thời, cốt để khỏi bị lên án về đạo đức, hoặc khỏi
bị xử phạt. Trong thời điểm thiếu sự giám sát của tổ chức; trong các tình
huống gay go, phức tạp, không phải lúc nào người ấy cũng giữ được các hành
động của mình một cách đều đặn, đúng pháp luật. Vì vậy, cần phải có sự tơn
trọng và tự giác chấp hành pháp luật, trong đó nhận thức, niềm tin của học
viên đối với pháp luật Nhà nước phải luôn được đề cao và ý thức pháp luật
cần phải được tiếp tục bồi dưỡng, rèn luyện cho học viên.
Tính nghiêm minh trong chấp hành pháp luật, điều lệnh CAND chưa
đạt đến độ vững chắc là nét đặc trưng thường thấy trong ý thức pháp luật của
học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang. Trong quá trình đào tạo, đội
ngũ học viên được giáo dục, bồi dưỡng tri thức pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật, họ hiểu và ý thức rõ hơn vị trí, ý nghĩa, sự cần thiết phải phát triển
ý thức pháp luật, thấy rõ trách nhiệm của mình trong giữ nghiêm pháp luật, kỷ
luật, xây dựng đơn vị chính quy. Do vậy, tính nghiêm minh trong chấp hành
pháp luật, điều lệnh của học viên từng bước được hình thành, phát triển.
1.1.2. Quan niệm phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường
Trung cấp Cảnh sát Vũ trang
Phát triển ý thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ
trang là một mặt, một nội dung nằm trong sự phát triển nhân cách người học
viên đang trong quá trình học tập, rèn luyện để trở thành những chiến sĩ Cảnh

sát Vũ trang trong tương lai. Phát triển ý thức pháp luật của học viên tất yếu
tuân theo những quy luật chung của con người và xã hội. Tuy vậy, phát triển ý
thức pháp luật của học viên Trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang được đặt
25


×