Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.85 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I. Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.2. Quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
1.2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vơ sản
1.2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do đảng cộng sản lãnh đạo
1.2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết
toàn dân tộc, lẩy liên minh công - nông làm nền tảng
1.2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
1.2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng
Chương II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
của Đảng cộng sản trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay.
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
của Đảng cộng sản
2.1.1. Những kết quả đạt được
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng cộng sản trong sự nghiệp cách mạng Việt
Nam hiện nay
2.2.1. Kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
2.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng với
yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử mới.
2.2.3. Tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân mà nịng cốt là liên


minh cơng-nơng-trí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực, tự cường
2.2.4. Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Năm 1920, sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương những vấn đề về dân
tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã xác định
được con đường giải phóng dân tộc là cách mạng vơ sản, bắt đầu hình thành những nội
dung cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam. Trải qua thời gian dài nghiên cứu và áp
dụng trong thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đúc rút ra những tư tưởng sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Có thể hiểu, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, kết quả của việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi. (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2011).
Tư tưởng Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học và cách mạng, là hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng
thế giới. Những vấn đề cơ bản mà tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập đến bao gồm vấn đề
về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vấn đề về đại đồn kết tồn dân và đại
đoàn kết quốc tế; vấn đề về văn hóa, tư đạo đức, con người. Tư tưởng của Người là tài

sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Nhân kỷ niệm 130 năm ngày
sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng nhận định: “Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt
Nam đều gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự soi đường, dẫn dắt
của tư tưởng Hồ Chí Minh”. Thực vậy, hơn nửa thế kỷ từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi
xa, nhưng tư tưởng của Người, phong cách của Người vẫn là kim chỉ nam cho mọi
hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Cho đến nay, những giá trị của tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn được Đảng vận dụng vào thực tiễn cách mạng của nước ta,
tiêu biểu là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, hiện
nay, do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau, việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ít nhiều gặp phái trở ngại. Chính bởi vậy,
việc nghiên cứu, tìm ra cách thức đã vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong
điều kiện cụ thể hiện nay là rất cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu về cả lí luận và thực tiễn, em xin chọn đề tài: “Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng cộng sản trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay” làm đề tài kết thúc học phần Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
NỘI DUNG


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2011) nêu khái
niệm tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả
của việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản vơ cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,

mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Khái niệm trên đây đã chỉ rõ nội hàm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở
hình thành cũng như ý nghĩa của tư tưởng đó, cụ thể:
Một là, khái niệm này đã nêu rõ bản chất khoa học và cách mạng cũng như nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống quan điểm tồn diện và sau
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề có
tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm
tồn diện và sâu sắc về mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Để đạt được mục tiêu đó, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu này đúng theo lí luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của
Nhà nước cách mạng; xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam
yêu nước, xây dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức cách
mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế
hịa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển; với phương pháp cách mạng phù hợp…
Hai là, nêu lên cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác –
Lênin – giá trị cơ bản nhất trong quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng đó.
Đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh cịn bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tiếp thu các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, khái niệm đó dã nêu lên ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định
tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Cùng với chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành làm nên nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Khái niệm trên cũng là sự ghi nhận quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi Đảng ra đời (1930) và trải qua các thời kỳ
của cách mạng Việt Nam. Các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ln khẳng định
cơng lao vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và khẳng định tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những nhân tố không thể thiếu trong tư tưởng và



hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam
(2016) nhấn mạnh rằng, phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn.
1.1.2. Quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc là một cuộc cách mạng nhằm tạo nên một quốc
gia tự do với mục đích chính là xóa bỏ sự thống trị của các nước khác (đế quốc, thực
dân), giành độc lập dân tộc, xóa bỏ chế độ thực dân và áp bức bóc lột, từ đó trở thành
một quốc gia đúng nghĩa, có quyền tự quyết về các vấn đề đối nội và đối ngoại.
Nói về cách mạng giải phóng dân tộc, Lênin là người có cơng lao vơ cùng to
lớn trong việc phát triển chủ nghĩa Mác về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa
tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, đẩy mạnh việc xâm chiếm thuộc địa, tiến
hành các cuộc chiến tranh đế quốc thì vấn đề dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề chính
trị thực tiễn cơ bản, cấp bách đối với các đảng cộng sản và cơng nhân. Vì thế,
V.I.Lênin đã dành nhiều cơng sức nghiên cứu vấn đề này và hình thành lí luận khoa
học về con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa, thể hiện trong một số tác phẩm,
như: Về cương lĩnh dân tộc của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (1913), Về
quyền dân tộc tự quyết (1914), Cách mạng xã hội và quyền dân tộc tự quyết (1916),
Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa (1920)
…Xuyên suốt trong các tác phẩm đó là tinh thần: các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các
dân tộc được quyền tự quyết; liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại.
Theo V.I.Lênin, cách mạng vơ sản ở chính quốc phải gắn liền với cách mạng
giải phóng dân tộc thuộc địa; và để giải quyết triệt để vấn đề dân tộc, cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa phải vận động theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Giải
phóng dân tộc thuộc địa khơng chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là điều kiện bảo
đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và những người cộng
sản ở chính quốc. Trong điều kiện mới, việc thực hiện cương lĩnh dân tộc phải gắn liền
với phong trào cách mạng thế giới và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Khẩu

hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” đã được V.I.Lênin phát triển thành khẩu hiệu
“Vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, trở thành khẩu hiệu hành
động chung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên
tồn thế giới.
Thơng qua việc lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
Xô-viết cũng như sáng lập và lãnh đạo Quốc tế Cộng sản (tháng 3-1919), V.I.Lênin đã
làm hết sức mình vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và Người xem đó là
một trong những mục tiêu, nhiệm vụ có tính sống còn của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Được soi sáng bởi chủ nghĩa Lênin, với niềm cảm hứng mãnh liệt từ tấm gương Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, với sự giúp đỡ có hiệu quả từ Quốc tế Cộng sản do
V.I.Lênin sáng lập, nhân dân lao động ở nhiều nước thuộc địa đã thức tỉnh, vùng dậy
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũ và mới để giành độc lập, tự do. Nhiều


quốc gia, dân tộc sau khi tự giải phóng khỏi xiềng xích của đế quốc, thực dân đã lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa góp phần tạo nên ba dòng thác vĩ đại của phong trào
cách mạng thế giới trong thế kỷ XX. Đồng thời, qua thực tiễn phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa và từ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các chính
đảng cộng sản, cơng nhân đã bổ sung nhiều luận điểm, quan điểm có giá trị vào kho
tàng lý luận Mác-Lênin, trong đó có những luận điểm ghi đậm dấu ấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Trước sự thất bại của những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp vào
cuối thé kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, một vấn đề cấp bách đặt ra cho cách mạng Việt Nam
là cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải đi theo con đường nào, do ai
lãnh đạo, lực lượng và phương pháp cách mạng ra sao…? Hồ Chí Minh đã có lời giải
đáp và đưa cách mạng Việt Nam đi đến thành cơng.
1.2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị nước ta, vấn đề

sống còn của dân tộc được đặt ra là phải đấu tranh để giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của thực dân đế quốc. Hàng loạt những phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng
khơng thành cơng, khiến cho phong trào giải phóng dân tộc lâm vào bế tắc trong một
thời gian dài. Vượt qua tầm nhìn của các bậc tiền bối thời bấy giờ, Hồ Chí Minh có chí
hướng là muốn tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở phương Tây, như
Người đã nói: “Tơi muốn đi ra nước ngoài, xem Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Nhưng qua tìm hiểu
thực tế sau đó, Người quyết định khơng chọn con đường cách mạng tư sản vì cho rằng:
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã bốn lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng
cịn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức”.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi. Cuộc cách mạng này
có ý nghĩa quan trọng đối với Hồ Chí Minh trong việc tìm mục tiêu và lựa chọn con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì sau khi nghiên cứu kỹ cuộc cách mạng trên,
Người kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang
bên An Nam...Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Nhưng có
thể khẳng định rằng, bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lênin mà Hồ Chí Minh đọc vào tháng 7/1920 dã giúp Người tìm
thấy ở đó con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” . Đây là
con đường cách mạng triệt để, sâu sắc và toàn diện nhất, phù hợp với yêu cầu của cách


mạng Việt Nam và quy luật phát triển của thời đại. Sau này, trong bài Con đường dẫn
tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người kể lại: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo:

“Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”. Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tể thứ ba” .
Con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh tiếp thu ở Luận cương của Lênin đã
được Người vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cách mạng Việt Nam: giải
phỏng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp nhưng giải phóng dân tộc phải được coi là
nhiệm vụ hàng đầu; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Khác với C.Mác và Ph.Ănghen khi hai ơng đặt vấn đề giải phóng giai cấp lên
hàng đầu trong cách mạng vô sản ở châu Âu, Hồ Chí Minh trong khi nêu lên mối quan
hệ chặt chẽ giừa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở nước ta, Người đặt vấn đề
giải phóng dân tộc lên trên hết, trước hết. Vì trong quá trình phân tích xã hội thực dân
và phong kiến ở nước ta, Người thấy rõ hai mâu thuẫn đối kháng, cơ bản tồn tại khách
quan: mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, trong đó mâu thuẫn dân tộc là mâu
thuẫn đối kháng, bao trùm. Từ đó, Hồ Chí Minh vạch rõ cách mạng dân tộc dân chủ có
hai nhiệm vụ chiến lược: đánh đổ thực dân Pháp để giải phóng dân tộc, đánh đổ địa
chủ phong kiến để mang lại ruộng đất cho nơng dân, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cịn nhiệm vụ dân chủ (đánh đồ địa chủ phong kiến...) rải ra
thực hiện và phải phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin và Nghị
quyết Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928), Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo trong việc
vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng năm 1930, Người đã chỉ rõ cách mạng nước ta phải làm tư sản dân quyền
cách mạng và thồ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sàn, tức là độc lặp dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Nói tóm lại, con đường cách mạng vơ sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự
vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng vô sàn của chủ nghĩa chủ nghĩa Mác- Lênin
trong điều kiện cách mạng Việt Nam.
1.2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc, trong điều kiện của Việt Nam, muốn
thắng lợi phải do đảng cộng sản lãnh đạo
Học thuyết Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chi rõ: Đảng
Cộng sản là nhân tố chủ quan để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của

mình. Căn cứ vào lý luận nói trên và thực tế các tổ chức cách mạng nước ta trước đây,
Hồ Chí Minh khẳng định vai trị quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách
mạng giải phóng dân tộc. Để làm rõ vai trị quan trọng, sự cần thiết phải có của tổ chức
đảng cách mạng, Người giải thích: Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác
ngộ...phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu...phải hiểu phong triều thế giới,
phải bày sách lược cho dân...Vậy nên “sức mạnh cách mệnh phải tập trung, muốn tập


trung phải có đảng cách mệnh”. Và cũng trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927),
Người kết luận: Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh, để vận động và tổ chức
quần chúng Việt Nam cũng như liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi.
Đồng thời, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, theo Hồ Chí Minh để
lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi thì đảng đó phải vừa là đội tiên
phong của giai cấp cơng nhân vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động kiên quyết
nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân
Đảng đó là Đảng của cả dân tộc Việt Nam đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (1951), Người viết rằng chính vì Đảng
Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó
phải là Đảng cùa dân tộc Việt Nam. Với tư tưởng trên, Hồ Chí Minh đã giúp Đảng
đoàn kết toàn dân, giành thắng lợi trong đấu tranh cách mạng, mang lại độc lập cho
dân tộc tự do cho nhân dân.
1.2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết
toàn dân tộc, lẩy liên minh công - nông làm nền tảng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra một chân lý: cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân; quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Lênin khẳng định:
“Khơng có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong
của mình tức là đối với giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện
được”. Tiếp thu lý luận nói trên và với thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh ln quan niệm ràng: có dân là có

tất cả, trên đời này khơng gì q bằng dân, được lịng dân thì được tất cả, mất lịng dân
thì mất tất cả. Người khẳng định: “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người”. Và Người giải thích cặn kẽ rằng: dân tộc cách mệnh thì chưa
phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Cụ thể và sáng tỏ hơn, trong Sách lược vắn tắt của Đàng năm 1930, Hồ Chí
Minh xác định lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân. Người viết rằng, Đảng phải
thu phục đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng…
để lơi kéo họ về phía vơ sản giai cấp; cịn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư
bản Việt Nam mà chưa rỗ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ
trung lập.
Bước vào hai cuộc kháng chiến ttường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, Hồ Chí Minh tiếp tục nhất quán với tư tưởng luôn biết dựa vào dân, coi dân
là gốc. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (12/1946), Người thiết tha kêu gọi:
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải dửng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”.
Và trong khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, Hồ Chí Minh coi cơng nơng là
chù cách mệnh, cơng nơng là gốc cách mệnh. Người giải thích rằng, giai câp công


