Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở trường sĩ quan chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.8 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
TRONG XÂY DỰNG THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CỦA
1.1.

HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
Thực chất xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị

1.2.

10
10

Những vấn đề có tính quy luật trong xây dựng thế giới
quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị

29

Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG THẾ GIỚI
QUAN KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN Ở TRƯỜNG SĨ
QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
2.1.

Thực trạng xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở


Trường Sĩ quan Chính trị

2.2.

43

43

Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng xây dựng thế
giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ quan Chính
trị hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

63
81
83
87

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế giới quan khoa học có vai trị đặc biệt quan trọng trọng hoạt động
nhận thức và cải tạo thực tiễn; nó trang bị cho con người phương pháp luận
khoa học và là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá trình độ và nhân

cách con người. Đối với người chính trị viên trong Quân đội, thế giới quan
khoa học góp phần soi đường, định hướng cho họ nâng cao sự hiểu biết về
nhiều mặt, nhất là sự nhận thức những vấn đề chính trị, qn sự hiện đại. Qua
đó định hướng đúng đắn về thái độ, hành vi chính trị và đạo đức, lối sống; là
cơ sở phương pháp luận giúp họ xem xét, đánh giá và giải quyết các vấn đề
trong chủ trì về chính trị, hoạt động CTĐ, CTCT một cách có hiệu qủa.
Là trung tâm đào tạo cán bộ chính trị, giáo viên khoa học xã hội nhân văn
cấp phân đội cho toàn quân, những năm qua, Trường Sĩ quan Chính trị đã hồn
thành tốt nhiệm vụ giáo dục đào tạo, cung cấp cho toàn quân một lực lượng đơng
đảo cán bộ chính trị, giáo viên khoa học xã hội nhân văn có đủ phẩm chất và
năng lực, trong đó có thế giới quan khoa học, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thực tiễn đào tạo ở nhà trường trong thời gian qua cũng cho thấy: ở
đâu, lúc nào, việc chăm lo xây dựng, bồi dưỡng, phát triển thế giới khoa học
của học viên bị xem nhẹ, hoặc vì lý do nào đó chưa được làm tốt thì ở đó, lúc
ấy sẽ nảy sinh những vấn đề phức tạp về nhận thức, tư tưởng; thậm chí cá biệt
có học viên đã vi phạm kỷ luật đến mức phải xử lý bằng hình thức buộc thơi
học. Những hạn chế đó đã ảnh hưởng nhất định tới chất lượng hoàn thành
nhiệm vụ của Nhà trường.
Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu
vực và yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ
của cách mạng; nhất là việc giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm thất bại âm mưu “diễn biến hịa bình”, bạo

3


loạn lật đổ, sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí cơng
nghệ cao của các thế lực thù địch. Điều đó địi hỏi người học viên đào tạo

trở thành cán bộ chính trị cấp phân đội phải có thế giới quan khoa học với
một hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội, tư duy và về vị trí của con
người trong thế giới một cách đúng đắn, làm cơ sở định hướng, soi đường
cho họ xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, hoàn thành tốt mục tiêu, u cầu
đào tạo; tích cực đấu tranh có hiệu quả chống các quan điểm sai trái, thù
địch, nhanh chóng khắc phục những biểu hiện của thế giới quan duy tâm,
siêu hình máy móc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về thế giới quan
và thế giới quan khoa học
Nghiên cứu về thế giới quan và thế giới quan khoa học là một nội dung
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu có các cơng trình
như luận án phó tiến sĩ triết học của tác giả Trần Thước (1993) về “Sự hình
thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam” [32] đã
trình bày khái quát về vấn đề thế giới quan, thế giới quan XHCN và tính quy
luật hình thành thế giới quan XHCN ở tầng lớp trí thức Việt Nam; tác giả đã
khẳng định thế giới quan XHCN do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là thế
giới quan của giai cấp vơ sản tồn thế giới, là kim chỉ nam của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh
nhằm giải phóng xã hội khỏi áp bức, bóc lột, vì quyền sống và tự do của mỗi
người. Tác giả Nguyễn Huy Hoàng (2003) với “Mấy suy nghĩ về việc xác định
bản chất của thế giới quan” [16], Tạp chí Triết học, số 1; tác giả Ngô Đức Thịnh
(2004) bàn về “Thế giới quan bản địa” [31], Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4;
tác giả Hồng Đình Cúc (2007) về “Xây dựng, củng cố thế giới quan khoa
học cho thanh niên, sinh viên nước ta hiện nay” [4], Tạp chí Lý luận Chính
trị, số 3, v.v., đã có những luận giải khá sâu sắc về vấn đề thế giới quan nói
chung, thế giới quan khoa học nói riêng, chỉ ra các hình thức thế giới quan từ

4



khi hình thành xã hội đến nay, làm rõ vai trò, tác động của thế giới quan, thế
giới quan khoa học đối với quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn của con
người. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động của các quá trình
dân chủ hóa, nhân đạo hóa, tin học hóa và tồn cầu hóa, thế giới quan khoa
học càng thể hiện rõ vai trò quan trọng để giúp quần chúng trở thành động lực
lớn lao của lịch sử, trở thành thực thể tự do và sáng tạo thực sự.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về bồi dưỡng, phát
triển thế giới quan
Vấn đề bồi dưỡng, phát triển thế giới quan là một nội dung được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngồi qn đội. Tiêu
biểu có các cơng trình nghiên cứu như luận án phó tiến sĩ triết học của tác
giả Bùi Ỉnh (1988) về “Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng
đối với cán bộ, đảng viên dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta” [19]; luận án phó tiến sĩ khoa học triết học của tác giả Bun-nhôông
Khin-sa-mỏn (1991) về “Xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho
Đảng viên Đảng nhân dân cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [3];
luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Văn Vinh (2001) về “Phát triển
thế giới quan duy vật biện chứng cho sĩ quan cấp phân đội quân đội nhân
dân Việt Nam” [42]; tác giả Nguyễn Thị Toan (2004) bàn về “Bồi dưỡng thế
giới quan khoa học cho sinh viên sư phạm thông qua môn Triết học Mác Lênin” [34], Tạp chí Giáo dục, số 98; luận án tiến sĩ triết học của tác giả
Trần Viết Quân (2010) về “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay ” [27];
luận án tiến sĩ triết học của tác giả Đào Thị Minh Thảo (2010) về “Vấn đề
bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ giáo viên tiểu học ở
nước ta hiện nay (từ thực tế Hải Phịng)” [30], v.v.. Trong những cơng trình
khoa học trên, các tác giả đã đề cập tới một số nội dung cơ bản của vấn đề
thế giới quan như: khái niệm, vị trí, vai trị, cấu trúc thế giới quan nói chung,
thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng; tầm quan trọng và tính tất yếu


