Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

KHỦNG HOẢNG nợ CÔNG CHÂU âu TRONG mối LIÊN hệ với CUỘC KHỦNG HOẢNG tài CHÍNH TOÀN cầu năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.2 KB, 17 trang )

Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

MỤC LỤC
*****

I.Giới thiệu

1

II.Nội dung

1

1. Sơ lược về các cuộc khủng hoảng trong lịch sử

1

2. Mối liên hệ giữa cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 và khủng hoảng nợ
cơng Châu Âu
2.1 Đông Âu đã từng trải qua cuộc khủng hoảng tài chính thời điểm 2008

2
2

2.2Cuộc khủng hoảng ở Mỹ khơng phải là ngịi nổ cho cuộc khủng hoảng Châu Âu.....3
2.3 Sự ngày càng giống nhau giữa 2 cuộc khủng hoảng

5



2.4 Những điểm khác biệt

6

3. Số phận của đồng tiền chung Châu Âu

9

3.1 Nhiều kịch bản cho một sự tồn tại

10

3.2 Sự tan rã là một kết quả tất yếu?

12

III. Kết luận

13

I.Giới thiệu
Nền kinh tế thế giới có vẻ như đang có một thập kỉ sống chung với khủng hoảng. Năm
2008, thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu bắt đầu ở Mỹ thì năm 2010
lại đến cuộc khủng hoảng nợ cơng Châu Âu.
Đã có rất nhiều bài nghiên cứu về nguyên nhân, diễn biến, tác động của cuộc khủng
hoảng đến nền kinh tế thế giới cũng và các giải pháp cũng lần lượt được đưa ra. Trong khuôn


Tài Chính Quốc Tế


GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

khổ bài nghiên cứu này, nhóm luận bàn về cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu trong mối
liên hệ với cuộc khủng hoảng Mỹ năm 2008.
Trong quá trình nghiên cứu, một câu hỏi nổi lên là sau cuộc khủng hoảng này, Châu Âu
sẽ đi về đâu? Câu hỏi này sẽ được trả lời thông qua số phận của đồng tiền chung Châu Âu.
II. Nội dung
1.Sơ lược về các cuộc khủng hoảng trong lịch sử

Khủng hoảng kinh tế trong lịch sử
Khủng hoảng nợ
Châu Âu &
Khủng hoảng chính
trị Trung Đơng
Khủng hoảng
Tài chính
Châu Á
1997

Khủng hoảng
dầu mỏ
1973

Đại khủng
hoảng
1929

Năm


1914

1929

1937

Khủng hoảng
nợ công
Argentina
2001

Ngày thứ Hai
đen tối
1987

Chiến tranh
thế giới
thứ hai
1937-1945

Chiến tranh
thế giới
thứ nhất
1914-1918

Khủng hoảng
Tài chính
(Lehman Shock)
2008


1973
Vay

1987

Bong bóng
cơng nghệ
(dot com)
2000

1997
Vay

Nợ

2000

2001

2008

2011
Trả

Trả

Nợ

Mối liên hệ giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn từ 1973 đến 2008

Theo bài nghiên cứu đăng tải trên tạp chí EUROPEAN ECONOMY (2009) do các
chuyên gia kinh tế IMF phân tích thì ngun nhân khủng hoảng nợ nhìn từ q khứ chính là
mỗi khi nền kinh tế suy thối thì nợ cơng bắt đầu tăng vọt.
 Khủng hoảng dầu mỏ 1973: Các nước Opec ngừng xuất dầu sang các nước ủng hộ
Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria (gồm Mỹ, Nhật và Tây

1


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Âu), tạo nên cuộc khủng hoảng dầu mỏ đẩy kinh tế Âu Mỹ chìm vào suy thối. Đó cũng là
lúc Âu Mỹ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển hướng từ sản xuất cơng nghệ sang tài chính dịch
vụ và nhường phát triển công nghệ cho những nước Châu Á mới nổi.
 Năm 1990: Ngành tài chính dịch vụ phát triển mạnh mẽ nhưng hầu hết đều dựa trên kẽ
hở của thị trường, thiên về đầu cơ tài chính làm thổi phồng những “bong bóng tài sản”, tạo ra
viễn cảnh giàu có “ảo” cho nền kinh tế Âu Mỹ. Hậu quả làm nảy sinh nhiều bất ổn trong cơ
cấu ngành nghề, phân khúc giàu nghèo và số người thất nghiệp tăng lên, phải sống nhờ vào
sự hỗ trợ của chính phủ. Kết quả là tình trạng nợ cơng ngày càng chồng chất và tiếp theo là
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu. Chính phủ đành chọn giải pháp vay tiền nhằm mục đích
cầm chừng chờ qua cơn hấp hối.
 Khủng hoảng tài chính 2008: Thế giới lại khủng hoảng và chính phủ các nước lại
tiếp tục áp dụng kế sách cũ là huy động tiền để hỗ trợ các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp và
trợ giúp khối lao động thất nghiệp. Trong khi đó trái phiếu của các lần phát hành trước đó đã
đến hạn trả cả vốn lẫn lãi, khiến cho gánh nặng nợ tích tụ suốt mấy chục năm qua tiếp tục
chất chồng. Thêm vào đó là các hoạt động đầu cơ bằng các công cụ tài chính cực kỳ nguy
hiểm như CDS diễn ra sơi nổi, nhằm đánh cược cho một sự sụp đổ tài chính rất có khả năng

