Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Thực chất và ý nghĩa của nhận thức luận phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.52 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THẮNG
THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA
CỦA NHẬN THỨC LUẬN PHẬT GIÁO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
TRIẾT HỌC
Huế, 2010
NGUYỄN THỊ THẮNG - LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC - HUẾ, 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ THẮNG
THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA
CỦA NHẬN THỨC LUẬN PHẬT GIÁO
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THANH TÂN
Huế, 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên
cứu của bản thân tôi, trong đó có sự kế thừa kết quả
nghiên cứu của các học giả đi trước, với những trích
dẫn và sử dụng các tài liệu trong giới hạn cho phép.
Luận văn này chưa được công bố trên các phương
tiện thông tin cũng như không trùng với bất kỳ công


trình khoa học nào đã công bố trước đây.
Tác giả
Nguyễn Thị Thắng

Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn, tôi xin chân thành cảm ơn
quý thầy cô giáo, những người đã trực tiếp giảng dạy và
trau dồi kiến thức bổ ích cho tôi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc nhất đến thầy giáo - TS. Nguyễn Thanh Tân, người đã
hướng dẫn, tạo điều kiện tốt nhất và truyền nhiệt huyết giúp
tôi có động lực hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin được cảm ơn Khoa Lý luận Chính trị,
Trường Đại học Khoa Học Huế cùng gia đình và đồng
nghiệp đã luôn bên cạnh động viên tôi trong suốt thời gian
học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn
Huế, tháng 10 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Thị Thắng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận nhận thức được coi là học thuyết về khả năng nhận thức của con
người, về sự xuất hiện và phát triển của nhận thức cũng như về con đường,
phương pháp nhận thức Từ trước đến nay, nó luôn là một chủ đề lớn của
triết học.
Nhận thức luận hay lý luận nhận thức cũng là một trong những nội dung
cơ bản của nhiều hệ thống triết học lớn. Trong lịch sử triết học, vấn đề về
nhận thức luôn đóng vai trò chủ yếu và thậm chí, có khi (thời cận đại ở Tây
Âu) còn là vấn đề trung tâm của triết học. Vấn đề này với tính cách là một

nội dung quan trọng trong vấn đề cơ bản của triết học, có thực chất là vấn đề
về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong quá trình nhận thức. Vì vậy,
lý luận nhận thức có nội dung rất phong phú gồm quan niệm về bản chất của
nhận thức, về quá trình nhận thức và các cấp độ của nhận thức, chân lý và
tiêu chuẩn của chân lý cũng như tính tin cậy của tri thức Vấn đề nhận thức
luận trong triết học còn được thể hiện về phương diện bản thể luận, trong
quan niệm về ý thức, sự lý giải về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất và
trong cả tư tưởng triết học về con người.
Mọi trào lưu triết học trong sự phát triển của mình không thể không đề
cập đến các vấn đề nhận thức luận. Triết học Phật giáo cũng vậy, có một nội
dung quan trọng là bàn về các vấn đề nhận thức luận. Nhận thức luận Phật
giáo không chỉ có tác dụng làm sáng tỏ những tư tưởng triết học của bản thân
trường phái này, mà còn có những cống hiến nhất định cho sự phát triển của
nhận thức luận nói chung. Vì vậy, sẽ thật là thiếu sót khi chúng ta bàn về
nhận thức luận nói chung mà bỏ qua vấn đề nhận thức luận trong triết học
Phật giáo, bởi nếu không bàn về nhận thức luận Phật giáo thì không thể bàn
đến triết học Phật giáo - một trào lưu triết học đã từng có những ảnh hưởng
nhất định trong lịch sử tư tưởng của loài người ở quá khứ, hiện tại và trong cả
tương lai.
Có thể nhận định rằng, mảng nhận thức luận trong triết học Phật giáo
bên cạnh những hạn chế nhất định còn có những đóng góp to lớn cho sự phát
triển tư duy triết học Phật giáo nói riêng và cho nền triết học của nhân loại
nói chung. Vì thế, bàn về nhận thức luận Phật giáo là một điều cần thiết đối
với những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy triết học. Xuất phát từ
lý do đó, tác giả chọn vấn đề: “Thực chất và ý nghĩa của nhận thức luận
Phật giáo” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói, các vấn đề của nhận thức luận đã được bàn đến ngay từ buổi
ban đầu khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra Phật giáo. Ngoài số lượng
Kinh, Luật, Luận của Phật giáo được tích lũy hơn 2600 năm qua, còn có

nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này vào những năm của thế
kỷ XX và hiện nay.
Trong tác phẩm “Tìm hiểu trung luận, Nhận thức và không tánh”, tác giả
Hồng Dương Nguyễn Văn Hai đã bàn luận lời Đức Phật để giải thích và làm
rõ các quan năng của nhận thức theo quan điểm của triết học Phật giáo.
Khi đề cập đến nhận thức luận của triết học Phật giáo, trong tác phẩm
“Cốt tuỷ của đạo Phật”, tác giả Suzuki cho thấy rằng, chính con người, chính
chúng ta, với khả năng nhận thức của mình mới có thể làm cho thế giới lớn
lên, và như vậy là cả chúng ta cũng đang lớn dần lên.
Tác giả Thích Tâm Phương trong tác phẩm: “Tìm hiểu lộ trình tâm qua
luận pháp thắng tập yếu” (Nhà xuất bản tôn giáo) cho rằng: “Đức Phật đặt
nặng sự chú ý vào tâm và những hiện tượng tâm linh, vì đời sống nội tâm
đóng một vai trò rất lớn làm phát khởi hành động của con người. An lạc hay
khổ tâm đều ở nơi tâm. Tâm lý học Phật giáo hướng dẫn hành giả vào đường
lối phân biệt và khảo sát nhằm khuyến khích mỗi người tự phát triển năng lực
nhận thức và phẩm chất nội tâm”.
Trong “Luận thành duy thức” tác giả Thích Thiện Siêu có bàn rằng:
“Nói duy thức chính là đưa ra lời khai thị, thức tỉnh người ta hãy tự giác, hãy
quán tâm mình, nhìn lại các năng lực thiên biến vạn hoá ở ngay trong mình
để gạn lọc nó, trau dồi nó, sữa chữa nó, phải biến hoá như thế nào để chỉ đem
lại lợi lạc, chứ đừng gây ra đau khổ”.
Hòa thượng Thích Nhất Hạnh với tác phẩm “Vấn đề nhận thức trong
duy thức học” đã đưa ra sự phân tích các hình thái nhận thức: hiện lượng, tỉ
lượng và phi lượng. Ông nhấn mạnh: “ điều hệ trọng nhất là thức bao gồm
trong nó cả phần chủ thể và đối tượng. Kiến phần và Tướng phần là hai phần
thiết yếu không thể không có của thức, của nhận thức”.
Trong luận án tiến sĩ “Một số vấn đề lôgíc học Phật giáo”, tác giả Phạm
Quỳnh đã chỉ ra các cấp độ của nhận thức được thể hiện trong thuyết Tam tự
tính của triết học Phật giáo là: Biến kế sở chấp tính, Y tha khởi tính và Viên
thành thực tính.

Bên cạnh những công trình nói trên, khi bàn về nhận thức luận Phật giáo
còn có các tác phẩm như: “Lối vào nhân minh học” của Thích Thiện Siêu,
“Duy thức học nhập môn” của Thích Thiện Hoa; “Tâm lý học Phật giáo” của
Thích Tâm Thiện
Các công trình trên đây đã bàn về Nhân minh luận, Duy thức học, Lôgic
học, Tâm lý học Phật giáo và có gián tiếp đề cập đến một số khía cạnh nhất
định của nhận thức luận có liên quan đến đề tài. Những công trình đó là tài
liệu tham khảo quý giá, đã có nhiều gợi ý giúp chúng tôi hoàn thành luận văn
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài là làm rõ thực chất và ý nghĩa của nhận thức luận
Phật giáo.
Trên cơ sở mục đích đó, tác giả đặt ra nhiệm vụ là:
- Phân tích thực chất của nhận thức luận Phật giáo.
- Phân tích ý nghĩa của nhận thức luận Phật giáo đối với sự phát triển
của bản thân triết học Phật giáo nói riêng và đối với sự phát triển của tư
tưởng triết học nói chung.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài là các nguyên lý duy vật biện chứng của triết học
Mác - Lênin; đặc biệt là các nguyên lý duy vật biện chứng về nhận thức.
Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài là các nguyên tắc của phép biện
chứng. Để vận dụng các nguyên tắc này vào việc giải quyết các nhiệm vụ của
đề tài, chúng tôi kết hợp sử dụng các phương pháp chung như phân tích và
tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa, thống kê và chú giải các tài liệu.
5. Đóng góp của luận văn
Với luận văn này, tác giả cố gắng trình bày một cách cơ bản, có tính hệ
thống về nhận thức luận Phật giáo trong sự so sánh với nhận thức luận của
các hệ thống triết học khác, nhất là với nhận thức luận mácxít; từ đó đánh giá
ý nghĩa của bộ phận này trong triết học Phật giáo.
Nếu thực hiện được mục đích này, luận văn có thể làm tài liệu tham

khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy môn triết học Phương đông, mà
đặc biệt là môn triết học Phật giáo ở các trường đại học, cao đẳng.
Luận văn này cũng có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các tăng ni
sinh theo học các hệ đào tạo Phật giáo.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn có hai chương (5 tiết).
Chương 1
THỰC CHẤT CỦA NHẬN THỨC LUẬN PHẬT GIÁO
1.1. Những vấn đề của nhận thức luận Phật giáo
Khoảng 600 năm trước Tây lịch, người Ấn Độ cổ đại đã chứng kiến sự
ra đời của một hệ tư tưởng mà về sau mang tầm vóc nhân loại, đó là Đạo
Phật. Trải qua hơn 25 thế kỷ, tư tưởng của đạo Phật không những vẫn tồn tại,
có ảnh hưởng ngày càng lớn trên thế giới, mà còn được mọi người biết đến
với nhiều phát hiện mới mẻ.
Bên cạnh tính huyền thoại như các vị giáo chủ của nhiều tôn giáo khác,
người sáng lập ra đạo Phật còn là một nhân vật lịch sử - đó là đức Phật Thích
Ca. Xuất phát từ việc nhìn thấu nỗi khổ ở đời, Ngài đi tìm con đường diệt khổ
cho mình, cho mọi người và cho cả chúng sinh. Chính trong quá trình đi tìm
con đường diệt khổ ấy, Ngài đã từng bước xây dựng một hệ thống lý luận về
nhận thức mang đặc trưng riêng của Phật giáo. Hệ thống này càng được bổ
sung, dần hoàn thiện hơn bởi các môn đồ sau này của Ngài. Lý luận nhận
thức trong triết học Phật giáo có những điểm khác so với nhận thức luận của
triết học Mác - Lênin và cả với nhiều trường phái triết học trong lịch sử,
nhưng chính những điểm khác nhau ấy đã làm cho triết học Phật giáo, đặc
biệt là nhận thức luận Phật giáo thể hiện được đường hướng tu hành và chứng
nghiệm về thế giới theo một cách riêng của mình. Với những nét riêng ấy,
nhận thức luận của Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý
luận nhận thức của nhân loại.
Mỗi khi bàn về vấn đề nhận thức, các câu hỏi sau đây thường được đặt ra:

Thứ nhất, làm sao biết rõ tiến trình nhận thức?
Thứ hai, nếu phân loại những gì mình nhận thức được thì có bao nhiêu
đối tượng được lượng biết tất cả?
Thứ ba, bằng cách nào mình lượng biết được những đối tượng ấy (các
hình thái của nhận thức)?
Những câu hỏi cứ lần lượt đặt ra song không phải trường phái triết học nào
cũng có thể trả lời và trả lời thấu đáo được. Vậy, triết học Phật giáo thì sao?
Trước hết, chúng ta tìm hiểu những quan niệm khái quát trong nhận thức
luận Phật giáo qua giáo lý Tám thức.
Phật giáo cho rằng, con người có sáu năng lực nhận biết về đối tượng,
gọi là Lục căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Tương ứng với Lục căn là đối
tượng trong khách thể nhận thức (gọi là Cảnh) gồm Lục trần: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Khi Lục căn gặp phải Lục trần trong quá trình nhận biết
thì Phật giáo gọi là Lục nhập. Sự gặp gỡ của Lục căn và Lục trần trong quá
trình nhận biết sinh ra cái biết, gọi là Thức, mà trước hết gồm có Lục thức:
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
Nhãn căn lấy sắc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhãn thức.
Nhĩ căn lấy thính trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Nhĩ thức.
Tỷ căn lấy hương trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Tỷ thức.
Thiệt căn lấy vị trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thiệt thức.
Thân căn lấy xúc trần làm đối tượng, có thể phát sinh ra Thân thức.
Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi , tác dụng thấy, nghe, ngửi ấy là Thức. Mỗi
thức có một tác dụng riêng, thức là một tác dụng vô hình, vô tướng. Thức ở
đâu cũng có và ở đâu có căn và có cảnh thì tác dụng ấy có thể được biểu hiện.
Phân biệt thuần tuý của năm thức ấy là một phân biệt bằng trực giác, nên
không phải là một phân biệt có tính cách suy tầm, đắn đo. Phân biệt suy tầm đắn
đo là phân biệt của thức thứ sáu tức ý thức rộng lớn vô cùng. Đối tượng của ý
thức là Pháp trần sinh ra các tư tưởng. Khi thức này hợp tác cùng năm thức
trước thì đối tượng tổng hợp của nó là ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc).
Nếu năm căn trước (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) có quan năng phát sinh