5


của việc xây dựng, phát triển thế giới quan duy vật biện chứng trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các cơng trình cũng đã chỉ ra những điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng. Đồng thời qua đó, xác định những nguyên tắc và phương pháp
luận chung trong xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho những đối
tượng cụ thể trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các
cơng trình nghiên cứu cũng đã trình bày một số quan điểm và giải pháp cơ
bản nhằm xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong từng lĩnh vực và
vùng, miền, cho từng đối tượng cụ thể trong giai đoạn hiện nay.
* Nhóm các cơng trình bàn về phát triển tri thức khoa học, xây dựng
niềm tin, lý tưởng cách mạng
Luận án phó tiến sĩ triết học của tác giả Trần Xuân Sầm (1992) về
“Thống nhất giữa tri thức khoa học và tình cảm cách mạng với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [29] đã trình bày tương đối có hệ thống vị
trí của nhân tố tri thức và tình cảm, mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố
đó trong hoạt động của con người, vai trị thống nhất giữa tri thức khoa học và
tình cảm cách mạng của giai cấp lãnh đạo cách mạng đối với sự phát triển của
xã hội; bước đầu đưa ra phương hướng và giải pháp khắc phục sự không
thống nhất giữa tri thức khoa học và tình cảm cách mạng của chủ thể lãnh đạo
cách mạng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Vấn đề xây dựng niềm tin cộng sản, lý tưởng cách mạng được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu như: luận văn cao học triết học của tác giả
Phan Đình Nhân (1996) về “Nâng cao niềm tin về Chủ nghĩa xã hội khoa học
của học viên các trường sĩ quan Quân đội hiện nay” [25]; cuốn sách của cố
Giáo sư Trần Xuân Trường (1998) bàn về “Một số vấn đề giáo dục xã hội chủ
nghĩa trong Quân đội nhân dân Việt Nam” [36]; luận văn cao học triết học
của tác giả Đỗ Đào Khái (2002) về “Vai trò của tư duy biện chứng đối với

phát triển niềm tin cộng sản của học viên Trường sĩ quan Tăng - Thiết giáp
hiện nay” [20], v.v.. Các cơng trình khoa học đã đề cập và luận giải nhiều khía

6


cạnh của vấn đề xây dựng, bồi dưỡng phát triển niềm tin cách mạng, lý tưởng
cộng sản cho đối tượng là thanh niên, trong đó có học viên các trường sĩ quan
Qn đội. Về cơ bản, các cơng trình khoa học đều khẳng định vai trò của
niềm tin cách mạng, lý tưởng cộng sản đối với sự hoàn thiện nhân cách nói
chung của con người; chỉ ra được những vấn đề mang tính quy luật và đề xuất
những giải pháp nhằm phát triển niềm tin cộng sản, lý tưởng cách mạng cho
mỗi đối tượng cụ thể.
Luận án tiến sĩ triết học tác giả Lương Thanh Hân (2012) về “Phát triển
bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân
văn ở các trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [15], đã đi sâu
luận giải lý luận và thực tiễn về phát triển bản lĩnh chính trị và tri thức khoa
học của giảng viên trẻ khoa học xã hội và nhân văn ở các trường sĩ quan. Tác
giả khẳng định đó là q trình làm cho bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học
phát triển đồng bộ, bổ sung hỗ trợ cho nhau trong nhân cách sư phạm thỏa mãn
yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội
nhân văn ở các trường sĩ quan. Việc nhận thức đúng đắn bản chất của quá trình
này là cơ sở khoa học để tác giả đưa ra các giải pháp cơ bản để phát triển hài
hịa bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học của giảng viên trẻ khoa học xã hội
nhân văn ở các trường sĩ quan hiện nay.
Các cơng trình trên đã làm rõ nhiều vấn đề về thế giới quan, thế giới
quan khoa học với nhiều góc độ tiếp cận và phân tích khá sâu sắc về các nhân
tố cấu thành thế giới quan. Tuy nhiên, trong những cơng trình khoa học đã
được cơng bố, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ
thống, toàn diện và đưa ra các giải pháp để xây dựng thế giới quan khoa học

của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị. Bởi vậy, tác giả lựa chọn vấn đề
“Xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
hiện nay” làm đề tài luận văn là hồn tồn mới, khơng trùng lặp với các đề tài
khoa học đã được nghiệm thu, công bố.

7


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình xây dựng thế giới quan
khoa học của học viên Trường Sĩ quan Chính trị, từ đó đề xuất những giải
pháp cơ bản nâng cao chất lượng xây dựng thế giới quan khoa học cho họ
hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ thực chất và một số vấn đề có tính quy luật của xây dựng thế
giới quan khoa học của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở
Trường Sĩ quan Chính trị.
Bước đầu khảo sát, đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân của những
ưu điểm và hạn chế trong xây dựng thế giới quan khoa học của học viên đào
tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng xây dựng
thế giới quan khoa học cho học viên Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bản chất, vấn đề có tính quy luật trong xây dựng thế giới quan khoa học
của học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội cơ bản, dài hạn (5 năm)
của Trường Sĩ quan Chính trị từ năm 2010 đến nay.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Hệ thống các quan điểm, tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam;
các nghị quyết của Quân ủy Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc
phịng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Qn đội nhân dân Việt Nam; các

8


nghị quyết của Trường Sĩ quan Chính trị về giáo dục đào tạo; các tác phẩm,
bài nói, bài viết của một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội có
liên quan trực tiếp đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn
Là toàn bộ hiện thực, tư liệu về hoạt động giáo dục và đào tạo chính trị
viên tại Trường Sĩ quan Chính trị; mục tiêu, mơ hình người chính trị viên trong
qn đội; các cơng trình nghiên cứu đã được nghiệm thu, cơng bố của Trường Sĩ
quan Chính trị; các số liệu trong báo cáo tổng kết công tác giáo dục và rèn luyện
học viên của các hệ, tiểu đoàn, của các cơ quan, Nhà trường và các số liệu điều
tra khảo sát thực tế của tác giả luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phương pháp lịch
sử và lơgíc; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp khái quát hoá,
trừu tượng hoá; phương pháp hệ thống - cấu trúc; phương pháp khảo sát - điều
tra xã hội học; phương pháp chuyên gia, v.v..
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học nâng cao hiệu quả xây
dựng thế giới quan khoa học cho học viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo của Nhà trường. Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo xây

dựng thế giới quan khoa học cho học viên các nhà trường Quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.