xảy ra. Những kẻ đầu cơ lớn nhất hiện nay lại là chính các ngân hàng trung ương, họ đã vượt
qua các quỹ phòng hộ Hedge Funds về quy mơ giao dịch tiền tệ.
Tóm lại:
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu ở Hoa Kỳ vào cuối năm 2007 quét qua Đại Tây
Dương đến Châu Âu. Và cuộc khủng hoảng dưới chuẩn nổi lên trong tháng 8 năm 2007, trở
thành khủng hoảng tồn cầu. Có rất nhiều ý kiến thảo luận về mối liên hệ, điểm khác biệt
giữa cuộc khủng hoảng tài chính 2008 với khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng như đưa ra
rất nhiều kịch bản cho sự tồn tại hay mất đi đồng tiền chung Châu Âu. Bây giờ hầu như các
nhà lãnh đạo chính trị và tài chính ở Mỹ hay ở Châu Âu đều tập trung và đang hy vọng tìm
giải pháp để giảm bớt cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu nhằm ngăn chặn một cơn sóng
thần tương tương tự ngược lại.
2.Mối liên hệ giữa cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 và khủng hoảng nợ
công Châu Âu
2.1 Đông Âu đã từng trải qua cuộc khủng hoảng tài chính thời điểm 2008
Vào mùa thu năm 2008, Trung Âu và Đông Âu bắt đầu rơi vào khủng hoảng. Mười
nước thành viên của Liên minh Châu Âu đã ở trong tình trạng quá nóng. Lạm phát lên hai
chữ số ở Bulgaria, Estonia, Latvia và Lithuania. Lương và giá bất động sản vọt lên cao, mất

2


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

tính cạnh tranh và làm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Đầu ra khơng có và tình trạng thất
nghiệp nặng nề. Hai quốc gia mở rộng tín dụng quá mức nhiều nhất là Latvia và Estonia thật
sự đã gần như khủng hoảng vào năm 2007. Cho vay của các ngân hàng giảm, dẫn đến giá bất
động sản thực giảm sâu. Kéo theo đó là sụt giảm tiêu dùng và đầu tư cũng như mức sản xuất.

Khi Lehman sụp đổ vào ngày 15/09/2008, Đông Âu cũng đã đối mặt với tình trạng thanh
khoản gần như khơng cịn.
Một điều gây ngạc nhiên là chưa tới 2 năm, vào quý 2 năm 2010, cuộc khủng hoảng tài
chính ở Đơng Âu đã dịu đi rất nhiều. Điều gì đã khiến cho cuộc khủng hoảng được giải quyết
nhanh như thế?
Anders Aslund (06/2011_Lessons from the East European Financial Crisis, 2008–
2010)
Anders Aslund đã nêu ra 5 giải pháp các nước Đông Âu đã áp dụng để xử lí cuộc
khủng hoảng tài chính ở khu vực này giai đoạn 2008-2010:
 Khơng có nước nào thay đổi chính sách tỷ giá hối đối.
 Tin rằng việc gia nhập đồng euro là có giá trị.
 Kêu gọi hỗ trợ quốc tế sớm và kịp thời.
 Sự hợp tác giữa IMF và EU.
 Cắt giảm chi tiêu, tăng thuế thích hợp, giữ ổn định chính trị.
2.2 Cuộc khủng hoảng ở Mỹ khơng phải là ngịi nổ cho cuộc khủng hoảng Châu Âu
Nhóm chuyên gia của trường W.P. Carey_ W.P. Carey School Of Business
(25/10/2011_ Debt Crisis: Similarities, Differences and Lessons learned from the U.S.
and Europe); cho rằng cuộc khủng hoảng ở Mỹ khơng phải là “ngịi nổ” cho cuộc khủng
hoảng ở Châu Âu nhưng nó góp phần làm suy yếu hệ thống ngân hàng Châu Âu, địi hỏi
các gói cứu trợ của chính phủ dẫn đến nợ cơng tăng. Cuộc khủng hoảng ở Mỹ 2008 đã
đánh mạnh vào hệ thống ngân hàng Châu Âu. Sự suy giảm đã xô ngã hệ thống ngân hàng
Châu Âu và lây lan qua thị trường tài chính và ngày càng nguy hại hơn.
Các ngân hàng ở Châu Âu đã nắm giữ các tài sản độc hại tương tự do cuộc khủng hoảng
ở Mỹ gây ra. Một số ngân hàng từ Tây Ban Nha đến Đức, thậm chí là Thụy Điển cần được
chính phủ giải cứu.
James K. Jackson (24/06/2009_ The Financial Crisis_Impact on and Response by The
European Union); phân tích, cuộc khủng hoảng ở Mỹ lan qua các ngân hàng Châu Âu thông
qua ABCP. Các ngân hàng Châu Âu nắm giữ các chứng khoán này trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua các SIV. Khi thị trường ABCP sụp đổ, các tài sản được dùng để đảm bảo cho các
thương phiếu không thể định giá được, các ngân hàng nắm giữ các chứng khốn đó bị buộc

phải tăng cường các quỹ bổ sung. Thực tế, Lehman đã tham gia nhiều trong 57 nghìn tỷ USD
CDS. Lehman cũng là người nghĩ ra thương phiếu và các hình thức nợ ngắn hạn khác. Các
ngân hàng Châu Âu nắm giữ các thương phiếu này thông qua hệ thống trên toàn cầu của
Lehman. Các ngân hàng Châu Âu vay USD ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng để đầu tư
3


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

vào các tài sản định danh bằng USD với thời gian đáo hạn khác nhau. Điều này làm cho tính
lỏng của các ngân hàng Châu Âu gần như khơng cịn khi Mỹ khủng hoảng.
Trước tình hình đó, chính phủ phải đổ tiền vào các ngân hàng và các công ty tài chính để
giữ cho chúng khỏi phá sản và thu xếp các vụ mua bán sáp nhập.
Trong giai đoạn này, Anh đã quốc hữu hóa Northern Rock, Bradford&Bingley, thu xếp
cho ngân hàng Halifax của Scotland sáp nhập vào tập đoàn Lloyds.. Chính phủ Bỉ, Pháp,
Luxembourg cấp vốn cho Dexia (cơng ty cho vay lớn nhất thế giới). Hà Lan, Luxembourg đổ
16.4 tỷ USD vào ngân hàng và công ty bảo hiểm Fortis.
Các gói giải cứu ngân hàng của chính phủ các nước Châu Âu

