Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA đại DỊCH COVID 19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.17 KB, 15 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆN ĐÀO ĐẠO QUỐC TẾ

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ KIẾN TẬP
“NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH COVID-19”

Giáo viên hướng dẫn: TS. Phạm Ngọc Trụ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Minh Trang
Mã sinh viên:

5093106369


CHƯƠNG I: THẾ MẠNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
Việt Nam là nước có lợi thế về sản xuất chè. Đây cũng là một trong những
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta. Hiện nay, ngành chè
không chỉ sản xuất ở trong nước mà cịn vươn ra tồn thế giới. Trong những
năm gần đây, ngành chè đã mang lại giá trị kinh tế lớn cho xã hội, tạo ra
nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần
phát triển nền nơng nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập và ảnh hưởng của đại
dịch Covid-19,  ngành chè nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức, khoảng
90% sản lượng chè xuất khẩu thô, giá bán lẻ và thương hiệu thấp. Ngồi ra,
hoạt động sản xuất chè cịn nhiều hạn chế. Nên trong giai đoạn tới, ngành
chè nên sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đổi mới quy trình sản xuất,
chế biến, nâng cao chất lượng và giá trị hàng xuất khẩu. Hạn chế những
khiếm khuyết và từng bước xây dựng nền công nghiệp phát triển bền vững,
đồng thời tăng cường xuất khẩu sang những thị trường lớn.
CHƯƠNG I: THẾ MẠNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
1. Diện tích trồng chè của Việt Nam
Theo thống kê của Hiệp hội Chè Việt Nam, tính đến năm 2020, nước ta


có 34 tỉnh, thành phố trồng chè ổn định với tổng diện tích 130.000 ha, năng
suất bình qn khoảng 8,0 tấn/ha, sản lượng chè khô đạt khoảng 192.000
tấn. Chè được trồng chủ yếu ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc và
chiếm khoảng 70% diện tích chè của cả nước, tiếp theo là Tây Nguyên
khoảng 19%; vùng Duyên hải miền Trung và Bắc Trung bộ có diện tích chè
chiếm đến 7,0% và khu vực đồng bằng Bắc Bộ là 4,0%. Một số tỉnh thành
phố có diện tích chè lớn: Thái Nguyên (21,5 nghìn ha), Hà Giang (21,0
nghìn ha), Phú Thọ (16,2 nghìn ha), Lâm Đồng (12,6 nghìn ha), Yên Bái
(7,8 nghìn ha), Tuyên Quang (8,5 nghìn ha).


2. Lợi thế trong nước
Những vùng đất này có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên, khí hậu ơn hòa,
thổ nhưỡng màu mỡ, giàu dinh dưỡng thuận lợi cho việc canh tác. Nên cây
chè sinh trưởng tốt, đạt năng suất cao và có vị ngon đặc trưng. Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng có nguồn lao động dồi dào và giá rẻ, tỷ lệ dân số trẻ cao.
Nguồn nhân lực dồi dào giúp cho việc trồng trọt, thu hoạch và sản xuất chè
được đẩy mạnh, đảm bảo đúng tiến độ thu hoạch khi cần thiết
3. Thị trường ngoài nước
Chè là thức ướng được tiêu thụ phổ biến nhất trên thế. Các số liệu đưa ra
tại Diễn đàn Chè Thế giới năm 2018 cho thấy trong số 1,6 triệu lít đồ uống
khơng cồn được tiêu thụ trên tồn thế giới, chè chiếm 266 tỷ lít. Tính trung
bình trên tồn cầu, mức tiêu thụ chè là 35,1 lít/người, cao hơn so với đồ
uống có gas (30,6 lít) và cà phê (21,1 lít).


Việt Nam hiện nay đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu chè và đứng thứ
7 về sản lượng chè toàn cầu. Sản phẩm chè của Việt Nam hiện đã được xuất
khẩu sang 74 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ba thị trường xuất khẩu chè lớn của
Việt Nam là Pakistan, Đài Loan và Nga. Pakistan đã đứng đầu danh sách