mang hình chất thì năng lực thứ sáu (ý) có quan năng phát sinh không mang
hình chất gọi là Mạt na. Phân tích các tác dụng của Mạt na, Phật giáo chia ra,
Mạt na sinh ra cái biết (phân biệt) mang tính gián đoạn (biết khi tỉnh, không
biết khi ngủ) gọi là Ý thức, Mạt na có tác dụng chấp ngã, tức chấp có, Ta gọi
là Mạt na thức. Mạt na chấp cái biết của bảy năng lực trên đây và trở thành
kho chứa của bảy thức gọi là Alaya thức (Tàng thức).
Cái mà thức thứ bảy (Mạt na) chấp làm bản ngã là một phần của thức
Alaya. Thức này là tất cả, là chổ chứa đựng tất cả các hình ảnh do bảy thức
trước khảm nhập vào, do đó dường như không để mất đi một hình ảnh nào.
Trên đây là những lược thuật về tám phần của Thức. Đó sẽ là những căn
cứ để chúng tôi đi vào làm rõ các quan điểm trong nhận thức luận của triết
học Phật giáo.
Hàng ngày, chúng ta phải tiếp xúc, phản ứng với nhiều sự kiện, nhiều
biến cố, và tin rằng có một thế giới hiện hữu ở bên ngoài dẫu mình có nhìn
vào nó hay không. Rồi cái cảm giác về sự hiện hữu khách quan đó được khơi
rộng ra và gắn cho phẩm tính của sự vật. Ta cho rằng sự vật có kích thước, có
khối lượng là điều hiển nhiên mặc dù ta không hề có ý nghĩ đem những phẩm
tính ấy ra đo lường. Tiến thêm một bước trừu tượng nữa, ta gán cho sự vật
một thể tính khách quan, một bản chất tự nhiên. Với tập quán tin tưởng như
vậy, ta luôn luôn cho rằng, cái gì ta cảm nhận được qua giác quan hay tưởng
đã kinh nghiệm trong quá khứ đều thật. Bởi vậy, khi muốn biết rõ sự vật thì
ta thường đi tìm hiểu phẩm tính hay thể tính của sự vật mà ta nghĩ là có thật
“ở ngoài ta”.
Lối quan niệm coi thực tại khách quan là tự tính của sự vật như vậy
được nhiều nhà triết học từ xưa đến nay, từ phương Đông đến phương Tây
đem ra bàn cãi với nhiều kiến giải khác nhau. Vấn đề có hay không có thực
tại khách quan từ trước đến giờ vẫn chưa giải quyết được một cách triệt để
bởi vì những người tranh luận không chịu đồng ý một số tiêu chuẩn giống
nhau để đem ra áp dụng.
Nếu như trong triết học Mác - Lênin, nhận thức được coi là quá trình

phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là quá trình tạo thành tri thức
trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Thế giới khách quan ở đây là
vật chất tồn tại trong sự vận động, từ vận động ở trình độ thấp như vận động
có tính cơ giới của các vật thể vô cơ đến sự vận động ở trình độ cao như
trong sự sống, trong các hình thái kinh tế - xã hội, trong các hoạt động tư duy,
sáng tạo, các hoạt động tâm lý của con người Như vậy, có thể nói, đối
tượng nhận thức trong triết học Mác - Lênin được quan niệm là các sự kiện,
hiện tượng và quá trình đa dạng của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong triết học Phật giáo, khách thể nhận thức được chia thành ba
nhóm, gọi là Tam cảnh gồm: Tánh cảnh, Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh. Ba
cảnh này còn được gọi là Tướng phần, trong tương quan với chủ thể nhận
thức thì được gọi là Kiến phần.
Kinh Bộ lượng - Du già của Phật giáo cho rằng, thực tại là một dòng
biến chuyển, vận động không ngừng, là sự thống nhất của vận động và đứng
im. Các thời điểm đứng im đó diễn ra trong thời khắc rất ngắn, và ngay trong
thời điểm ngắn ngũi như vậy, thực tại cũng đã có sinh, có diệt, có đủ bốn
tướng sinh, trụ, dị, diệt. Mặc dù có tương tục tiếp nối, song sự vật ở những sát
na khác nhau được coi là những hiện tượng khác nhau. Mỗi sát na cũng có
tính tách biệt với những sát na khác.
Vì vậy, chỉ những thực tại có trong từng sát na mới là đích thực, hay còn
gọi là thực tại tối cao, thực tại trực tiếp, thực tại cứu cánh. Đó là thực tại
không có vị trí xác định trong không gian và trì tục tính (tính liên tục) trong
thời gian, mà chỉ là những điểm tồn tại trong từng sát na. Thực tại đó là thực
tại siêu ngôn ngữ, không thể diễn đạt thành lời. Thực tại này trong nhận thức
luận Phật giáo gọi là Tánh cảnh.
Tánh là bản chất, Cảnh là đối tượng. Như vậy, Tánh cảnh là bản chất
của đối tượng hay là bản chất của thực tại khách quan. Tác giả Thích Tâm
Thiện trong tác phẩm Tâm lý học Phật giáo đã nhận định rằng: “Tự thân đỉnh
Lambiang thì hoàn toàn khác so với tri giác của chúng ta về nó. Đỉnh
Lambiang trong thực tại và trong tri giác không giống nhau vì bản thân tri

giác của con người thường bị méo mó và rất sai lầm” [20,tr.43].
Thực tại mà triết học Phật giáo muốn bàn đến ở đây đó là thực tại tự
thân, nó gần giống như thế giới “vật tự nó” của Kant. Loại thực tại này được
xem là trung thực nhất, tự thân tuyệt đối, không thể nhận thức bằng con
đường suy diễn, luận đoán.
Căn cứ trên phương diện bản chất và hiện tượng, Tánh cảnh được chia
thành Vô chất tánh cảnh và Hữu chất tánh cảnh. Vô chất tánh cảnh là bản
chất đích thực của Tánh cảnh, người ta chỉ có thể đạt tới nó bằng vô lậu trí -
trí tuệ thanh tịnh của các bậc tam thừa đã dứt khỏi mọi phiền não câu nhiễm,
hoặc bát nhã trí, vô phân biệt trí Hữu chất tánh cảnh là những đối tượng
được thể hiện và được nhận thức theo luật nhân quả.
Loại thực tại thứ hai là thực tại gián tiếp. Đây là thực tại vay mượn, thực
tại có dự phần của tưởng tượng, dự phần của tư duy kiến tạo, tức là có phần
tham dự và tạo dựng của con người. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, nó là thực
tại nhận được trong hình ảnh chủ quan, trong khái niệm, trong các bản sao
tinh thần. Nhưng thực tại này không thuần là thực, nghĩa là nó chỉ là bản sao,
là thực tại gián tiếp hóa. Loại hiện thực này cũng có thể gọi là bán hiện thực,
bởi vì dù sao, nó cũng có sơ sở ở hiện thực khách quan. Loại thực tại này
trong triết học Phật giáo gọi là Đới chất cảnh. Đới là mang theo, mang lại.
Đới chất cảnh có nghĩa là cảnh mang lại từ thực tại thật (Vô chất tánh cảnh),
từ thế giới Tánh cảnh, nói chung, là một đại diện hay một thể hiện của Tánh
cảnh, là sản phẩm của thực tại nhưng không phải là thực tại tự thân, mà là
thực tại theo quan niệm của chủ thể nhận thức.
Dưới ánh sáng của Duy thức học, sự sống của con người hầu như là
sống với Đới chất cảnh nhiều hơn là Tánh cảnh; và đây là nguyên nhân tác
thành khổ đau, dục vọng của loài người.
Cảnh thứ hai này có thể là đối tượng của mọi thức, trừ thức thứ tám
(Alaya). Đây là những lĩnh vực được thể hiện dưới dạng những ý tưởng.
Những ý tưởng này được cấu tạo trên căn bản Hữu chất tánh cảnh để làm đối
tượng của thức. Thông thường, Đới chất cảnh được chia thành Chân đới chất