nhân và nông dân là hai giai cấp đông đảo và cách mạng nhất, bị bóc lột nặng nề nhất,
nên “lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết ...cơng nơng là tay khơng
chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên
họ gan góc”. Với việc xác định lực lượng cách mạng là tồn dân, Hơ Chí Minh đã
đoàn kêt được toàn thể dân tộc, đánh thắng hai kẻ thù nguy hiềm nhất, hùng mạnh nhất
của thế giới: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
1.2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc
Đây là luận điểm đặc biệt độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở lý
luận Lênin và quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Vào những năm 20 của thế kỷ XX,

nhất là sau khi Lênin mất, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế xuất hiện
quan điểm xem nhẹ, hạ thấp vai trò của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng thuộc địa
phụ thuộc hồn tồn vào cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đại hội VI Quốc tế cộng sản
(1928) đã thông qua Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó cho rằng: chỉ có thể thực hiện hồn tồn cơng
cuộc giải phóng các nước thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được tháng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến.
Thấm nhuần tư tưởng của Lênin, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã thấy được mối
quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng
vơ sản ở chính quốc. Năm 1924, tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản, Người nói: “Vận
mệnh của giai cấp vơ sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các
nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa”. Và để nhấn mạnh, khẳng định sự gắn bó khăng khít của hai cuộc cách mạng nói
trên, trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Người viết: “Chủ nghĩa tư
bản là một con đỉa có một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi
khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải
đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vịi thơi, thì cái vịi còn lại kia vẫn
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại
sẽ mọc ra”.
Là một người dân thuộc địa, là người cộng sản nghiên cứu rất kĩ về chủ nghĩa
đế quốc, trong khi nêu lên mối quan hệ mật thiết giữa hai cuộc cách mạng nói trên, căn
cứ vào các cơ sở khách quan như vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thuộc địa, tinh thần
đấu tranh của các dân tộc, luận điểm của C.Mác...Người đã sớm dự báo khả năng
thắng lợi nước của cách mạng thuộc địa so với cách mạng vơ sản ở chính quốc. Trong
bài báo Đông Dương, Người dự báo: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị
tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lịng tham
khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”. Thực



tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới
đã minh chứng cho luận điểm trên của Hồ Chí Minh là đúng đắn và sáng tạo.
1.2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng
Trong bộ Tư bản, quyển I, tập thứ nhất, xuất bản làn đầu tiên năm 1867,
C.Mác viết: “Bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ
mới”. Năm 1878, trong tác phẩm Chống Đưyrinh, Ph.Ăngghen nhắc lại: “Bạo lực cịn
đóng một vai trị khác trong lịch sử, vai trị cách mạng; nói theo C.Mác, bạo lực còn là
bà đỡ cho một xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới; bạo lực là công cụ mà sự vận
động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan tành những hình thức chính trị
đã hóa đá và chết cứng”. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, với
kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga và cách mạng thế giới, V.I.Lênin khẳng
định tính tất yếu cùa bạo lực cách mạng, làm sáng tỏ hơn vấn đề bạo lực cách mạng
trong học thuyết về cách mạng vô sản: không có bạo lực cách mạng thì khơng thể thay
thế nhà nước tư sản bàng nhà nước vơ sản được.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo, phát triển quan điêm bạo lực
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói trên vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam như sau:
Về tính tất yếu của bạo lực cách mạng trong đấu tranh giải phóng dân tộc,
Người chỉ rõ: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc,
cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền
và bảo vệ chính quyền''. Người luận giải thêm: vì ngay như hành động mang quân đi
xâm lược của thực dân đế quốc đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, thì “Chế độ
thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”
Về hình thức bạo lực, thấm nhuần tư tưởng ‘‘cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng” của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, bạo lực cách mạng ở đây
là bạo lực của quần chúng với hai lực lượng và hai hình thức đấu tranh: chính trị và
qn sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên, cũng phải căn cứ vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà áp dụng các hình thức đấu tranh thích hợp. Người viết:

“Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp,
sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị
để giành thắng lợi cho cách mạng”
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Người kêu gọi: “Hỡi đồng bào...bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước”.


Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đứng trước mn vàn khó
khăn về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...đặc biệt là thực dân thực dân Pháp lại có dã
tâm dùng sức mạnh quân sự, đánh nhanh thắng nhanh để cướp nước ta một lần nữa.
Đứng trước một kẻ thù hung hăng và một chiến lược quân sự như vậy, Hồ Chí Minh
chủ trương kháng chiến trường kỳ. Người nói: “Địch muốn tốc chiến, tổc thắng. Ta lấy
trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”. Đầu năm
1965, khi đế quốc Mỹ tăng cường và mở rộng chiến tranh ra cả nước, đưa quân Mỹ và
chư hầu vào miền Nam thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, dùng không quân,
hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Người tiếp tục khẳng định
chúng ta có thể sẽ chiến đấu lâu dài: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!” . Kháng chiến lâu dài nhưng khơng có
nghĩa là vô thời hạn mà là tranh thủ thời gian để xây dựng, phát triển lực lượng kháng
chiến ngày càng lớn mạnh.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ sự giúp đỡ của dân tộc khác thì dân tộc đó khơng
đáng để hưởng nền độc lập của dân tộc mình. Trong tác phẩm Đường cách mệnh,

Người viết: muốn người ta giúp cho thì mình phải tự giúp lấy mình đã. Tự lực cánh
sinh nhưng phải tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình và giúp đỡ của quốc tế, đây cũng là nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Và nét độc đáo cuối cùng là sự thống nhất biện chứng giữa quan điểm bạo lực
cách mạng với quan điểm nhân đạo và hồ bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh ln tranh thủ mọi khả năng có thể, để giành và giữ nền độc lập dân tộc mà ít
mất mát, hy sinh, ít đổ máu nhất. Người tìm mọi cách để hạn chế xung đột, chiến
tranh, giải quyết vấn đề trên cơ sở hồ bình, thương lượng thậm chí nhượng bộ nhưng
nhất quyết khơng để quyền lợi quốc gia, lợi ích của dân tộc bị xâm phạm.
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
của Đảng cộng sản
2.1.1. Những kết quả đạt được
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn
ý thức sâu sắc vị thế của Ðảng duy nhất cầm quyền. Theo đó, "mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng
vơ tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đày tớ thật trung thành của nhân dân". Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 đã hiến định: Ðảng Cộng sản Việt Nam - Ðội tiên phong của giai cấp


công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Ðảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết
với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Ðảng và đảng viên
Ðảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Việc

khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng là tư tưởng xuyên suốt, nhất qn, là vấn đề có
tính ngun tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị
- xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, từ năm 1975 đến nay, Đảng, Nhà nước ta
luôn nhất quán thực hiện "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Bài học đầu
tiên được Đảng rút ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) là: "Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá
trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc".
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016), Đảng ta một lần nữa khẳng
định phải "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi
mới". Đây là chủ trương đúng đắn và cũng là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.
Bên cạnh đó, để tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đổi
mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phải tiếp tục xây dựng lực lượng đại
đồn kết dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Khơng đồn kết thì suy và mất.
Có đồn kết thì thịnh và cịn. Chúng ta phải lấy đồn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ
gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà". Đồng thời, Người ln nhấn mạnh: "Đồn kết, đồn
kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng"; "đồn kết tồn dân", "đồn
kết quốc tế". Thực hiện lời dạy ấy, trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta đã phát
huy tối đa sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc, góp phần quan trọng làm nên nhiều
thành tựu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc của
Đảng cộng sản trong tình hình hiện nay đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta thực hiện một cách nghiêm túc, có sự kế thừa, phát triển và vận dụng một cách sáng
tạo để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Nhiều thành tựu mà nước ta đạt
được trong thời gian qua là chính minh chứng cho q trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn còn tồn tại
những hạn chế, cụ thể:

Về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời
sống của nhân dân vẫn cịn nhiều khó khăn. Cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán
triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Ðảng hiệu quả chưa cao, chưa tạo được


sự lan tỏa lớn. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa
xác định rõ trách nhiệm và chưa thật sự gương mẫu trong rèn luyện, giữ gìn phẩm
chất, đạo đức, lối sống, tác phong, cịn trục lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Ðặc
biệt, có cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu, đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật
của Ðảng, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân.
Về thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trước những thời
cơ, vận hội và khó khăn, thách thức đan xen, bên cạnh những thành tựu về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, chúng ta đang phải đối mặt với những
hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội;
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với các biểu hiện cá nhân chủ
nghĩa, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tha hóa quyền lực trong Đảng và hệ
thống chính trị chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách triệt để. Trong khi đó, trên bình
diện quốc tế, tác động tiêu cực của bạo loạn lật đổ chính quyền ở một số nước Bắc Phi,
xung đột sắc tộc, tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài
nguyên, nhất là vấn đề tranh chấp Biển Đông đang diễn biến phức tạp. Các thế lực
phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”, lợi dụng mạng xã hội
kích động biểu tình, bạo loạn, lật đổ, chống phá quyết liệt cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Không chỉ lợi dụng các chiêu bài bôi nhọ, phủ nhận thành tựu
về mọi mặt của Việt Nam, các thế lực phản động còn phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản - nhân tố quyết định cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội; phủ nhận
và cho rằng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là sai lầm, dẫn đến nước nhà tụt hậu.
Tất cả những yếu tố đó đã và đang đặt ra yêu cầu vừa cấp thiết vừa kiên trì để bảo vệ
độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước và kiên định con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về xây dựng lực lượng đại đoàn kết dân tộc, cùng với sự chuyển biến sâu sắc
về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội nhiều vấn đề mới đã và đang nảy sinh trong quá
trình đổi mới. Đó là xã hội, giai cấp, tầng lớp, nhóm dân cư đang trong q trình phân
hóa. Xuất hiện sự chênh lệch ngày càng lớn về mức thu nhập và hưởng thụ giữa các
vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nhân lao động ở các khu công
nghiệp với những người lao động có chun mơn, tay nghề trong các lĩnh vực ứng
dụng công nghệ cao, giữa người đương chức và người về hưu… Sự phân hóa giàu
nghèo có chiều hướng gia tăng đã và đang ảnh hưởng lớn đến đại đoàn kết dân tộc.
Những đặc điểm nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến khối đại đoàn kết. Vì vậy, tuy đại
đồn kết tồn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường, song chưa thật
vững chắc và đang đứng trước những thách thức không thể xem thường. Các thế lực
thù địch trong và ngoài nước đã và đang khai thác những thiếu sót, yếu kém của ta
hịng phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.


2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc của Đảng cộng sản trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện
nay
2.2.1. Kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Kể từ khi nước nhà hịa bình, độc lập, thống nhất, non sông liền một dải đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành 9 kỳ Đại hội. Trong suốt hành trình đó, đặc
biệt là sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội được Đảng ta, nhân dân ta kiên định thực hiện, bất chấp sự chống phá
điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Đại hội lần thứ VII (1991), Đảng xác định: “Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình
cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”. Tiếp đó,
kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII

nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua
về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội Đảng lần thứ IX
cũng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh”. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng khẳng định
nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số
một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (2011) đã rút ra 5 bài học cơ bản
và tiếp tục nhấn mạnh bài học đầu tiên như đã nêu trong các văn kiện đại hội; đồng
thời, khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử”. Cương lĩnh nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và
những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con
đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
2.2.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng với
yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ lịch sử mới.


Theo quan điểm mác-xít, chính đảng là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp, là tổ
chức chính trị đại diện cho giai cấp và tập đoàn nhất định trong xã hội có giai cấp. Một
trong những chức năng cơ bản của chính đảng là phản ánh lợi ích, nguyện vọng và yêu