trong nhiều năm. Đây là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của nước ta.
Đứng vị trí thứ 2 là Đài Loan và kế đến là Nga. Ngoài ra, nước ta còn xuất
khẩu chè sang các nước khác như Đức, Ấn Độ, Ả Rập Xê Út, UAE, Thổ Nhĩ
Kỳ. Nhưng nhìn chung, về tổng sản lượng, tỷ trọng chè xuất khẩu của Việt
Nam vẫn còn ở mức thấp. Thị trường tiêu thụ chính vẫn là thị trường nội địa.
Mặc dù là nước xuất khẩu chè lớn thứ 5 trên thế giới, nhưng phần lớn chè
của Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường dễ tính, chưa có
nhiều sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường có yêu cầu cao về chất lượng
như EU, Hoa Kỳ... Đó là lý do tại sao cho đến nay, lượng chè xuất khẩu của
Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong mức tiêu dùng trên thế giới.
4. Thị trường trong nước
Với thị trường tiêu thụ trong nước chủ yếu là chè xanh. Điều này đi
ngược lại với cơ cấu xuất khẩu của mặt hàng chè đen. Nhu cầu sử dụng chè
của người dân Việt Nam vẫn ở mức cao, đặc biệt là trong các dịp lễ Tết hoặc
các ngày lễ khác và sự kiện quan trọng. Không chỉ dùng uống hàng ngày, trà
còn được dùng làm quà biếu thay lời chúc mừng, lời chào đón… Vì vậy,
tình hình tiêu thụ chè trong nước vẫn ở mức ổn định.
Trong những năm gần đây, ngoài tầng lớp trung niên và người cao tuổi,
sức tiêu thụ chè của giới trẻ cũng cũng có xu hướng tăng lên. Đồng thời, họ
có yêu cầu cao hơn về tính tiện lợi, nhanh chóng và thiết kế đẹp mắt.


5. Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất và xuất khẩu chè của Việt
Nam-Hiệp định thương mại tự do EVFTA, CPTPP
Việt Nam là quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương đã ký kết thành công Hiệp định thương mại tự do với EU, khẳng
định vai trò của Việt Nam và củng cố vị trí địa chính trị quan trọng ở khu
vực Châu Á – thái Bình Dương cũng như trên thị trường quốc tế. EU là thị
trường nhập khẩu lớn thứ hai về kim ngạch của nước ta, nhưng nước ta chỉ
chiếm khoảng 2% tổng kim ngạch nhập khẩu của EU. Tuy nhiên, kể từ

tháng 8 năm 2020, sau khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực, hầu hết
các mặt hàng nơng sản của Việt Nam (kể cả chè) sẽ được miễn thuế khi nhập
vào thị trường EU. Những ưu đãi từ các Hiệp định Thương mại tự do như
EVFTA, CPTPP…tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa
giữa hai bên, các doanh nghiệp chế biến chè Việt Nam có cơ hội mở rộng thị
trường, xúc tiến xuất khẩu chè sang thị trường EU.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2015-2019
1. Tổng quan lượng xuất khẩu chè của Việt Nam
 Trong giai đoạn năm 2015 – 2019, xuất khẩu chè tăng trưởng ổn định cả
về lượng và trị giá, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chè bình quân tăng 1,8% về
lượng và giảm 0,7% về trị giá. Các mặt hàng chè xuất khẩu chính của Việt
Nam vẫn là chè đen, chè xanh, chè ô long, chè nhài, chè đen OTC,v.v…
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, khối lượng xuất khẩu chè
năm 2015 ước tính đạt 124.575 nghìn tấn với giá trị đạt 212 triệu USD, giảm
6% về khối lượng và giảm 6,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014. Đến
năm 2016, xuất khẩu chè cả nước lần lượt tăng cả lượng và trị giá là 5,1% và


2,1% so với năm 2015 đạt tương đương 130,9 nghìn tấn , trị giá 217,2 triệu
USD.
Năm 2018, lượng chè xuất khẩu đạt hơn 127 nghìn tấn, giảm mạnh 8,7%
so với năm 2017 và có xu hướng tăng lên kể từ năm 2015. Kim ngạch xuất
khẩu chè đạt gần 218 triệu USD, giảm 4,4% so với năm trước. Xuất khẩu
chè năm 2019 tăng trở lại, đạt gần 137,4 nghìn tấn, tăng 8% so với năm
2018. Theo đó, giá trị xuất khẩu chè ước đạt 236 triệu USD, tăng 8,8%.
Trong đó, tỷ trọng chè đen và chè xanh lần lượt là 39,7% và 39,6%.
Hình 1. Biểu đồ lượng xuất khẩu chè trong giai đoạn 2015-2019

Nguồn: VietnamCredit

2. Các thị trường nhập khẩu trọng điểm của Việt Nam
Ba thị trường xuất khẩu chè chính của Việt Nam là Pakistan, Đài Loan và
Nga. Pakistan liên tục đứng đầu danh sách trong nhiều năm, là thị trường
xuất khẩu chè lớn nhất của nước ta. Thứ 2 là Đài Loan và sau đó là Nga.