Country

Expansion
of retail
deposit
insurance

Guarantee of

wholesale
liabilities
New debt
Existing
debt

Capital
injectio
ns

Asset
purchas
es

Austria
X
X
X
Belgium
X
X
Denmark
X
X
X
Finland
X
France
X
X

Germany
X
X
X
X
Greece
X
X
X
Ireland
X
X
X
Italy
X
X
Netherla
X
X
X
Norway
X
Portugal
X
X
Spain
X
X
X
X

Sweden
X
X
X
Switzerlan
X
X
United
X
X
X
X
Nguồn: Fender, Ingo, and Jacob Gyntelberg, Overview: global financial Crisis Spurs
Unprecedented Policy Actions, Quarterly Review, Bank for International Settlements,
December 2008, p. 11.
Các ngân hàng Iceland bị tác động nặng nề trong cuộc khủng hoảng. Đan Mạch, Phần
Lan, Na uy và Thụy Điển cấp 2.5 tỷ USD cho Iceland. Chính phủ Anh bỏ ra 850 tỷ USD
trong việc giải cứu các ngân hàng khỏi khủng hoảng tài chính, gọi là kế hoạch Bền vững và
Tái cấu trúc (kế hoạch gồm 4 phần: tái cấp vốn, quốc hữu hóa 1 số ngân hàng, bảo lãnh trả nợ
và cải thiện các quy định)
4


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Chính phủ đã bỏ ra nhiều tiền để cứu sống các ngân hàng, do đó nợ cơng tăng vọt lên.
Cả hệ thống trở nên dễ đổ vỡ. Nhận định của nhóm nghiên cứu trường W.P Carey và James

K. Jackson gần giống với những gì mà Iain Macwhirter đã cảnh báo. Iain Macwhirter dự
đoán một cuộc khủng hoảng ở Châu Âu tương tự như khủng hoảng của Mỹ.
Theo Iain (2008_ Europe's looming crisis); trong khi các ngân hàng ở Mỹ cho những
người khơng có khả năng thanh tốn vay mua nhà một cách tùy tiện thì các ngân hàng ở Châu
Âu lại cho các nước khơng có khả năng thanh tốn vay. Cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở
Châu Âu đang đến vì khối các nước vay nợ nặng nề ở Đông Âu như Hungary, Ukraine,
Belarus, Bồ Đào Nha đang sụp đổ từng nước một. Khả năng bảo vệ của các ngân hàng đã quá
suy yếu.
Theo BIS, các ngân hàng Tây Âu đã cho các nước Đông Âu vay hơn 1.5 nghìn tỷ USD.
Áo cho vay gần 80%GDP và báo hiệu cho những khoản lỗ lớn vì sự sụp đổ của Hungary và
Ukraine.

Có thể nói cuộc khủng hoảng ở Mỹ 2008 đã đánh mạnh vào hệ thống ngân hàng Châu
Âu, làm suy giảm và lây lan qua thị trường tài chính và ngày càng nguy hại hơn. Nhưng đó
khơng phải là nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng nợ cơng Châu Âu. Vấn đề của
Châu Âu là do chính họ tạo ra. Và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 chỉ góp phần gia
tăng theo mức nợ cơng của Châu Âu khi vừa giải cứu các ngân hàng, vừa vực dậy nền kinh tế
đang suy thoái cùng một lúc.
2.3 Sự ngày càng giống nhau giữa 2 cuộc khủng hoảng
Bong bóng tài sản quá lớn và thâm hụt tài khóa
Jeffry Friedan_Professor of Government, Harvard University (2011_ Europe’s
Lehman moment); trong nghiên cứu của mình cũng nhận định Châu Âu đang đi vào đường cũ
của Mỹ năm 2008. Từ năm 2001-2007, Mỹ đã mở rộng tiêu dùng và tài trợ bằng cách vay
mượn nước ngồi hàng tỷ tỷ đơ la. Một phần trong số tiền này đã làm thâm hụt tài khóa và
ngày càng nhiều hơn khi tổng thống Bush cắt giảm thuế từ năm 2001-2003, phần lớn số tiền
này tạo ra quả bom trên thị trường nhà ở. Sau đó, quả bom này hình thành bong bóng và khi
5


Tài Chính Quốc Tế


GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

bong bóng vỡ ra đã phá hủy các tổ chức tài chính quan trọng của Mỹ và phần cịn lại của nền
kinh tế thế giới. Mỹ rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công.
Những nước vay nợ ở Châu Âu cũng đã rơi vào vòng vay mượn. Trong một thập kỉ,
nhóm các quốc gia Nam Âu đã vay một khoản nợ đồ sộ từ các ngân hàng và các nhà đầu tư
Bắc Âu. Ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ireland, hầu hết các khoản nợ đều chảy vào thị
trường nhà ở đang quá nóng.
Cuốn sách “Lost Decades: The Making of America's Debt Crisis and the Long
Recovery” (2010) do Jeffry Friedan và Manzie D. Chinn là đồng tác giả, đã thống kê rằng
cứ 1 trên 7 công nhân Tây Ban Nha làm trong lĩnh vực xây dựng nhà. Nửa triệu căn nhà mới
được xây mỗi năm ở Tây Ban Nha, xấp xỉ với số nhà mới ở Ý, Pháp và Đức cộng lại. Số nợ
vay mua nhà từ 180 tỷ USD năm 2000 lên 860 tỷ USD năm 2007. Giá nhà ở Tây Ban Nha
tăng gấp 3, chỉ đứng thứ 2 sau Iceland trong số các nước phát triển, giá trung bình 1 căn nhà
ở Madrid là 400.000 USD
Châu Âu đang ở trong thời điểm khủng hoảng và đang đối mặt với “khoảnh
khắc Lehman”
James K. Jackson (24/06/2009_ The Financial Crisis_Impact on and Response by The
European Union); phân tích ngay khi Lehman Brothers đệ đơn xin phá sản thì cuộc khủng
hoảng ở Mỹ cũng bắt đầu lan rộng. Do Lehman tiếp xúc sâu rộng trong các thị trường tài
chính và những tác động của nó tới nền kinh tế đã được phóng đại bởi những yếu kém cơ bản
trong thị trường tài chính được xây dựng theo thời gian. Đặc biệt Lehman đã tham gia nhiều
trong 57 nghìn tỷ CDS trên thị trường.
Trước tình hình hiện tại của Châu Âu, nhiều nhà kinh tế cũng nhận định rằng Châu Âu
cũng đang đứng trước thời khắc Lehman. Theo đó, tình hình nợ của Hy Lạp diễn biến phức
tạp và lan sang các nước Bồ Đào Nha, Iceland, Tây Ban Nha, Ý và Bỉ. Nếu như mọi người
vẫn tin rằng Lehman của Mỹ q lớn nên khơng thể sụp đổ thì khi Lehman sụp đổ đã mở đầu
cho cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu. Nếu như Hy Lạp sụp đổ, liệu có kéo theo sự sụp đổ