cảnh và Tự đới chất cảnh (chúng tôi sẽ làm rõ ở phần sau).
Cảnh thứ ba là Độc ảnh cảnh, đây là thế giới ảnh tượng do ý thức tái thiết
lại khi vắng mặt cảm giác trực tiếp, nghĩa là khi nó hoạt động vượt qua ảnh
hưởng cộng tác của năm thức đầu. Đây cũng là những hình ảnh, biểu tượng,
khái niệm, ngôn từ có tính thuần túy đã vượt qua sự chi phối trực tiếp của hiện
thực khách quan đứng sau chúng, là thực tại có trong tâm thức của con người,
do con người tạo dựng nên, là sản phẩm thuần túy của tư duy con người. Độc
ảnh cảnh chỉ có thể là đối tượng của ý thức mà không thể là đối tượng của các
thức khác. Khi ý thức cộng tác với năm thức đầu thì đối tượng có thể là Tánh
cảnh hay Đới chất cảnh. Còn khi nó hoạt động độc lập, vượt khỏi năm thức ấy
thì đối tượng của nó chỉ có thể là Độc ảnh cảnh, thế giới những ảnh tượng, có
cả trong các trường hợp hồi tưởng, tưởng tượng và mộng mị.
Độc ảnh cảnh có hai loại, đó là độc ảnh cảnh hữu chất và độc ảnh cảnh
vô chất.
Độc ảnh hữu chất là những ảnh tượng trung thành của những cảm giác
và ý tưởng đã từng làm đối tượng của ý thức. Ý thức tạo dựng lại ảnh tượng
của những gì đã làm đối tượng cho nó trước kia, và lấy những ảnh tượng này
làm đối tượng. Ảnh tượng của một con hổ mà ta thấy hôm qua nay được nhớ
lại trong trí nhớ của chúng ta, đó là một Độc ảnh cảnh chứ không phải là một
Đới chất cảnh. Vì sao? Bởi vì nó không được cấu tạo trực tiếp trong trường
hợp cảm giác. Ảnh tượng con hổ được tạo dựng trên một đới chất đã từng có
mặt, cho nên được gọi là Độc ảnh cảnh hữu chất.
Trái lại, Độc ảnh vô chất lại là sản phẩm hoàn toàn của ý thức, không
phải là hình bóng trung thành của các đối tượng cảm giác. Chẳng hạn, ảnh
tượng một vị thần trong nhận thức trẻ thơ hay ảnh tượng của một ngôi nhà mà
mình ước mơ sẽ xây dựng nên sau này đó là những Độc ảnh vô chất.
Tóm lại, Độc ảnh cảnh vô chất là đối tượng của ý thức trong trường hợp
tưởng tượng sáng tạo, trong khi Độc ảnh cảnh hữu chất là đối tượng của ý
thức trong trường hợp tưởng tượng phục hồi.
Có thể nói, đối tượng của nhận thức như được trình bày ở trên thể hiện