Nguồn: Tổng cục Hải quan
Thị

2015

2016

2017

2018

2019

trường
Tấn/USD

Lượng

Trị giá

Lượng

Trị giá


Lượng

Trị giá Lượng

Trị giá

Lượng

Trị giá

Pakistan

36.320

81.80

38.870

78.57

31.998

68.71

81.63

48.755

96.43


28.75

19.059

29.80

21.21

15.065

22.39

38.21
3

Đài Loan

17.512

26.54

12.565

17.73

17.522

27.29

18.57

3

Nga

14.943

22.36

16.369

22.84

17.366

24.84

13.89
7

Mặc dù có sự tăng mạnh từ năm 2015 đến năm 2019 nhưng giá trị xuất khẩu chè
của Việt Nam sang ba thị trường lớn như Pakistan, Đài Loan và Nga khơng có dấu
hiệu khởi sắc. Cụ thể, khoảng năm 2016-2017, xuất khẩu chè ở nước ta sang ba
thị trường trên đều giảm về cả kim ngạch và số lượng. Nguyên nhân chủ quan là do
sản phẩm chè của Việt nam bị đánh giá là kém đa dạng về chủng loại vì chủ yếu là
chè xanh, chè đen và chè nguyên liệu. Song song với đó là chất lượng chưa được
đánh giá cao cũng như mẫu mã kém hấp dẫn. Ngoài ra, sản lượng chè xuất khẩu
sang thị trường Pakistan của nước ta vẫn luôn đạt kim ngạch cao, nhưng ở đây
chúng ta vẫn chỉ chiếm một phần tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng tiêu thụ.
Thị trường Pakistan:
Với dân số gần 200 triệu người, cùng với văn hóa uống trà truyền thống lâu đời,

Pakistan là một trong những thị trường tiêu thụ chè tiềm năng và lớn nhất khu vực
Nam Á, và chè Việt đang nhanh chóng trở thành một trong những lựa chọn hàng
đầu của người tiêu dùng tại quốc gia này. Nhìn bảng trên, ta thấy Pakistan đứng
đầu thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2015-2019,


chiếm 39% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu chè
xanh OP sang thị trường Pakistan.
Cụ thể hơn, năm 2015 với 36.320 tấn, trị giá 81.80 USD, tăng 3,45% về lượng và
tăng 0,71% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Đến năm 2016, xuất khẩu chè
sang Pakistan chiếm 29,6% tổng lượng chè xuất khẩu của cả nước, đạt 38,8 nghìn
tấn, trị giá 78,5 triệu USD, tăng 7,02% về lượng nhưng giảm 3,95% về trị giá so
với năm trước. Tuy nhiên, đến năm 2017, sản lưởng chè xuất khẩu sang Pakistan
giảm cả về lượng và giá so với 2 năm trước. Số lượng nhập khẩu của Pakistan năm
2018 và năm 2019 tăng trở lại lần lượt là 38.213; 48.755.
Thị trường Đài Loan:
Ngoài thị trường Pa-ki-xtan, Đài Loan là thị trường nhập khẩu chè Việt Nam lớn
thứ 2 với khối lượng đạt 17,5 nghìn tấn và trị giá 27,3 triệu USD, tăng 39,5% về
lượng và 53,9% về trị giá so với năm 2016. Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng chè
sang thị trường Đài Loan đạt 1.557,6 USD/tấn, tăng 10,4% so với năm 2016. Năm
2019, sản lượng xuất khẩu chè sang Đài Loan tăng nhẹ chiếm 13,9% trong tổng
lượng và chiếm 12,6% trong tổng kim ngạch, đạt 19.059 tấn, trị giá 29,8 triệu
USD, giá trung bình 1.563,8 USD/tấn, tăng 2,6% về lượng, tăng 3,7% về kim
ngạch và tăng 1% về giá so với năm trước.
Thị trường Nga:
Nga là nước dùng chè đứng thứ 4 trên thế giới sau Ấn Độ, Trung Quốc và Anh. Ở
Nga, tính trung bình một người dùng 1,2 kg chè/năm, đứng sau Anh (3kg) và Áo (2
kg), tới 98% dân số Nga có thói quen dùng chè.Truyền thống uống chè ở Nga đảm
bảo cho thị trường chè tăng trưởng ổn định trong tương lai trung và dài hạn. Theo
số liệu thống kê từ Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), nhập khẩu chè của Nga