của cả liên minh Châu Âu hay không?
2.4 Những điểm khác biệt
Khác biệt thứ 1: những con số thống kê về các khoản nợ ở Châu Âu thì rõ ràng
hơn. Nếu như năm 2008, gần như những thơng tin đều khơng thể dự đốn được, đều
gây choáng váng và bất ngờ, đặc biệt là sự sụp đổ của Lehman Brothers thì năm 2011
tình trạng nợ cơng của các chính phủ Châu Âu đều đã được cảnh báo từ vài năm trước.
Sớm muộn thì tình trạng vỡ nợ sẽ xảy ra.
Đây là khác biệt mang tính tích cực của cuộc khủng hoảng nợ cơng Châu Âu so với cuộc
khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008.
Theo Pat Dorsey_ Director of Equity Research at Morningstar (05/2011_ A US and
Europe Crises Comparison); thì trong cuộc khủng hoảng thị trường địa ốc ở Mỹ những năm
2007-2008, thật rất khó hình dung được vấn đề vì tất cả những tổ chức cho vay đã áp dụng tất
cả các phương pháp để phân tán các khoản nợ. Cũng thật khó để ước lượng được phạm vi vì
những người vay thứ cấp: những người có tín dụng kém, thiếu tiền nhà… hàng triệu trường
6


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

hợp khác nhau như vậy và khả năng trả nợ tùy thuộc vào điều kiện của mỗi cá nhân và một
trường hợp phức tạp hơn do có quá nhiều loại hình cho vay như MBS, ABS, CDO, CDS …
tất cả tạo cho việc khủng hoảng này thật sự rất khó giải quyết.
Cịn tình trạng hiện nay ở Châu Âu, mọi thứ khá rõ ràng. Các khoản nợ và thuế của mỗi
nước có thể ước lượng được; sau khi khấu trừ thì sẽ biết được con nợ, chủ nợ và số tiền ở
đâu, khả năng chi trả thế nào…
Khác biệt thứ 2: năm 2008, cuộc khủng hoảng xuất phát từ dưới lên, nghĩa là từ
các ngân hàng bởi họ đã cho vay quá mức các khoản vay dễ dãi, dưới chuẩn. Cịn năm

2011 khó khăn do từ trên xuống, nghĩa là từ các chính phủ đã vay nợ quá nhiều, chi tiêu
quá nhiều khiến nợ công tăng vọt, kinh tế theo đó yếu kém, thị trường tài chính, nhà
đầu tư, người dân mất lòng tin. Kết quả là các Ngân hàng lần này là nạn nhân chứ
không phải là nguyên nhân khủng hoảng.
Nhóm tác giả Isabela Massa, Jodie Keane and Jane Kennan (10/2011_The euro zone
crisis: risks for developing countries) cho rằng trong khi cuộc khủng hoảng tài chính 2008 là
nguyên nhân của tình trạng mất khả năng thanh tốn của các tổ chức tài chính Mỹ thì cuộc
khủng hoảng nợ cơng Châu Âu lại bắt nguồn từ việc chính phủ các quốc gia Châu Âu khơng
có khả năng quản lý nợ của họ.
Sự bị động của các khoản chi tiêu chính phủ kèm theo tăng trưởng thấp dẫn đến một
gánh nặng nợ nần không thể chống đỡ được của Hy Lạp và hiệu ứng domino lan khắp khu
vực đồng tiền chung Châu Âu. Vấn đề nợ của các nước không phải là mới, trước đó là
Argentina vào năm 2001 và lần đầu tiên xuất hiện với hiệu ứng di truyền như thế với ngụ ý
rằng, không giống như Châu Mỹ La Tinh, phá giá đồng tiền không phải là lựa chọn cho tình
trạng của Châu Âu. Hơn nữa về quy mơ, các khoản nợ công Châu Âu lớn hơn nhiều so với
các khoản nợ của Argentina vào năm 2000. Các khoản nợ của Hy Lạp lớn hơn gấp 5 lần; Ý
đứng thứ 2 về tỷ lệ nợ so với GDP sau Hy Lạp ở mức khoảng 2,5 nghìn tỷ USD.
Khác biệt thứ 3: Động thái của chính phủ Mỹ và Châu Âu trước cuộc khủng
hoảng
Pat Dorsey (05/2011_ A U.S and Europe Crises Comparison);
Pat Dorsey phân tích ở Mỹ, khi khủng hoảng xảy ra, TARP được Quốc hội thông qua
để bơm tiền cho các ngân hàng. Bởi vì hệ thống tài chính và Quốc hội Mỹ ở trên cùng một
con thuyền. Nếu hệ thống tài chính của Mỹ sụp thì tất cả càng khó khăn hơn.
Châu Âu lại khác. Châu Âu gặp khó khăn hơn trong việc đưa ra các gói cứu trợ tài chính
mang tính hệ thống, bởi vì Châu Âu khơng có chính sách tài khóa tập trung như ở Mỹ. Do đó
mỗi gói cứu trợ đều phải đợi 17 nước thông qua sau cuộc trưng cầu dân ý ở từng nước. Bên
cạnh đó, động lực của các nước trong liên minh Châu Âu lại khác nhau.
Đức có những động lực khác Ý, Pháp, bởi vì bảng cân đối kế tốn của chính phủ, rủi ro
chính trị,… của các nước này khác nhau. Do đó, các nước này có thể khơng sẵn lịng gánh
chịu những tổn thất như Quốc hội Mỹ đã làm năm 2008.