9


Chương 1
THỰC CHẤT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CĨ TÍNH QUY LUẬT
TRONG XÂY DỰNG THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CỦA HỌC
VIÊN
Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ

1.1. Thực chất xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị
1.1.1. Vấn đề thế giới quan và thế giới quan khoa học
* Thế giới quan
Ngay từ khi bắt đầu xuất hiện trên trái đất, do yêu cầu tự nhiên và tất
yếu của cuộc sống, con người khơng chỉ thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài
một cách thụ động mà ln ln phải tìm cách biến đổi nó nhằm phục vụ cho
nhu cầu cuộc sống của mình. Để đạt được mục đích đó, con người nảy sinh
nhu cầu tìm hiểu giới tự nhiên cũng như chính bản thân mình. Nhiều vấn đề
đặt ra từ xưa đến nay vẫn đang tiếp tục được con người suy nghĩ và tìm câu
trả lời chính xác nhất như: Thế giới là gì? Nguồn gốc của nó từ đâu? Kết cấu
và hình thức tồn tại của nó là như thế nào? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại
và biến đổi của thế giới? Con người là gì? Con người có vị trí như thế nào
trong thế giới đó? Mối quan hệ giữa con người với thế giới ra sao? Cuộc sống
con người có ý nghĩa gì? Lý tưởng của con người như thế nào?, v.v.. Trả lời
những câu hỏi này sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm

nhất định về thế giới, về vị trí con người trong thế giới ấy. Đó là cơ sở để hình
thành thế giới quan của con người.
Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thủy, song với tư cách một khái
niệm khoa học thì thuật ngữ Thế giới quan được đề cập đến lần đầu tiên vào
năm 1790 bởi nhà triết học người Đức I.Can-tơ (1724-1804). Đến năm 1792,
G.G.Phích-tơ (1762-1814) giải thích rõ thêm về khái niệm này, đồng thời tách
biệt nó khỏi suy nghĩ thụ động của khái niệm “Bức tranh thế giới”. Sau đó,
khái niệm Thế giới quan được sử dụng rộng rãi trong các tác phẩm của các nhà

10


triết học Cổ điển Đức (nửa đầu thế kỷ XIX). Tiếp tục truyền thống đó, trong
q trình xây dựng và phát triển học thuyết triết học, C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin đã sử dụng khái niệm này trong các tác phẩm của mình.
Khái niệm thế giới quan hiện nay đã được nhiều nhà khoa học đương
đại nghiên cứu và tiếp cận ở nhiều cấp độ và đưa ra các định nghĩa khác nhau.
Trong Từ điển Triết học, các nhà khoa học Liên Xô đưa ra định nghĩa thế giới
quan là: “toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng
hoạt động và quan hệ của từng người, của tập đoàn xã hội, của một giai cấp
hay xã hội nói chung đối với thực tại” [40, tr. 539].
Theo G.Gec-xơ trong cuốn Triết học mác-xít và tri thức khoa học tự
nhiên đã khái quát: “Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ thống nhất định
những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới và nguồn gốc của
tri thức, về vị trí của con người trong thế giới, về ý nghĩa của cuộc sống và
đặc trưng của tiến bộ xã hội” [14, tr. 42].
Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam cũng đưa ra những định nghĩa khi
nghiên cứu về thế giới quan. Theo quan niệm của tác giả Trần Thước: “Thế
giới quan là hệ thống những quan điểm chung nhất về thế giới (toàn bộ sự vật
và hiện tượng thuộc tự nhiên và xã hội), về vị trí và chức năng của con người

trong thế giới, mối quan hệ của con người đối với thế giới và với chính bản
thân mình” [32, tr. 13].
Tác giả Hồng Đình Cúc nêu ra định nghĩa: “Thế giới quan là sự nhìn nhận
tồn bộ thế giới vật chất và tinh thần. Trong sự nhìn nhận ấy có các quan niệm về
thế giới, về con người và cuộc sống của con người. Vì vậy, có thể hiểu rằng thế
giới quan là tổng hợp những quan niệm về thế giới, về vị trí của con người trong
thế giới, về chính bản thân, về cuộc sống của con người và loài người” [4, tr. 37].
Từ những quan điểm trên về thế giới quan tác giả cho rằng: Thế giới
quan là hệ thống những quan điểm của chủ thể về thế giới và về vị trí, vai trị
của con người trong thế giới đó. Thế giới quan định hướng cho hoạt động

11


nhận thức, hoạt động cải tạo thế giới, điều chỉnh hành vi của con người trong
cuộc sống hàng ngày.
Cách quan niệm về thế giới quan trên đây bao hàm cả nhân sinh quan
(quan niệm về lẽ sống, về đời người). Thế giới quan hình thành trên cơ sở
những hiểu biết của con người về tự nhiên, về xã hội và về chính bản thân con
người. Như vậy, có thể khẳng định rằng thế giới quan là lập trường sống của
chủ thể. Nếu được trang bị thế giới quan đúng đắn và khoa học sẽ giúp chủ
thể có lập trường vững vàng trước những biến động của cuộc sống, trước
những tác động của những tư tưởng khác biệt hoặc đối lập.
Thế giới quan được hình thành và phát triển trong xã hội dưới hai hình
thức thế giới quan cá nhân và thế giới quan xã hội. Thế giới quan cá nhân là
một nhân tố sống động của ý thức cá nhân, giữ vai trò chỉ đạo chi phối cách
thức tư duy và hành động cá nhân. Thế giới quan cá nhân thường là sự tích
lũy và thu thập kinh nghiệm sống của mỗi người, nó nằm trong chính suy
nghĩ và hành vi của con người. Thế giới quan xã hội là thế giới quan của một
giai cấp hay toàn xã hội, nó được thể hiện bằng một hệ thống lý luận, quan

điểm có tính khái qt có tác dụng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn
của một giai cấp hoặc tồn xã hội. Hai hình thức này của thế giới quan khơng
có sự tách biệt, cơ lập mà ln nằm trong mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Thế giới quan cá nhân chịu sự chi phối, tác động của thế giới quan xã
hội, hướng con người tới việc luôn đặt ra và giải quyết những vấn đề về mối
quan hệ của mình với thế giới, vị thế của mình trong xã hội, ý nghĩa cuộc
sống của mình; qua đó chọn lựa và định hướng cho cuộc sống của mình.
Ngược lại, những quan điểm của thế giới quan xã hội khi thâm nhập vào cá
nhân trở thành một bộ phận trong ý thức và niềm tin của các cá nhân, thẩm
thấu vào ý thức cá nhân, tác động và chỉ dẫn nó. Thế giới quan xã hội bổ sung
cho thế giới quan cá nhân, cải biến nhận thức thế giới của cá nhân và hoạt
động thực tiễn của họ.
Thế giới quan là phản ánh của sự tồn tại vật chất và xã hội; nó phụ
thuộc trực tiếp vào trình độ tri thức của con người đạt được trong từng giai
12