trong giai đoạn năm 2016-2020 có xu hướng giảm, tốc độ tăng trưởng trong giai
đoạn này giảm 1,9% về lượng và giảm 6,8% về trị giá. Giá trung bình chè nhập
khẩu của Nga trong giai đoạn năm 2016-2020 giảm dần từ 3.335,1 USD/tấn trong
năm 2016 xuống còn 2.723,2 USD/tấn trong năm 2020. Nhập khẩu chè từ Việt
Nam đạt 4 nghìn tấn, trị giá 6,7 triệu USD và giá chè nhập khẩu từ Việt Nam ở
mức 1.684,4 USD/tấn.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2020 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021
 Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tháng 12/2020, xuất khẩu chè của cả nước
ước đạt 11.214 tấn, trị giá 17,72 triệu USD, giá bình quân 1.580 USD/tấn, giảm
7,6% về lượng, giảm 10,9% về kim ngạch và giảm 3,6% về giá so với tháng
11/2020. Tính chung cả năm 2020 xuất khẩu chè ước đạt 134.964 tấn, trị giá 217,7
triệu USD, giá 1.613 USD/tấn, giảm 1,8% về lượng, giảm 7,8% về kim ngạch và
giảm 6,2% về giá so với năm 2019.
Trong đó, Pakistan là thị trường tiêu thụ chè lớn nhất của Việt Nam đạt 43.357 tấn,
tương đương 82,59 triệu USD, giá trung bình 1.905 USD/tấn, giảm 11,2% về
lượng, giảm 14,4% về kim ngạch và giảm 3,5% về giá so với năm 2019; chiếm
32% trong tổng khối lượng và chiếm 37,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè
của cả nước.
Thị trường lớn thứ 2 là Đài Loan, đạt 17.290 tấn, tương đương 26,68 triệu USD,
chiếm gần 13% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả
nước, giảm trên 9,5% về lượng và giảm 10,5% về kim ngạch.


Tiếp đến thị trường Nga đạt 14.071 tấn, tương đương 21,52 triệu USD, chiếm trên
10% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch, giảm 7,1% về lượng và giảm 3,9%
kim ngạch.
Với sự bùng phát mạnh mẽ của đại dịch Covid-19 đã và đang ảnh hưởng đến nền

kinh tế Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, thị trường xuất khẩu chè đang đứng trước
với xu hướng đóng băng. Bởi khi cung vượt quá cầu, người người nông dân sống
bằng nghề trồng chè phải đối mặt với nhiều thách thức. Từ đó, giá của nguyên liệu
xuất khẩu chè cũng sẽ giảm theo. Hiệp hội chè Việt Nam cho rằng, năm 2020
ngành chè gặp rất nhiều khó khăn khi các hợp đồng xuất khẩu của các doanh
nghiệp đã được ký kết nhưng do dịch COVID -19 khiến nhiều hợp đồng bị gia hạn
hoặc hoãn lại, thậm chí một số hợp đồng cịn bị u cầu giảm giá, trong khi đó, các
hợp đồng mới hầu như khơng có cũng gây khó khăn cho nhiều ngành hàng nơng
sản, trong đó có ngành chè, hàng năm chi phí vận tải chỉ khoảng 700900USD/container nhưng năm nay lên tới 2.700 - 3.000 USD/container, tăng gấp 3
lần, tạo nên sức ép rất lớn về chi phí, trong khi giá chè lại giảm.
Tính đến hết nửa đầu năm 2021, xuất khẩu chè đạt 58,1 nghìn tấn, trị giá 94,9 triệu
USD, tăng 0,3% về lượng và tăng 4,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Bên
cạnh đó, giá chè xuất khẩu bình quân trong nửa đầu năm 2021 đạt 1.632,9
USD/tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2020. Theo thống kê của Tổng cục Hải
quan, xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 6/2021 đạt 11,1 nghìn tấn, trị giá
19,6 triệu USD, giảm 7,8% về lượng và giảm 2,4% về trị giá so với tháng 6/2020.
Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 6/2021, đạt 1.761,1 USD/tấn, tăng 5,8%
so với cùng kỳ năm 2020.