Pinyo (2008_ What Caused The Economic Crisis Of 2008?) _ Fred Moseley (2009_
The U.S. economic crisis: Causes and solutions).
7


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Pinyo và Fred Moseley trong bài viết của mình đã cho thấy trước sự tụt dốc không
phanh của thị trường bất động sản và sự bất ổn của thị trường tài chính, Chính phủ Mỹ bắt
buộc phải ra tay cứu nguy để ngăn chặn khủng hoảng kinh tế ở phương diện rộng lớn. Chính
phủ Mỹ đã lần lượt cứu nguy cho bốn cơng ty khổng lồ có liên quan trực tiếp đến cuộc khủng
hoảng thị trường dây chuyền bất động sản - tài chính. Thứ nhất, vào tháng 3 năm nay, FED đã
đứng ra bảo lãnh 30 tỷ USD các khoản nợ phải trả của Bear để tạo điều kiện cho JP Morgan
Chase mua lại Bear Stearns. Thứ nhì, vào đầu tháng 9, Bộ Tài chính thơng báo một gói cứu
nguy khẩn lên đến 200 tỷ USD để giúp Fannie Mae và Freddi Mac.
Tiếp đó, vào giữa tháng 9, để ngăn chặn khủng hoảng tràn lan, FED lại tiếp tục khẩn cấp
cứu nguy cho AIG bằng cách cho vay 85 tỷ USD để giúp AIG thoát khỏi phá sản. Do đó,
động thái cứu nguy cho AIG được coi như là bắt buộc để ngăn chặn đà lan tỏa của cuộc
khủng hoảng.
Trước sự hoang mang cao độ của thị trường tài chính và ảnh hưởng xấu của nó lên nền
kinh tế nói chung, Chính phủ Mỹ bắt buộc phải ban hành Đạo luật bình ổn kinh tế khẩn cấp
vào tháng 03/2008.
George Soros (13/10/2011_ Does the Euro Have a Future?)
Theo như George Soros thì giờ đây các nhà lãnh đạo EU rất muốn cứu các thành viên
trong khối Eurozone nhưng ECB thì khơng thể tiếp tục in tiền, xóa nợ hoặc mua vô hạn định
trái phiếu của các nước thành viên. Một trong những bước đi mà EU đã thực hiện là thành lập
EFSF và đưa ra ý tưởng phát hành trái phiếu chung Châu Âu nhưng Đức lại kịch liệt phản

đối.
Đức đã quay sang bất đồng với ECB bằng việc nhất quyết phản đối ECB mua trái phiếu
chính phủ các nước đang ngập nợ. Và quyết định từ chức của ông Juergen Stark, nhà hoạch
định chính sách chủ chốt người Đức trong Hội đồng điều hành ECB, gần ba năm trước khi
kết thúc nhiệm kỳ vào tháng 5/2014, có thể khoét sâu hơn khoảng cách giữa ECB với đại diện
quyền lợi của Đức tại thể chế tài chính này, đồng thời gây chia rẽ giữa các quốc gia chủ nợ và
con nợ trong ECB. Tuy nhiên Đức lại “bật đèn xanh” cho thỏa thuận tăng ngân quỹ của
EFSF.
Bên cạnh đó, tình hình chính trị thế giới ngày càng phức tạp hơn so với hai năm trước
khi khủng hoảng toàn cầu xảy ra. Vào thời điểm đó, các nền kinh tế G20 di chuyển khá nhanh
chóng kết hợp với một loạt các gói kích thích kinh tế khổng lồ nhưng cho đến nay lại không
đi đến một sự thỏa thuận rõ ràng. Nguy cơ vỡ nợ từ Hy Lạp lan sang Ireland rồi đến Bồ Đào
Nha đang đe dọa đà phục hồi kinh tế thế giới, có thể gây ra khủng hoảng tài chính mới và địi
hỏi những hỗ trợ khẩn cấp từ bên ngoài.
Khi thế giới cuối cùng cũng đã xuất hiện một số dấu hiệu phục hồi kinh tế sau cuộc suy
thối 2008 – 2009, nền kinh tế tồn cầu lại một lần nữa đứng bên bờ vực của cuộc khủng
hoảng khi mà những lo ngại về một cuộc khủng hoảng nợ công lan rộng trong khu vực đồng
tiền chung Châu Âu, khủng hoảng niềm tin đã nổi lên với việc mở rộng chênh lệch lãi suất
trái phiếu và bảo hiểm rủi ro về tín dụng, giao dịch hốn đổi giữa các quốc gia đồng tiền
chung Châu Âu.

8


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Nền kinh tế toàn cầu đang trải qua cuộc khủng hoảng nợ cơng, cuộc khủng hoảng nhanh