đoạn lịch sử nhất định và chế độ xã hội đang thống trị. Thế giới quan có tính
chất lịch sử nên sự phát triển của xã hội đồng thời làm biến đổi thế giới quan
của cá nhân, giai cấp, xã hội; đồng thời, trong xã hội có sự phân chia giai cấp,
thế giới quan mang tính giai cấp sâu sắc. Bởi thế, chúng ta thấy có sự tồn tại
của nhiều loại hình thế giới quan khác nhau, thậm chí đối lập nhau, trong
dòng chảy lịch sử nhân loại. Xét theo q trình hình thành và hình thức biểu
hiện thì có thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan
triết học. Xét theo góc độ triết học, có thế giới quan duy vật và thế giới quan
duy tâm. Xét theo quan điểm chính trị, có thế giới quan của giai cấp tiên tiến,
cách mạng và thế giới quan của giai cấp phản động, lạc hậu. Xét theo tiêu chí
khoa học, có thế giới quan tiền khoa học, thế giới quan khoa học và thế giới
quan phản khoa học. Cho đến nay, các loại hình thế giới quan này vẫn tồn tại,
có sự đan xen thâm nhập vào nhau và thể hiện các vai trò khác nhau trong các

xã hội, các cộng đồng người cũng như từng cá nhân riêng biệt. Thế giới quan
rất đa dạng, phong phú song các nội dung của nó ở mỗi loại hình đều thể hiện
tính khái qt, nhưng có sự khác nhau về tính chất và trình độ.
* Thế giới quan khoa học
Thế giới quan khoa học là hệ thống những quan điểm đúng đắn, mang
tính khái quát về tự nhiên, xã hội, tư duy, về vị trí của con người trong thế
giới đó. Thế giới quan khoa học là thế giới quan phản ánh đúng đắn điều kiện
khách quan, quy luật khách quan và khả năng khách quan, đáp ứng yêu cầu
hoạt động thực tiễn mà con người hướng tới.
Thế giới quan khoa học có các đặc trưng chủ yếu biểu hiện sự khác về
chất so với các loại hình thế giới quan khơng khoa học. Đó là tính khoa học,
tính cách mạng, tính thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, thấm nhuần chủ
nghĩa nhân đạo nhân văn.
Tính khoa học là cách tiếp cận thế giới theo tinh thần biện chứng duy
vật khi giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và nhận thức một
cách đúng đắn. Tính khoa học thể hiện ở chỗ nó khơng chỉ cắt nghĩa sự tồn
tại, vận động của thế giới từ các yếu tố vật chất, mà còn thấy sự đa dạng,

13


phong phú của thế giới vật chất và mối quan hệ của bản thân thế giới đó cũng
như sự vận động, biến đổi khơng ngừng của nó. Do đó, với tinh thần duy vật
biện chứng, thế giới quan khoa học nhìn nhận thế giới khách quan một cách
thực sự khoa học nhất, đúng đắn nhất. Nó là sự kế thừa nền tảng tri thức của
nhân loại tiến bộ. Tri thức của thế giới quan khoa học là sự khái quát hoá cao
của tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và tư duy trong quá trình vận động
và phát triển của tri thức nhân loại.
Tính cách mạng của thế giới quan khoa học thể hiện ở sự không thừa
nhận bất cứ một cái gì là tuyệt đích, cuối cùng. Thế giới quan khoa học thừa

nhận sự phát triển như một nguyên lý phổ biến của thế giới khách quan;
chống lại mọi sự bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng từ tư duy cho đến hành động. Vì
vậy nó tạo ra tinh thần cách mạng trong con người, tạo ra ý thức cải biến thế
giới khách quan để phục vụ cuộc sống của con người. Thế giới quan khoa học
không dung hòa với thế giới quan thần thoại, thế giới quan duy tâm, thế giới
quan phản khoa học khi giải thích các sự vật, hiện tượng của thế giới. Nếu thế
giới quan thần thoại là thế giới quan đặc trưng trong giai đoạn sơ khai của lịch
sử loài người, là sản phẩm của sự cảm nhận ban đầu của con người về thế giới
trong xã hội chưa có sự phân chia giai cấp, thì thế giới quan khoa học là sự
phản ánh chân thực về thế giới có tính khái qt dựa trên những thành tựu
mới của khoa học, của giai cấp tiến bộ, cách mạng. Nếu thế giới quan duy tâm
tôn giáo là sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, là “thế giới quan lộn
ngược”, khiến con người thụ động trước hồn cảnh; thì thế giới quan khoa
học là sự phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, nó chỉ ra con người vừa là
sản phẩm, vừa là chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới theo quy luật khách quan
thông qua hoạt động thực tiễn. Nếu thế giới quan phản khoa học bị các thế lực
phản động lợi dụng phục vụ cho sự thống trị để kìm hãm sự phát triển của xã
hội, làm tha hóa, biến chất con người, thì thế giới quan khoa học hướng con
người theo sự phát triển của xã hội, thúc đẩy sự phát triển ấy theo hướng tiến bộ
hơn. Thế giới quan khoa học là kết quả của sự kế thừa có tính phê phán những di
sản văn hóa nhân loại, đồng thời có cơ sở vững chắc từ những thành tựu của

14


khoa học, trong đó triết học Mác - Lênin chính là hạt nhân của thế giới quan
khoa học. Khi khẳng định điều này, V.I.Lênin đã chỉ rõ, đó là “một thế giới quan
hồn chỉnh, khơng thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản
động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản” [22, tr. 50].
Tính thống nhất giữa lý luận với thực tiễn của thế giới quan khoa học

thể hiện qua tính tích cực tham gia vào việc biến đổi, cải tạo hiện thực bằng
hành động cách mạng, gắn thế giới quan khoa học với xây dựng đạo đức mới.
Sự thống nhất này bắt nguồn từ bản chất của triết học Mác - Lênin, nền tảng
của thế giới quan khoa học, bởi thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những quan điểm, nguyên tắc
của thế giới quan khoa học đều bắt nguồn từ thực tiễn, là định hướng quan
trọng trong hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và con người.
Trong thời đại ngày nay, thế giới quan khoa học gắn liền với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản và tinh thần cách mạng. Nếu thế giới quan duy tâm tôn
giáo hướng con người tới niềm tin vào một “thế giới bên kia” mơ hồ, hư ảo
thì niềm tin của thế giới quan khoa học hướng tới nhận thức chân lý khách
quan. Thế giới quan khoa học giúp con người có niềm tin sâu sắc vào sức
mạnh của mình trong nhận thức, cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân
mình, thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa mơ ước với hiện thực; xây
dựng “thiên đường trên trần thế” bằng chính sức mạnh của con người.
Thế giới quan khoa học là thế giới quan phản ánh thế giới và định
hướng cho hoạt động của con người trên cơ sở tổng kết những thành tựu của
quá trình nghiên cứu khoa học, thực nghiệm khoa học và dự báo khoa học.
Trong thế giới quan khoa học, các quan điểm, lập trường của con người về thế
giới, về chính con người, về vai trị, vị trí của con người trong thế giới ngày
càng được bổ sung, phát triển theo sự phát triển của khoa học, đồng thời với
sự bổ sung, phát triển đó thì vai trị cải tạo thực tiễn của con người ngày càng
được nâng cao.
Nội dung các quan điểm, nguyên tắc của thế giới quan khoa học đều
hướng tới mục đích cơ bản là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người