cầu của giai cấp, tầng lớp, tập đoàn nhất định. Do vậy, với Ðảng ta, trong quá trình
củng cố và mở rộng nền tảng xã hội của Ðảng thì vấn đề mấu chốt là Ðảng phải kiên
định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện mới, đồng thời lấy đó làm cơ sở để xây dựng nền tảng xã hội của Ðảng. Vì thế,
Ðảng khơng chỉ phải làm tốt vai trị là người lãnh đạo, mà còn phải làm tốt bổn phận
"là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".
Ðảng phải có đủ trí tuệ và bản lĩnh chính trị, đề ra đường lối, chủ trương đúng
đắn, vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên;
thực hiện trọn vẹn mục tiêu, lý tưởng Ðảng đã lựa chọn, xứng đáng với niềm tin tưởng
tuyệt đối của nhân dân. Là người "đày tớ", Ðảng và từng cán bộ, đảng viên phải phụng
sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân vơ điều kiện; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Ðể có thể làm tốt cả hai phận sự ấy, mỗi đảng
viên và cán bộ của Ðảng phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm
chính, chí cơng vơ tư. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về "Tăng cường và đổi mới
sự lãnh đạo của Ðảng đối với cơng tác dân vận trong tình hình mới" có ý nghĩa quan
trọng với vai trị lãnh đạo của Ðảng. Bởi, hơn bao giờ hết, mỗi cán bộ, đảng viên của
Ðảng phải thực sự "hết lịng vì dân", mới "được dân hết lịng vì Ðảng".
Mỗi cán bộ, đảng viên của Ðảng quán triệt và thực hiện tốt chức trách và công
việc được giao, kiên quyết đấu tranh phịng, chống các biểu hiện: "Miệng thì nói dân
chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng",
nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng". Nếu lãnh đạo chỉ thiên về quyền
lực "làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm", là
đồng nghĩa với lãnh đạo thiếu văn hóa. Văn hóa cầm quyền của Ðảng là phải "sao cho
được lịng dân", "Chính phủ là công bộc của dân".
Trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh
chấp hành Cương lĩnh, Ðiều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Ðảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện các quy định của Ban Bí thư, quy
định của Bộ Chính trị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu

gương, xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết; kiên quyết khắc
phục sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên; nâng cao lập trường cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của Ðảng; ra
sức học tập đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh
chống tham nhũng dưới mọi hình thức; nêu cao tính đảng, tính gương mẫu trong q
trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Ðó thực sự là một
mặt trận chiến đấu đầy cam go, phức tạp, khơng kém phần quyết liệt và có ý nghĩa


quyết định sự "mất, cịn" đối với uy tín lãnh đạo của Ðảng, lòng tin của nhân dân đối
với Ðảng.
2.2.3. Tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân mà nịng cốt là liên
minh cơng-nơng-trí, trên cơ sở phát huy tinh thần tự lực, tự cường
Các cấp ủy đảng và người đứng đầu cần phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại
trực tiếp với nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Cần thực hiện triệt để
Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban chấp
hành Trung ương”. Cán bộ, đảng viên phải xung phong, gương mẫu học tập, làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đồn kết và xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân học và làm theo.
Đảng và Nhà nước phải nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những
định hướng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đó là
lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc ta ngày nay là độc lập, tự do và cuộc sống ấm
no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội. Lợi ích đó thể hiện cụ thể hằng ngày trong mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng. Củng cố tăng cường
đồn kết hiện nay khơng thể chung chung mà phải gắn chặt với việc bảo đảm các lợi
ích đó. Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng cường đồn kết trong tình
hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước của nhân dân cần được tôn trọng. Pháp luật

phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự làm chủ như Hiến pháp đã quy
định. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua
yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đồn viên, hội viên và các giai tầng, các giới trong toàn dân tộc.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa dạng hóa các
hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; tăng
cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối hợp giữa chính quyền
các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm công tác
dân vận. Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân không chỉ là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị xã hội và của tồn dân. Do đó, qua hoạt động của mình, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động để góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn
luôn bền chặt, ý Đảng và lòng dân là một. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và quyết định đến
kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, để các chủ
trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích của nhân dân.