chóng lan rộng trên toàn khu vực đồng EUR và đe dọa nền kinh tế bao gồm một số nước
Phương Tây, Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Đây là lần thứ 2 trong vòng 5 năm,
các nước giàu đã đưa kinh tế thế giới đi vào tình trạng nguy hiểm.
Tóm lại
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng nợ công ở châu Âu được các chuyên gia chỉ
rõ. Với từng quốc gia, đó là khả năng quản trị nợ cơng yếu kém, chi tiêu thiếu hợp lý, hoặc
mất kiểm soát các hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng... Với cả khu vực, đó là thói
quen chi nhiều hơn thu kéo dài và hệ thống phúc lợi xã hội ngày càng phình to.
Liên minh tiền tệ duy nhất ở châu Âu cận kề bờ vực phá sản, khiến nhiều người đã bàn
tới các kịch bản tan rã của Eurozone với hậu quả đủ lớn có thể gây ra sự hỗn loạn trên các thị
trường tài chính. Vậy cuối cùng thì số phận đồng tiền chung Châu Âu sẽ như thế nào, chúng
ta sẽ chuyển sang tiếp về các nhận xét xoay quanh vấn đề này trong một số bài nghiên cứu.
3.Số phận của đồng tiền chung Châu Âu
Khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 vừa tạm lắng xuống thì khủng hoảng nợ công
Châu Âu xuất hiện đe dọa một lần nữa hệ thống tài chính tồn cầu với mức độ ngày càng
trầm trọng hơn. Nhìn tồn cảnh cuộc khủng hoảng, các bên đều có những phản ứng khác
nhau. Các quốc gia khủng hoảng muốn nhận được những gói cứu trợ nhưng lại cân nhắc về
các điều khoản ràng buộc. Ngược lại, các đối tượng đưa ra gói cứu trợ thì lại đang cân nhắc
để đưa ra quyết định cuối cùng. Trước tình hình hiện tại, rất nhiều quan điểm được đưa ra để
dự đoán về tương lai của đồng tiền chung Châu Âu. Sau đây là các kịch bản có thể xảy ra

9


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Nguồn: Gavyn Davies (27/11/2011_Thinking the unthinkable on a euro break-up)

(1): Đồng Euro tồn tại nhưng các nước ngoại vi sẽ rút lui.
(2): Đức, Hà Lan (các nước có nền kinh tế vững mạnh) rút lui.
(2a): Các nước còn lại cũng từ bỏ liên minh và lập lại đồng tiền riêng cho mình
(2b): Các nước cịn lại vẫn duy trì đồng tiền chung Euro mà khơng có Đức.
(3): Đồng Euro sẽ tồn tại một cách toàn vẹn.
3.1 Nhiều kịch bản cho một sự tồn tại
Đồng Euro sẽ tiếp tục tồn tại nhưng có sự rút lui của các nước ngoại vi
George Soros (13/10/2011_ Does the Euro Have a Future?)
Ông đã chỉ ra thực tế ảm đạm tại các quốc gia Châu Âu đang chịu hậu quả của cuộc
khủng hoảng. Thị trường tài chính đã rơi vào hoảng loạn. Mức bù rủi ro từ trái phiếu chính
phủ đã gia tăng. Giá các loại chứng khoán giảm mạnh, dẫn đầu là chứng khoán của ngân
hàng.

10


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Biện pháp khắc phục mang tính hiệu quả cao như việc thành lập một quỹ bình ổn đúng
nghĩa với đầy đủ vai trò và chức năng bảo vệ hệ thống tài chính vẫn chưa được thiết lập.
Thêm vào đó, Tịa án Hiến pháp Đức cấm bất kỳ đảm bảo tương lai mang lại lợi ích cho các
quốc gia liên quan mà khơng có sự chấp thuận trước của Ủy ban ngân sách. Điều này hạn chế
rất nhiều quyền lực của Chính phủ Đức đối với cuộc khủng hoảng trong tương lai. Các giải
pháp cứu trợ hiện thời của ECB như việc mua trái phiếu của các nước khủng hoảng khơng
hồn toàn khả thi.
Kịch bản đen tối trên sẽ dần dần thay đổi nếu như tìm được một con đường sáng – con
đường mang tên “Nước Đức”. Đây là quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, và là chủ nợ lớn

nhất của Châu Âu. Đức đã được đẩy vào vị trí quyết định tương lai của Châu Âu.
Thực tế, George Soros cũng có quan điểm đồng tình với Gavyn Davies. Đó là sắp xếp
cho việc rút lui khỏi khu vực đồng tiền chung Châu Âu của các quốc gia khủng hoảng. Điều
này khơng có nghĩa họ sẽ bị bỏ rơi. Ngược lại, họ vẫn sẽ được các nước khu vực đồng Euro
khác và IMF hỗ trợ. Hơn nữa, hành động này sẽ kết thúc chu kỳ luẩn quẩn đe dọa tất cả các
nước thâm hụt của khu vực đồng euro, theo đó thắt lưng buộc bụng làm suy yếu triển vọng
tăng trưởng của họ, dẫn các nhà đầu tư yêu cầu mức lãi suất quá cao và do đó buộc chính phủ
của họ cắt giảm chi tiêu hơn nữa. Tuy nhiên, nếu họ sẵn sàng chấp nhận các điều khoản khắc
khe của gói cứu trợ thì họ cũng có thể ở lại. Trong cả hai trường hợp, EFSF sẽ bảo vệ tiền gửi
ngân hàng và IMF sẽ giúp đỡ để tái cơ cấu vốn của hệ thống ngân hàng.
Sean Hyman (03/10/ 2011_ Five-Year Fate of the Euro);
Sean Hyman cho rằng trong thời gian tới khu vực châu Âu có thể giữ tất cả các thành
viên. Nó sẽ vẫn sống và đồng euro vẫn sẽ tồn tại.
Tuy nhiên, đến năm 2016, Liên minh tiền tệ sẽ chỉ có các nước có nền kinh tế lớn. Hầu
hết các nền kinh tế nhỏ sẽ bị buộc phải thoát khỏi đồng euro và lập một đồng tiền cho riêng
mình.
Với các nước có đồng tiền và ngân hàng trung ương riêng của họ, khi các khoản nợ
chồng chất lên, họ sẽ có thể chỉ đơn giản là phá giá đồng tiền của họ (tương tự như Fed đã
làm với đồng đô la).
Đây không phải là giải pháp tốt nhất, nhưng nó sẽ giúp thanh tốn các khoản nợ của họ.
Và các quốc gia nhỏ hơn sẽ khơng cịn kéo các nền kinh tế lớn hơn đi xuống.
Cuối cùng, việc làm này sẽ là tốt nhất cho khu vực châu Âu.
Đồng Euro sẽ tiếp tục tồn tại nhưng có sự rút lui của các nước có nền kinh tế
mạnh
Anil Kashyap (the Edward Eagle Brown Professor of Economics and Finance at
the University of Chicago Booth School of Business, a co-director of the Initiative on
Global Markets, and a previous Freakonomics contributor); và Gavyn Davies cùng đồng
quan điểm khi cho rằng các quốc gia lớn rút lui vì lí do lạm phát.