15


với thế giới, giữa tư duy và tồn tại. Đó cũng chính là vấn đề cơ bản của triết học

Mác - Lênin bởi “vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” [2, tr. 403]. Với quan niệm
khoa học và duy vật về bản chất thế giới và vai trò của con người trong thế giới
đó, triết học Mác - Lênin đã trở thành hạt nhân của thế giới quan khoa học. Triết
học Mác - Lênin không chỉ phản ánh thế giới bằng hệ thống các nguyên lý,
phạm trù, quy luật mà đó cịn là những cơng cụ nhận thức vĩ đại hiệu quả cho
loài người hiểu biết ngày càng sâu sắc về thế giới khách quan.
Thực tế, cho đến nay toàn bộ tri thức khoa học mà nhân loại đạt được
vẫn chứng minh rõ rằng: trong vũ trụ khơng có gì khác ngồi những q trình
vật chất đang vận động. Vật chất thể hiện dưới nhiều hình thức, mn hình,
mn vẻ, nhưng suy cho cùng là thực tại khách quan, tồn tại khách quan độc
lập với ý thức con người. Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Ý thức
suy cho cùng cũng chỉ là một thuộc tính đặc biệt của một dạng vật chất có tổ
chức cao, đó là bộ óc con người và chỉ là sản phẩm duy nhất của bộ óc người.
Như vậy, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất, đó là thế giới vật chất.
Nó tồn tại vĩnh viễn, vơ hạn, vơ tận, không được sinh ra và không bị mất đi.
Điều này đã minh chứng rằng, những tri thức của triết học mác-xít vẫn là hạt
nhân của thế giới quan khoa học hiện đại.
Xét về cấu trúc, nội dung thế giới quan khoa học là sự thống nhất của
ba bộ phận gồm tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
Tri thức khoa học của thế giới quan khoa học là những tri thức đúng
đắn về tự nhiên, xã hội và bản thân con người. Tri thức trong thế giới quan
khoa học là hệ thống quan điểm, tri thức của các khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội được hình thành trên cơ sở kế thừa các nhân tố hợp lý của quá
trình phát triển các khoa học, đặc biệt là những thành tựu mới nhất của các
ngành khoa học. Các tri thức khoa học khác nhau đã cung cấp các luận cứ để
khái quát thành các quan điểm chung về các phương diện khác nhau của thế
giới và con người. Những tri thức đó đóng vai trị định hướng cá nhân, tập
đồn người, giai cấp trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực.


16


Yếu tố cơ bản thứ hai của thế giới quan khoa học là niềm tin khoa học.
Theo triết học Mác - Lênin, bản chất của niềm tin là kết quả của quá trình
nhận thức thế giới và tự nhận thức bản thân mình, mang tính năng động, sáng
tạo của con người. Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt, có vai
trị to lớn trong hoạt động của con người. Niềm tin khoa học được hình thành
trên cơ sở tri thức khoa học và tình cảm, cảm xúc (năng lực cảm nhận thế giới
nội tâm của con người). Nếu tri thức khoa học là yếu tố cơ bản cấu thành
niềm tin khoa học, thì tình cảm chính là “cầu nối” để con người nắm bắt chân
lý khách quan, là phương tiện giúp con người thích nghi về tâm - sinh lý với
hồn cảnh nhất định, hịa đồng với cộng đồng xã hội.
Niềm tin khoa học có vai trò như một động lực, thúc đẩy con người
vươn tới khát vọng nhận thức và cải tạo thế giới hiện thực. Nếu khơng có
niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư tưởng, con người sẽ khơng có
được ý chí, khát vọng, nghị lực, lịng nhiệt tình trong thực hiện các hoạt động
thực tiễn. Niềm tin giúp con người có nghị lực để có thể vượt qua được những
khó khăn to lớn và dám hy sinh vì những mục đích cao cả. Niềm tin muốn
bền vững phải được củng cố bằng hành động thực tiễn, nhưng các yếu tố khác
như điều kiện kinh tế - xã hội, thể chế chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa,
trình độ phát triển khoa học công nghệ cũng tác động mạnh mẽ đến sự hình
thành, củng cố niềm tin.
Niềm tin khoa học chi phối mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống và hành động cách mạng của mỗi con người. Nó địi hỏi hành
động của mỗi người cách mạng phải dựa trên cơ sở tri thức khoa học và tuân
theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu con người sống
khơng có niềm tin khoa học, hoặc thiếu niềm tin khoa học thì dễ bị mất
phương hướng, bế tắc trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là điển hình cho niềm tin khoa học, bởi từ niềm tin vững chắc vào

sự đúng đắn của lý luận khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã tìm ra
con đường cứu nước đúng đắn, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta làm

17


nên chiến thắng vẻ vang trước những tên thực dân, đế quốc hùng mạnh, giành
lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Yếu tố thứ ba trong cấu trúc thế giới quan khoa học là lý tưởng cách
mạng. Lý tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc biệt trong
ý thức của con người dưới dạng hình tượng, kiểu mẫu hay chuẩn mực, mà con
người cần phải phấn đấu đạt tới. Lý tưởng cách mạng trong thế giới quan
khoa học là sự kết hợp giữa tri thức khoa học và niềm tin khoa học. Đó là lý
tưởng cao đẹp. Nó vừa là mục tiêu cao cả mà con người hướng tới, vừa là
động lực thôi thúc con người hành động. Thiếu lý tưởng con người sẽ mất
phương hướng, mất niềm tin và không thấy được giá trị đích thực của cuộc
sống. Chính lý tưởng khơi dậy sự nỗ lực nhận thức, sự nồng nhiệt của tình
cảm, sự mãnh liệt của ý chí và quyết tâm trong hành động giúp con người
vươn tới mục tiêu cao cả không quản gian khổ, hy sinh. Lý tưởng cách mạng
là sự thống nhất giữa tri thức, tình cảm, ý chí sẵn sàng hoạt động, trong đó
yếu tố tri thức khoa học đóng vai trị quan trọng nhất bởi lý tưởng chỉ thật sự
có tính hiện thực khi nó được xây dựng trên cơ sở niềm tin vững chắc vào
chân lý mà tri thức khoa học đem lại.
Lý tưởng cách mạng đóng vai trị định hướng đối với hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người. Nó là nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn
lên làm chủ của con người trong tự nhiên, xã hội và cả bản thân. Lý tưởng
đúng đắn, cao cả sẽ làm cho mỗi người hình thành niềm hy vọng lớn, góp
phần làm cho họ có thái độ, lập trường sống đúng đắn, lao động, học tập và
cơng tác tích cực, giúp cho họ vươn tới những giá trị cao đẹp như lòng nhân
ái, lòng vị tha và những phẩm chất chân, thiện, mỹ; giúp cho họ đấu tranh với

cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã hội và có thể sẵn sàng hy sinh
cả tính mạng của mình cho lý tưởng cao đẹp đó.
Ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan khoa học có mối
quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau và
thâm nhập vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Chỉ trên cơ sở của tri