2.2.4. Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp, tác
động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách
mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái
Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là
trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lượcngày càng

quan trọng; đồng thời đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước
lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo trong khu vực và
trên Biển Đơng cịn diễn ra gay gắt. Đặc biệt, trước tình hình đại dịch CPVID – 19
vẫn đang diễn biến vô cùng phức tạp, việc phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, tranh
thủ sự ủng hộ, giúp đỡ cũng như hợp tác cùng phát triển trong cơng cuộc phịng chống
dịch bệnh là vơ cùng cần thiết.
Đối với nước ta hiện nay, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết có ý nghĩa
rất thiết thực, là cơ sở cho sự ổn định, phát triển và tạo nên nguồn lực to lớn cho cơng
cuộc đổi mới. Phát huy sức mạnh tồn dân tộc là rất cần thiết để tạo nên nguồn lực to
lớn đó. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, hội nhập quốc tế, chỉ có lợi
ích quốc gia – dân tộc mới là tiêu điểm chung để đoàn kết tất cả các giai cấp, tầng lớp
của dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Tuy nhiên, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết phải thể hiện rõ mục tiêu
phát triển dân tộc trong đường lối phát triển. Mục tiêu phát triển dân tộc quy định mọi
chủ trương, đường lối, chính sách phải vì lợi ích chung của toàn dân tộc, đảm bảo lợi
ích chính đáng của mỗi cộng đồng dân tộc, của mỗi người dân. Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết cần có những biện pháp rõ ràng và kiên quyết để đấu tranh với “lợi
ích nhóm”, một tệ nạn đang vận động rất phức tạp, là yếu tố hàng đầu đe dọa đến sự
đoàn kết thống nhất của dân tộc, mục tiêu cao nhất của đặt lợi ích quốc gia - dân tộc
lên trên hết hiện nay.
Cùng với việc nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, cần phải chủ động, tích cực
trong việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các quốc gia khác trên thế giới. Năm
2019 – 2020 đánh dấu một bước phát triển mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Phát
huy tinh thần đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, trong đại dịch COVID-19, Việt Nam
nổi lên như một “hình mẫu thành công” không chỉ với việc chặn đứng dịch ở trong
nước, mà còn với sự thể hiện trách nhiệm cao đối với bạn bè quốc tế. Cộng đồng quốc
tế cảm động trước những nghĩa cử cao đẹp của một dân tộc tuy cịn khó khăn, nhưng
sẵn sàng hỗ trợ cho bạn bè, đối tác; cảm phục trước tinh thần trách nhiệm phất cao
ngọn cờ đoàn kết ASEAN, hợp tác đa phương, kết nối các quốc gia để cùng nhau vượt
qua đại dịch thế kỷ. Có thể mạnh dạn nhận định, nếu như trong kháng chiến chống



Mỹ, Việt Nam là lương tri của nhân loại, thì hiện nay hình ảnh Việt Nam như một biểu
tượng nhân văn đang nổi bật trên thế giới.


KẾT LUẬN
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc phản
ánh nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do và công bằng, bình đẳng của khơng
chỉ dân tộc Việt Nam mà cịn là ý chí, nguyện vọng của mọi dân tộc bị áp bức, bóc lột
trên thế giới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. Có thể nói, giải phóng dân tộc là nguyện vọng cháy bỏng hơn bất cứ yêu cầu nào
khác. Nó là điều kiện tiên quyết cho mọi quyền tự do, dân chủ của con người.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách mạng
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kiên trì mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng của Người
vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vấn đề
quan trọng nhất được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là: Kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa và phát huy những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách amngj giải
phóng dân tộc, trong đại dịch COVID-19, Đảng và Nhà nước ta đã có sự chuẩn bị và
thực hiện cơng tác phịng chống dịch hết sức hiệu quả. Nhân dân ta nêu cao tinh thần
đại đoàn kết, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau đồng thời chung tay, góp sức giúp đỡ anh em,
bạn bè quốc tế cùng nhau đẩy lùi dịch bệnh. Có thể nói, dù trải qua bao nhiêu năm
tháng, những thăng trầm biến cố của lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là tài sản tinh
thần vô giá, là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, đưa
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả: Mạch Quang Thắng và hội đồng biên
soạn. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 2019.
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Tác giả: Trần Dân Tiên.
Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr.11.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.296.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.30.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.562.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.283.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.534.
Hồ Chí Minh: Tồn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2, tr.288.
V.I.Lênin: Tồn tập. Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1979. t.39, tr.251.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002,
t.23, tr.1043.
Ph.Ăngghen: “Chống Đuyrinh”, trong C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1994, t.20, tr.259.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, H,
2007, t.51, tr.129-130.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.68.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.83.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI. Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr.70.



×