11



Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Gavyn Davies cho rằng Đức và một số quốc gia khác sẽ rút lui vì lo sợ lạm phát. Xét
đến cương vị hiện tại của họ, họ hầu như không muốn giữ lại tên gọi Euro cho đồng tiền
chung của họ. Thay vào đó, họ sẽ đưa ra một tên gọi mới. Các quốc gia còn lại vẫn sẽ tiếp tục
duy trì đồng tiền chung Euro nhưng giá trị Euro khi đó sẽ mất giá so với USD và đồng tiền
chung mới do Đức và các nước tách ra thành lập.
Đồng Euro sẽ tồn tại một cách toàn vẹn
Christian Leuz (the Joseph Sondheimer Professor of International Economics,
Finance and Accounting at the University of Chicago Booth School of Business and
a Co-Director of the Initiative on Global Markets);
Liên minh Châu Âu tồn tại vì lý do chính trị. Về vấn đề này, một đồng tiền chung là một
bước tiếp theo tự nhiên trong quá trình hội nhập Châu Âu, đồng euro đã được đồng ý vì lý do
chính trị. Lý do về kinh tế không được ông nhấn mạnh. Theo ông, quá trình ra đời đồng tiền
chung Châu Âu đã đi quá nhanh và dẫn đến nhiều thiếu sót trong cơ chế.
Nếu mục tiêu chính trị cuối cùng là để có một Liên minh tích hợp chặt chẽ của châu Âu
thì Euro tiếp tục giữ vai trò đồng tiền chung trong tương lai như là một kết quả hợp lý. Tuy
nhiên, sự sống cịn của đồng Euro địi hỏi phải tích hợp mạnh mẽ giữa nền tài chính mạnh về
nội lực, giám sát nhiều hơn, và quan trọng nhất là khả năng phản ứng nhanh trước những biến
cố và không phụ thuộc theo quyết định chính trị. Bên cạnh đó, tái cơ cấu vốn dài hạn của hệ
thống ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Đó là lý do để đồng Euro tiếp tục tồn tại.
Anil Kashyap cũng có niềm tin về một sự hồi sinh mạnh mẽ nhưng với hai biện pháp
như sau:
Đơn giản nhất, ECB sẽ tiến hành mua lại các khoản nợ chính phủ và do đó làm giảm áp
lực ngân sách. Nếu các nước khủng hoảng sử dụng thời gian để cơ cấu lại nền kinh tế của họ

để tạo ra tăng trưởng, liên minh tiền tệ có thể được cứu vãn. Những giải pháp của ECB đưa ra
có thể kèm theo một tỷ lệ lạm phát cao chưa từng thấy từ khi đồng Euro ra đời. Nếu khơng cơ
cấu lại sẽ có thể lạm phát cao hơn nữa.
Biện pháp thay thế thứ 2 để làm giảm áp lực ngân sách là được sự đồng ý hỗ trợ của các
nước mạnh (Quan trọng nhất là Đức) để giúp trang trải các khoản nợ. Điều này có thể làm sụt
giảm mức tín nhiệm của Đức nhưng sẽ giúp giảm các chi phí ngân sách cho các nước khủng
hoảng. Nhưng cũng như các giải pháp của châu Âu, nếu họ không tập trung cắt giảm những
chi tiêu, cải cách kinh tế để cải thiện tính cạnh tranh, tăng thu thuế thì chính người Đức có thể
bị mắc câu trước một khoản tài trợ quá lớn và tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn.
3.2 Sự tan rã là một kết quả tất yếu?
Roger Craine (30/11/2011_ Emeritus professor of economics at the University of
California, Berkeley); Đồng Euro sẽ chết và kéo theo nó là sự tàn phá khu vực Châu Âu và cả
thế giới. Câu hỏi đặt ra sẽ là khi nào cái chết này sẽ đến. Ông khơng kì vọng đồng Euro sẽ
duy trì 1 năm nữa.
Thực tế nghiệt ngã là Liên minh Châu Âu khơng có bất kì kế hoạch đáng tin cậy nào
trong việc níu giữ đồng Euro.
12


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Một vài ngân hàng đang lo ngại Hy Lạp sẽ vỡ nợ bởi họ hiện nắm giữ trái phiếu của Hy
Lạp và một sự vỡ nợ đồng nghĩa với việc họ phải nhận lấy những mất mát. Những nhà phát
thành CDS cho những trái chủ, đối với những mất mát từ việc vỡ nợ họ không hề mong muốn
xảy ra tình trạng vỡ nợ bởi họ phải có trách nhiệm với những hợp đồng đã kí. Một kịch bản
sụp đổ tương tự khủng hoảng Mỹ 2008 đặt ra trước mắt cho hệ thống ngân hàng Châu Âu.
Từ đó, tâm lý bầy đàn hoảng loạn xuất hiện. Các nhà đầu tư giờ đây muốn giảm thiểu