18


thức khoa học mới hình thành nên một niềm tin khoa học, lý tưởng, lối sống
cao đẹp, nhân ái. Ngược lại, khi hình thành niềm tin khoa học, lý tưởng cách
mạng sẽ trở thành động lực, thúc đẩy chủ thể thế giới quan hoạt động, biến
những tri thức, ước mơ, hoài bão trở thành hiện thực. Từ khi ra đời cho đến
nay, thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân với hạt nhân là triết học
Mác - Lênin, có vai trị hết sức to lớn đối với hoạt động cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới dưới sự lãnh đạo của
các Đảng Cộng sản. Thế giới quan khoa học là vũ khí lý luận sắc bén của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Nó góp phần rất quan trọng để giúp cho
họ biết nhận thức và hành động đúng đắn trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, chống áp bức bóc lột và bất cơng vì hịa bình độc lập, dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Quan niệm về xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị
* Học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội cơ bản, dài hạn (5 năm) ở
Trường Sĩ quan Chính trị (sau đây được gọi tắt là học viên ở Trường Sĩ quan
Chính trị) là những quân nhân, học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, được
tuyển chọn chặt chẽ theo chế độ tuyển sinh quân sự (hoặc cử tuyển) của Bộ
Quốc phòng. Trong quá trình học tập rèn luyện tại trường, họ được hưởng các
chế độ chính sách theo quy định chung của Nhà nước và Quân đội; có nhiệm vụ

thực hiện kế hoạch học tập, rèn luyện theo mục tiêu yêu cầu đào tạo để trở thành
người cán bộ chính trị cấp phân đội, đảm nhiệm tiến hành các hoạt động CTĐ,
CTCT trong Quân đội, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Về phẩm chất chính trị - đạo đức: Học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
là những người được lựa chọn về phẩm chất, nhân cách đạo đức, là những
thanh niên có phẩm chất đạo đức tốt, lý lịch chính trị trong sạch, có ý thức
trách nhiệm cơng dân, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước. 100% là đoàn
viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, họ đã có nhận thức ban đầu về lý tưởng cách

19


mạng, vai trò, trách nhiệm của người thanh niên đối với dân tộc, với Tổ quốc,
với sự nghiệp cách mạng của Đảng, có niềm tin vào sự thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới đất nước. Họ là những người có tinh thần và trách nhiệm
trong học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học. Trong quá trình học tập, rèn
luyện, đại đa số đều thể hiện ý thức tổ chức kỷ luật tốt, chấp hành tốt nội quy,
quy chế của Nhà trường, điều lệnh, điều lệ của Quân đội.
Về năng lực trình độ: Học viên Trường Sĩ quan Chính trị là những
thanh niên được học tập cơ bản từ các trường phổ thơng hoặc qn nhân có
tuổi đời cịn trẻ; có thể lực tốt, có nền tảng tri thức cơ bản, tư duy nhanh nhạy,
linh hoạt, có khả năng nhận thức và giải quyết các vấn đề mới, mâu thuẫn
mới. Họ là những người ham hiểu biết, cầu tiến bộ, tích cực tìm tịi sáng tạo,
bước đầu lựa chọn lĩnh vực chính trị trong Qn đội làm nghề nghiệp. Trong
q trình học tập, rèn luyện, họ đã thể hiện phần nào tinh thần say mê nghiên
cứu các tri thức khoa học, nghệ thuật quân sự, tích lũy tri thức lý luận; có
năng lực vận dụng các kiến thức khoa học vào thực tiễn.
Về tâm, sinh lý và giao tiếp xã hội: Họ là những người có tâm, sinh lý,
trí tuệ phát triển tốt; có ước mơ, hồi bão, lý tưởng cách mạng. Họ có động

cơ, thái độ học tập, rèn luyện đúng đắn; tinh thần trách nhiệm cao trong học
tập và chấp hành kỷ luật; mong muốn được mở rộng giao tiếp, tham gia sinh
hoạt cộng đồng, thích hoạt động trong môi trường quân sự. Bước đầu đã thể
hiện khả năng tự giác, tự trọng, tự kiềm chế, kiểm soát bản thân và có độ
chín chắn nhất định trong quan hệ ứng xử giao tiếp, căn bản phù hợp với yêu
cầu học tập, rèn luyện tại Trường Sĩ quan Chính trị.
Tuy nhiên, vẫn còn một số học viên do nhiều nguyên nhân khác
nhau dẫn đến chưa định hình rõ xu hướng nghề nghiệp, còn băn khoăn,
trăn trở, suy nghĩ nhiều về gia đình, về cuộc sống hàng ngày; động cơ học
tập, rèn luyện chưa rõ ràng; còn xuất phát từ các lý do như: gia đình khó
khăn khơng đủ điều kiện học ngồi qn đội, theo ý muốn của gia đình, lời
khuyên của bạn bè, hoặc không đủ điểm vào các trường đại học và cao
đẳng khác, v.v.. Vì thế, một số học viên có biểu hiện ít quan tâm phấn đấu, rèn

20


luyện, khả năng tự kiềm chế kém, độ chọn lọc, lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm
thực tiễn còn hạn chế. Số này tuy ít, nhưng nếu khơng phát hiện, quản lý, có
phương pháp giáo dục, rèn luyện kịp thời sẽ dễ lây lan, chi phối, tác động
không nhỏ đến động cơ, thái độ học tập, rèn luyện của họ và các học viên khác.
Bên cạnh đó, ở một số học viên kinh nghiệm sống cịn hạn chế, trình độ
nhận thức, sự hiểu biết về xã hội, sự nhạy cảm về chính trị chưa nhiều, đặc
biệt là đối tượng học viên từ học sinh phổ thông. Với hơn 80% học viên xuất
thân từ nông dân, nông nghiệp, nông thôn nên một bộ phận học viên cịn chịu
ảnh hưởng thói quen, tập tục từ thành phần xuất thân và nơi cư trú; nhiều dấu
ấn (bao gồm cả tích cực và tiêu cực) của văn hóa địa phương tác động đến
xây dựng thế giới quan của họ.
Những thiếu hụt, bất cập trên, chẳng những làm hạn chế việc tiếp nhận
tri thức trong quá trình đào tạo, mà cịn làm cho việc giáo dục, xây dựng thế