Với thị trường quốc tế, Pakistan vẫn là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt
Nam, với khối lượng xuất khẩu tăng khoảng 12,5%, kim ngạch tăng 16% so với
cùng kỳ năm 2020.
Điều đáng nói là xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường Ấn Độ tăng 560,5%
về lượng và tăng 457,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020 (đạt 1,4 nghìn tấn, trị
giá 1,74 triệu USD).
Trong nửa đầu năm 2021, xuất khẩu chè sang Trung Quốc cũng tăng mạnh. Chỉ
tính số liệu riêng của 5 tháng, xuất khẩu sang quốc gia này đạt 4,55 nghìn tấn với
6,76 triệu USD, tăng 104% về khối lượng và tăng 87,7% về giá trị kim ngạch.
Bên cạnh đó, các thị trường Iraq, Malaysia, Đài Loan... cũng gia tăng sản lượng và

giá trị xuất khẩu mặt hàng chè.
Xuất khẩu chè của Việt Nam được dự báo sẽ tăng trưởng khả quan trong những
tháng cuối năm 2021 nhờ những tín hiệu tích cực từ thị trường nhập khẩu. Đặc
biệt, xu hướng tiêu dùng chè ngày càng tăng do người tiêu dùng phải ở nhà nhiều
hơn. Ngoài ra, những ưu đãi thuế quan từ các Hiệp định Thương mại tự do như
EVFTA, CPTPP… cũng mang lại lợi ích cho ngành chè trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt như hiện nay.
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2022-2025
Mặc dù đã được giảm thuế nhưng việc xuất khẩu chè vẫn gặp nhiều khó khăn.
Nước ta chưa có sản phẩm chè đạt chất lượng để thâm nhập vào thị trường khó tính
như EU, Hoa Kỳ…Ngồi ra, cịn gặp những thách thức về giá thành, công nghệ
chế biến, tiêu chuẩn chất lượng, quảng bá và xây dựng thương hiệu. Nguyên nhân
của những khó khăn trên là do một số khâu trồng và chế biến chè vẫn chưa đạt tiêu
chuẩn nên sản phẩm rất khó đảm bảo chất lượng. Đặc biệt, vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm đang là trở ngại lớn trong cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam.


Thực tế cho thấy, tiềm năng phát triển của cây chè vẫn rất quan trọng, đặc biệt là
nâng cao giá trị gia tăng của cây chè. Tuy nhiên, do nhận thức, sự đầu tư, chỉ đạo
và tổ chức sản xuất chè giữa các địa phương trong cả nước còn khác nhau, có
những nơi một ha chè đạt giá trị từ 500 - 800 triệu đồng/năm, nhưng có những nơi
chưa đạt đến 100 triệu đồng/ha/năm.
Vì vậy, tới đây, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang có những diễn
biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế - xã hội trong đó có
ngành chè. Để giữ ổn định diện tích cây chè đồng thời với nâng cao giá trị gia tăng
của chè và sản phẩm trà, theo Hiệp hội chè Việt Nam, các địa phương nhất thiết
phải đánh giá lại thực trạng sản xuất, kinh doanh, đầu tư, quản lý và tổ chức sản
xuất, chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu. Đặc biệt, để nâng cao chất lượng chè, cần
tăng cường chế biến, kết nối, phân khúc sản phẩm từ chè, quan tâm đến phát triển,

nâng cao chất lượng các sản phẩm mới nhưng đồng thời cũng phải nâng cao chất
lượng sản phẩm chè truyền thống.
Ngoài ra, để việc phát triển sản xuất ngành chè thực sự bền vững thì quy mơ diện
tích trồng chè phải phù hợp với nhu cầu của cả thị trường trong nước và xuất khẩu,
địa bàn phải phù hợp với sinh thái và truyền thống canh tác, đồng thời phải có khả
năng cạnh tranh về hiệu quả kinh tế với các loại cây trồng khác trên địa bàn.
Trước những hạn chế trên, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển bền vững,
tăng cường xuất khẩu thì trong thời gian tới ngành chè cần thực hiện triển khai đồng
bộ một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tập trung nâng cao năng suất, chất lượng chè Việt Nam bằng cách chuyển
đổi các giống chè cũ sang các giống chè mới. Tập trung đầu tư vào công tác chế biến
sâu, đặc biệt là các sản phẩm chè sau chế biến có chất lượng cao, mang lại giá trị kinh