những liên hệ của họ đến những khoản nợ của Châu Âu. Những người dân Châu Âu khôn
ngoan đang chuyển dần các khoản tiền gửi của họ đến những nơi an toàn hơn như Mỹ và
Thụy Sỹ. Bởi vì họ biết rằng khi sự sụp đổ xảy ra, chính phủ sẽ cho đóng băng các tài khoản
tiền gửi để ngừng hoạt động của các ngân hàng.
ECB hiện tại là hy vọng duy nhất. Nó có một quyền lực – khả năng in tiền – để có thể
ngăn chặn sự sụp đổ nhanh chóng ở Châu Âu. Nhưng họ đã kiên định quan điểm ổn định giá
cả và họ sẽ không hỗ trợ đối với các khoản nợ công của các quốc gia thành viên. Như vậy,
vấn đề đồng tiền chung Châu Âu tan rã chỉ còn là vấn đề thời gian.
Gerard Lyons_Chief economist Standard Chartered Bank (02/2012_ The experts'
view on the euro's future: it doesn't have one);
Đồng euro khơng thể tồn tại với tình trạng hiện giờ của nó. Điều đó sẽ có nghĩa là sự sụp
đổ là không thể tránh khỏi. Đồng euro đã được thúc đẩy bởi chính trị ngay từ đầu. Vì vậy đối
với đồng Euro để tồn tại thì cần có sự thay đổi thực sự về chính trị. Điểm mấu chốt bắt nguồn
từ việc các nhà lãnh đạo châu Âu đã xác định sai vấn đề. Khi xác định các vấn đề sai, họ sẽ có
giải pháp sai. Châu Âu khơng có vấn đề về nợ, Châu Âu có vấn đề về tăng trưởng. Mặc dù họ
vay nợ nhiều, nhưng vấn đề nợ có thể được cứu chữa bởi sự tăng trưởng. Nếu ngay từ đầu
cho rằng đây chỉ là vấn đề về nợ khi đó sẽ dẫn đến những giải pháp sai lầm.
Ngồi góc nhìn về mặt kinh tế, chúng tơi dẫn chứng quan điểm về mặt chính trị để người
đọc có cái nhìn đa chiều hơn về số phận của đồng tiền chung Châu Âu.
III. Kết luận
Khủng hoảng nợ Châu Âu được hình thành từ nhiều yếu tố, bao gồm việc tồn cầu hóa
hệ thống tài chính, sự bất ổn trong chính sách vĩ mơ và vi mơ của các nước, tình trạng cho
vay tín dụng tràn lan, bong bóng đầu tư bất động sản và các chính sách giải cứu các ngân
hàng làm ăn thua lỗ….Trong đó thì cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ khơng phải là “ngòi
nổ” cho cuộc khủng hoảng Châu Âu mà chỉ là một trong những tác nhân làm suy yếu hệ
thống ngân hàng Châu Âu, địi hỏi các gói cứu trợ của chính phủ dẫn đến nợ cơng tăng. Cuộc
khủng hoảng ở Mỹ 2008 đã đánh mạnh vào hệ thống ngân hàng Châu Âu. Sự suy giảm đã xô
ngã hệ thống ngân hàng Châu Âu và lây lan qua thị trường tài chính và ngày càng nguy hại
hơn.
Cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu không những gây ra cơn chấn động rộng khắp khu vực

tài chính của châu Âu và đe dọa nhấn chìm dự án đáng giá nhất của EU là đồng Euro, mà cịn
gây ra trận sóng thần khổng lồ đổ ập vào đời sống chính trị của khu vực. Liệu những căng
thẳng hiện nay đối với đồng Euro sẽ chỉ tạm thời hay sẽ là dấu chấm hết cho 10 năm tồn tại?

13


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

Dựa vào các bài nghiên cứu, nhóm chúng tơi ủng hộ lập luận của kịch bản “Đồng Euro sẽ tiếp
tục tồn tại nhưng có sự rút lui của các nước ngoại vi”.
Tuy nhiên mọi chuyện vẫn cịn đang ở phía trước. Việc bây giờ chúng ta có thể làm là
chờ đợi…

CHỮ VIẾT TẮT
14


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

*****
1. ABS: Asset backed security.
2. ABCP: Asset-backed commercial paper.
3. AIG: American International Group.

4. BIS: Bank for International Settlements.
5. CDO: Collateralized debt obligation
6. CDS: credit default swap.
7. IMF: The International Monetary Fund.
8. ECB: the European Central Bank.
9. EFSF: European Financial Stability Facility.
10. EU: European Union.
11. FED: The Foundation for Enterprise Development.
12. G20: the Group of Twenty Finance Ministers and Central Bank Governors.
13. MBS: Morgage backed security.
14. SIV: Structured investment vehicle
15. TARP: Troubled Assets Relief Program.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

15


Tài Chính Quốc Tế

GVHD: T.S. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
TH: Nhóm 5_NH6_K20

*****
1.

Anders Aslund (06/2011); Lessons from the East European Financial Crisis, 2008–
2010;

2.


Christian Leuz, Anil Kashyap, Roger Craine; Circling the Drain: Can the Euro Be
Saved, Or Is It Doomed? A Freakonomics Quorum;

3.

Dwyer Gunn (11/2011); />
4.

European Economy (2009); Economic Crisis in Europe: Causes, Consequences and
Responses;

5.

Fred Moseley (2009); The U.S. economic crisis: Causes and solution;

6.

Gavyn Davies (27/11/2011); Thinking the unthinkable on a euro break-up;

7.

George Soros (13/10/2011); Does the Euro Have a Future?

8.

Gerard Lyons (02/2012); The experts' view on the euro's future: it doesn't have one;

9.


Iain Macwhirter (2008), Europe's looming crisis;

10.

Isabela Massa, Jodie Keane and Jane Kennan (10/2011); The euro zone crisis: risks
for developing countries;

11.

James K. Jackson (24/06/2009); The Financial Crisis_Impact on and Response by
The European Union;

12.

Jeffry Friedan (2011); Europe’s Lehman moment;

13.

Jeffry Friedan và Manzie D. Chinn (2010), Lost Decades: The Making of America's
Debt Crisis and the Long Recovery, page 49-50;

14.

Pat Dorsey (05/2011); A U.S and Europe Crises Comparison;

15.

Pinyo (2008); What Caused The Economic Crisis Of 2008?

16.


Roger Craine (30/11/2011_ Emeritus professor of economics at the University of
California, Berkeley);

17.

Sean Hyman (03/10/2011); Five-Year Fate of the Euro;

18.

W. P. Carey School of Business (2011); Debt Crisis:Similarities, Differences and
Lessons learned from the U.S. and Europe;

16



×