giới quan khoa học của họ gặp những khó khăn, cản trở nhất định.
Từ khái niệm thế giới quan khoa học và những đặc điểm của học viên
Trường Sĩ quan Chính trị, tác giả quan niệm thế giới quan khoa học của học
viên Trường Sĩ quan Chính trị là những tri thức khoa học, niềm tin cộng sản
và lý tưởng cách mạng được hình thành và phát triển ở người học trong môi
trường hoạt động ở Trường Sĩ quan Chính trị.
Về mặt nguyên tắc, thế giới quan khoa học của học viên Trường Sĩ
quan Chính trị hồn tồn tương đồng với nội dung của thế giới quan khoa
học. Sự khác biệt chỉ ở chỗ có sự giới hạn về phạm vi và cấp độ. Về bản chất,
thế giới quan khoa học của học viên Trường Sĩ quan Chính trị là sự phản ánh
của thế giới quan khoa học nói chung thơng qua lăng kính chủ quan của họ
trong môi trường quân sự đặc thù và chịu sự chi phối bởi các đặc điểm của
bản thân học viên. Tư duy và nhận thức về thế giới quan khoa học của học
viên Trường Sĩ quan Chính trị cũng tuân theo quy luật con đường biện chứng
của quá trình nhận thức chân lý dưới tác động của tính đặc thù mơi trường
hoạt động thực tiễn quân sự ở Trường Sĩ quan Chính trị.

21


Ngoài các biểu hiện chung, thế giới quan khoa học của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị cịn thể hiện một phẩm chất quan trọng của người
cán bộ chính trị hoạt động trong môi trường quân sự là khả năng trực giác
quân sự và nhạy bén chính trị. Do đặc thù môi trường đào tạo, hệ thống tri
thức trang bị cho học viên chủ yếu là các tri thức liên quan đến lĩnh vực qn
sự, chính trị. Ở đó, khả năng trực giác quân sự của học viên thể hiện ở sự
nhanh nhạy nắm bắt tình hình, nhận thức các tình huống phức tạp, chớp thời cơ để
ra quyết định hành động nhanh chóng, chính xác; tạo thế, tạo thời phù hợp cho
hoạt động lâu dài. Đồng thời, họ cần có tư duy chính trị nhạy bén, biết tổng hợp và
phân tích tình hình thực tế, thấy khuynh hướng vận động phát triển để đề ra chủ

trương, biện pháp giải quyết phù hợp. Theo M.V.Phrunde, “trong lĩnh vực chính
trị thuần tuý cũng như trong lĩnh vực quân sự, muốn trở thành nhà chiến lược giỏi
phải có những phẩm chất riêng biệt, trong đó phẩm chất quan trọng nhất là cái mà
người ta gọi là trực giác, tức là khả năng phân tích một cách nhanh chóng, tìm ra
tất cả tính chất phức tạp của các hiện tượng xung quanh, dừng lại ở cái chủ yếu
nhất và trên cơ sở tính tốn, xét đến cùng cái chủ yếu nhất đó là vạch ra một kế
hoạch đấu tranh và công tác nhất định” [26, tr. 206 - 207].
Trong thực tế, để có được thế giới quan khoa học hồn thiện phải trải
qua quá trình lâu dài. Đối với học viên đang học tập, rèn luyện tại Trường Sĩ
quan Chính trị, thế giới quan khoa học của họ bắt đầu xây dựng định hình, tạo
nền tảng cho sự tiếp tục phát triển về sau. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến
tính ổn định chưa cao trong thế giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ
quan Chính trị. Đối với họ, thế giới quan khoa học được xây dựng hình thành
từ năm học thứ nhất và hoàn thiện dần trong những năm học tiếp theo. Với
đặc điểm tuổi đời còn trẻ, tuổi quân ít, chưa được tham gia nhiều hoạt động
thực tiễn quân sự, ít được trải nghiệm trong các hoạt động chính trị - xã hội,
nên tư duy ở trình độ lý luận cũng như vốn sống, kinh nghiệm hoạt động thực
tiễn còn hạn chế. Lượng tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội mà họ
tiếp thu trước khi vào trường còn ở mức độ nhất định; những tri thức về kinh
nghiệm sống chưa phong phú, tính sáng tạo còn thiếu cơ sở vững chắc. Đặc biệt

22


là tri thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các tri thức
khoa học khác cịn hạn hẹp, chưa đạt đến trình độ kỹ năng, kỹ xảo để tham gia
giải quyết các vấn đề thực tiễn có hiệu quả. Tất cả những biểu hiện thế giới quan
khoa học của học viên còn ở dạng khả năng và chưa hồn thiện. Vì vậy, cần thiết
phải xây dựng thế giới quan khoa học cho họ, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo,
phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

* Xây dựng thế giới quan khoa học của học viên Trường Sĩ quan Chính trị
Trong q trình sống, con người khơng ngừng nhận thức và cải tạo thế
giới khách quan để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu và mục đích của mình. Với
sự biến đổi, phát triển nhanh chóng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan đòi hỏi nhận thức của con người cũng phải có sự vận động, phát
triển tương ứng. Trong tiến trình đó, thế giới quan là một trong những tiêu chí
cơ bản để đánh giá trình độ và nhân cách của con người. Với thế giới quan
đúng đắn, con người sẽ có phương pháp luận khoa học cho nhận thức và hành
động. Thế giới hiện nay đang hiện hữu những nghịch lý chi phối đến đời sống
con người. Đó là nghịch lý về sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
hiện đại cùng tồn tại với sự gia tăng của tín ngưỡng, tôn giáo, đời sống tâm
linh; là sự khủng hoảng, thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện thực song song
với sự điều chỉnh để thích nghi của chủ nghĩa tư bản, v.v.. Những nghịch lý đó
làm thay đổi cách nhìn của con người về thế giới, thậm chí bao gồm cả tâm lý
hoài nghi, dao động về con đường XHCN mà nước ta đang xây dựng. Những
vấn đề trên cùng với thực tiễn hoạt động quân sự trong tình hình mới địi hỏi
cần thiết phải xây dựng cho học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị có được thế
giới quan khoa học, đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình đào tạo ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Theo Từ điển Tiếng Việt, xây dựng được hiểu là “làm cho hình thành
một chỉnh thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo một phương hướng
nhất định”, hoặc có thể được quan niệm là “tạo ra, sáng tạo ra cái có giá trị
tinh thần, có ý nghĩa trừu tượng” [38, tr. 1411].