tế lớn để hình thành ngành cơng nghiệp chế biến chè tiên tiến tại Việt Nam. Đồng
thời, đa dạng hóa các sản phẩm chè chế biến theo công nghệ tiên tiến.
Thứ hai, tạo liên kết giữa doanh nghiệp chế biến chè với nông dân từ khâu xây dựng
vùng nguyên liệu đến bao tiêu sản phẩm nhằm đảm bảo sự ổn định và đủ nguyên liệu
chè tươi cho chế biến. Cơ cấu lại mối quan hệ giữa chè đen và chè xanh một cách hợp
lý để đảm bảo đáp ứng được cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích các hộ gia đình trồng chè trên cả nước tham gia vào chuỗi cung
ứng bền vững và chất lượng, thúc đẩy mơ hình sản xuất chè an tồn theo tiêu chuẩn
VietGAP.
Thứ tư, duy trì và đẩy mạnh xuất khẩu chè và sản phẩm chè sang cơ sở chè chế biến
tại thị trường trọng điểm, hỗ trợ xúc tiến thương mại, thúc đẩy xuất khẩu chè và sản
phẩm chè đã qua chế biến tiến đến các thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc, EU, Mỹ…
Thứ năm, các doanh nghiệp xuất khẩu chè cần phải chủ động thay đổi hình ảnh, tham
gia sâu vào nguồn cung ứng. Mặt khác, đầu tư các công nghệ để sản xuất các mặt
hàng đạt tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm theo quy định.

Thứ sáu, cần tập trung vào đào tạo, nâng cao năng lực cho nông dân trồng chè và thực
hành sản xuất chè bền vững có sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo Chương trình quản
lý tổng hợp dinh dưỡng và dịch hại cây trồng (IPM, ICM). Đảm bảo quy hoạch vùng
sản xuất, ngoài định dạng độ cao cho từng vùng, miền để xác định giống chè phải kết
hợp với các cơ sở chế biến và phân vùng nguyên liệu chè.
Thứ bảy, nhằm thực hiện được mục tiêu phát triển chè an toàn, bền vững và ổn định,
diện tích trồng chè của Việt Nam xấp xỉ 130-140 nghìn ha; đến năm 2025, diện tích
chè được chứng nhận an toàn lên đến 55% và đến năm 2030 đạt khoảng 75%. Nâng tỷ
lệ chè chất lượng cao (chè xanh, chè Ô long…) lên 30% vào năm 2025 và 50% vào
năm 2030. Kiểm soát được chất lượng nguyên liệu đầu vào như giống, phân bón và
đặc biệt là thuốc kiểm dịch thực vật. Tiếp đén là 100% số cơ sở sản xuất chè được cấp
giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định; giá trị xuất khẩu đạt


300 triệu USD vào năm 2025 và 400 triệu USD vào năm 2030… Các cơ quan quản lý,
cơ quan chuyên mơn phải quản lý tốt diện tích chè ngun liệu, đảm bảo diện tích chè
hiện có. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra và các cấp ủy chính quyền địa về phát triển
sản xuất chè an toàn; kết hợp chuyển đổi giống mới, thâm canh, nâng cao chất lượng
chè.
Cuối cùng, trên cơ sở phân tích, đánh giá xu hướng thị trường, có giải pháp khuyến
khích, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng hình thành thương hiệu chè Việt trên thị
trường quốc tế nhằm nâng cao giá tr và thu nhập cho người sản xuất, bn bán chè.
Ngồi ra, các điểm sản xuất chè cần xây dựng đề án phát triển vùng sản xuất chè an
toàn, thực hiện triển khai các dự án khoa học - công nghệ, khuyến nông phục vụ sản
xuất, chế biến chè an toàn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Số liệu thu thập từ Tổng cục Thống Kê và Tổng cục Hải Quan
[2] Lê Anh. (2021). Các giải pháp phát triển ngành chè - Báo điện tử Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Truy cập ngày 18/09/2021 tại Bài 4: Các giải pháp phát triển ngành

chè (dangcongsan.vn)


[3] Báo Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn. (2021).
Xuất khẩu chè năm 2020 giảm cả về lượng và kim ngạch. Truy cập 16/09/2021 tại
Xuất khẩu chè năm 2020 giảm cả lượng và kim ngạch (agro.gov.vn)
[4] VietnamCredit. (2020). Biểu đồ xuất khẩu chè 2015-2019. Truy cập ngày
18/09/2021 tại TỔNG QUAN NGÀNH CHÈ VIỆT NAM 2020 - baocaonganh



×