23


Thế giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị khơng
được hình thành tự phát hoặc từ ý muốn chủ quan của họ, mà phải trải qua
quá trình xây dựng, bồi dưỡng, phát triển lâu dài trong thực tiễn học tập, rèn

luyện trong môi trường sinh hoạt, học tập ở nhà trường quân sự có mục đích, có
lý tưởng rõ ràng. Q trình xây dựng, hình thành thế giới quan khoa học của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị chịu sự chi phối tác động của các điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan, giữa quá trình đào tạo và tự đào tạo trong mơi
trường qn sự, hướng tới sự hồn thiện về tri thức, niềm tin, lý tưởng.
Từ đó, tác giả quan niệm xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị là tổng thể hoạt động của các chủ thể nhằm hình
thành ở người học viên hệ thống quan điểm đúng đắn về thế giới và vai trị của
con người trong thế giới đó, giúp họ hoàn thành tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Như vậy, xây dựng thế giới quan khoa học của học viên là tổng thể các
hoạt động của nhiều chủ thể, bao gồm các lực lượng giáo dục và cơ quan chức
năng của nhà trường, trong đó chủ thể lãnh đạo là Đảng ủy, Ban Giám hiệu;
chủ thể quản lý, giảng dạy là Phịng Chính trị, Phịng Đào tạo, các Khoa giáo
viên, các đơn vị quản lý học viên.
Đối tượng xây dựng thế giới quan khoa học là học viên đào tạo để trở
thành chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Họ vừa là khách thể,
vừa là chủ thể của q trình xây dựng. Ở vị trí khách thể, đối tượng xây dựng
chịu sự tác động, điều khiển của chủ thể xây dựng và sự chi phối của mục đích,
nội dung, phương thức xây dựng. Ở vị trí chủ thể xây dựng, họ thể hiện rõ vai trò
năng động, sáng tạo, chủ động, độc lập trong tiếp nhận và xử lý các tác động của
quá trình xây dựng, trực tiếp tạo nên hiệu quả, chất lượng của quá trình đó. Như
vậy, chủ thể trực tiếp, xét đến cùng quyết định chất lượng, hiệu quả xây dựng thế
giới quan khoa học chính là học viên. Họ vừa là đối tượng xây dựng, vừa là chủ
thể tự xây dựng; biến quá trình xây dựng thành quá trình tự xây dựng dưới sự định
hướng, dẫn dắt của các lực lượng giáo dục trong nhà trường.
Nội dung xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ
quan Chính trị phải được đảm bảo trên cả ba yếu tố cơ bản cấu thành của nó.

24



Đó là hệ thống tri thức khoa học cơ bản, toàn diện, hiện đại và phương pháp
tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
tri thức về CTĐ, CTCT và các kiến thức quân sự; xây dựng hệ thống niềm tin
vào chân lý những giá trị xã hội nhân đạo; hình thành cho học viên lý tưởng
sống cao đẹp, tiến bộ và tính tích cực, sẵn sàng hành động vì lý tưởng đó.
Thế giới quan khoa học là một thế giới quan duy vật hồn chỉnh, vì vậy
cùng với trang bị cho học viên những tri thức triết học Mác - Lênin cần phải
kết hợp với những tri thức của môn kinh tế chính trị Mác - Lênin và chủ nghĩa
xã hội khoa học. Ba môn khoa học cơ bản này đã làm sáng tỏ lơgíc lịch sử - tự
nhiên của sự phát triển xã hội, là hướng tới cách mạng xã hội do giai cấp cơng
nhân và đội tiền phong của nó lãnh đạo, là tiến tới một xã hội tương lai tốt
đẹp, một xã hội khơng cịn có sự áp bức bóc lột và bất cơng; người dân lao
động được làm chủ. Thông qua ba môn học cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
làm cơ sở để tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho học viên. Bên cạnh
đó, cần phải trang bị cho học viên những kiến thức về lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, bởi đó
là những nội dung vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Thông qua những kiến thức về lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, về tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, học viên
tự hào về lịch sử đấu tranh cách mạng, về sự nghiệp giải phóng dân tộc, về
CNXH, về con người sẽ giúp cho họ củng cố và nâng cao niềm tin vào thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới, vào con đường XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn. Đồng thời, cần phải giáo dục những tri thức khoa học tự
nhiên, xã hội, khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự bởi vì những tri thức đó
đã chứa đựng nội dung của thế giới quan khoa học và đã được khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và thực tiễn lịch sử chứng minh tính đúng đắn.
Một nội dung quan trọng cần trang bị cho học viên trong quá trình xây
dựng thế giới quan khoa học là hệ thống kiến thức về CTĐ, CTCT. Đó là tồn
bộ các ngun tắc, quan điểm, nội dung, phương pháp tiến hành CTĐ, CTCT

trong Quân đội nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về

25


mọi mặt của Đảng đối với quân đội, xây dựng Quân đội về chính trị, làm cơ sở
để phát huy yếu tố chính trị tinh thần, tạo nên sức mạnh chiến đấu tổng hợp của
Quân đội ta; giữ vững và phát huy bản chất giai cấp cơng nhân, tính nhân
dân, tính dân tộc, truyền thống tốt đẹp của Quân đội, bảo đảm cho Quân
đội trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; góp phần vào cuộc đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, làm thất bại chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ,
đập tan mọi âm mưu “phi chính trị hố qn đội”, tách Quân đội ra khỏi sự
lãnh đạo của Đảng. Về thực chất, các kiến thức về CTĐ, CTCT trang bị cho
học viên Trường Sĩ quan Chính trị chính là hệ thống quan điểm làm rõ vị
trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ các chủ thể trong hoạt động xây dựng
Quân đội về chính trị, chủ yếu là của người cán bộ chính trị cấp phân đội,
người chính trị viên trong tương lai.
Nội dung xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ
quan Chính trị bao gồm nhiều yếu tố, là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa
tri thức khoa học, niềm tin cộng sản, lý tưởng cách mạng trong một chỉnh thể
thống nhất hữu cơ, khơng tách rời. Do đó, trong q trình xây dựng thế giới
quan khoa học của đối tượng này cần phải tiến hành xây dựng đồng thời các
yếu tố, các bộ phận cấu thành, trong đó chú trọng trang bị hệ thống tri thức
toàn diện với hạt nhân là triết học Mác - Lênin.
Xây dựng thế giới quan khoa học của học viên ở Trường Sĩ quan Chính
trị khơng chỉ phụ thuộc vào việc xác định mục tiêu, yêu cầu, lựa chọn nội
dung chương trình mà cịn phụ thuộc vào phương thức xây dựng. Phương
thức xây dựng thế giới quan khoa học cho học viên hết sức phong phú, đa
dạng: có thể được thực hiện thơng qua nội dung các môn học, các bài giảng

của giảng viên, hoạt động nghiên cứu khoa học, các nội dung bồi dưỡng, giáo
dục chính trị, sinh hoạt chính trị, nói chuyện thời sự, tham quan bảo tàng, di
tích lịch sử, văn hóa, các cuộc thi tìm hiểu, v.v.. Đặc biệt chú trọng đến hoạt
động rèn luyện thực tiễn của học viên trong quá trình học tập kết hợp với thực

26


×