một sự chi tiết và có điểm khác so với triết học Mác - Lênin. Với triết học
Mác-Lênin, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con
người, quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách
quan. Đối tượng đó là các sự kiện, các hiện tượng cụ thể của vật chất đang
vận động. Nhưng với triết học Phật giáo, thực tại khách quan phải là thế giới
tự thân, thế giới Tánh cảnh, thế giới của tự nó chứ chưa xuyên qua bởi bất kỳ
nhận thức nào của con người; đó là thực tại siêu ngôn ngữ, không thể diễn đạt
thành lời. Và với triết học Phật giáo, đối tượng của nhận thức không chỉ là
thế giới tự thân ấy mà còn là thế giới của Đới chất cảnh, thế giới được mang
theo từ thực tại khách quan được nhận thức qua lăng kính chủ quan của con
người. Đối tượng nhận thức ấy còn có cả sự hồi tưởng lại và có cả những
hình ảnh, những ý tưởng và thế giới tưởng tượng của con người. Có thể nói,
sự phân biệt rõ ràng ấy chính là bước chuẩn bị cho sự phân chia các hình thái
nhận thức tương ứng tiếp theo trong triết học Phật giáo mà chúng tôi sẽ tiếp
tục trình bày.
Trong triết học Phật giáo, các hình thái của quá trình nhận thức được
trình bày trong học thuyết Tam lượng.
Lượng là lượng tính, là tính toán và so lường và cũng là sự phân biệt,
cân nhắc vạn pháp của Tâm thức để hiểu biết. Lượng còn gọi là năng phân
biệt. Năng phân biệt có nghĩa là tâm thức có sức, có lực phân biệt vạn pháp.
Nói cách khác, lượng ở đây là chỉ cho Tâm thức thuộc về chủ thể, có khả
năng phân biệt vạn pháp và Tâm thức phân biệt có tính cách so lường thiệt
hơn, cân nhắc lợi hại, phân tích đúng sai để chọn lựa tinh tường, sâu sắc cho
sự hiểu biết. Tâm thức nhờ phân biệt mới có thể hiểu biết rõ tính chất, giá trị
và ý nghĩa của mọi vật nên gọi là Lượng.
Hiện lượng được xem là hình thái đầu tiên của quá trình nhận thức.
Hiện lượng nghĩa là hiểu biết trực tiếp những cảnh vật, đối tượng đã
được hiện bày đầu tiên và sự hiểu biết hiện lượng hoàn toàn không có ý niệm
diễn dịch và suy luận. Tác dụng nhận thức ở đây chỉ thuần tuý trực cảm, trực
quan mà chưa có tính cách phán đoán và suy luận.

Năm thức đầu và ALaya thức là hai loại tâm thức luôn luôn nhận biết
bằng Hiện lượng.
Trước hết là trường hợp nhận thức của năm thức đầu, nghĩa là năm thức
cảm giác qua: thấy, nghe, nếm, ngửi và xúc chạm.
Năm tâm thức hiểu biết Hiện lượng nghĩa là khả năng của năm tâm thức
chỉ hiểu biết được những cảnh vật có hình chất và những cảnh vật không có
thể chất đang hiện hữu trong thế gian. Năm thức này hiểu biết Hiện lượng khi
có tính chất độc lập, nghĩa là khi chưa có sự cộng tác của ý thức - thức thứ
sáu và cũng không có sự so đo chấp trước hay sự điều khiển của thức Mạt na.
Năm tâm thức thường hiểu biết nơi cảnh vật đối tượng không có sự suy luận
và diễn dịch. Nói cách khác, đối với vạn pháp, năm tâm thức hiểu biết không
có tính so lường thiệt hơn, không có phân biệt phải trái, tốt xấu, không có cân
nhắc đúng sai Sự hiểu biết của năm tâm thức này là sự hiểu biết thuộc về
Hiện lượng.
Chẳng hạn, bà của Nam thích cháu mình đọc truyện cổ tích cho bà nghe,
nhưng cậu ấy không thích vì đã có hẹn đi chơi bóng cùng bạn. Bà của Nam
không biết điều đó nên bắt Nam phải đọc và cậu ấy cố đọc nhanh câu chuyện
để kịp giờ đi chơi. Trong lúc đọc truyện, nhãn thức của cậu ấy chỉ để đọc và
Nam đọc một cách tự nhiên, không hề có một chút sai sót nào. Nhưng khi đọc
xong, cậu ấy không thể biết được sách đó nói về gì và nếu có ai đó muốn
nghe Nam kể lại câu chuyện đó thì cậu ấy cũng không thể làm được điều đó.
Vì sao vậy? Vì trong lúc đọc truyện, Nam không hề để ý vào những nhận
định, mặc dù cậu ấy quả quyết đọc không sai một chữ nào của câu truyện.
Đây là một hiện lượng mà nhãn thức của Nam không hề cộng tác với ý thức
(thức thứ sáu) để phân biệt tính chất, giá trị và ý nghĩa của câu truyện. Cho
nên, Nam không thể tường thuật lại câu chuyện ấy cho người khác nghe.
Như vậy, sự nhận biết của năm tâm thức đối với vạn pháp chính là Hiện
lượng. Đó là sự nhận thức trực tiếp, tức khắc, phi ảo giác, phi kiến tạo, thông
qua các kênh hoạt động giác quan tiếp xúc với đối tượng.
Không chỉ có năm tâm thức mới có khả năng nhận biết Hiện lượng mà

còn có cả thức Alaya.
Có thể nói, vạn pháp trong thế gian đều là Tướng phần của Kiến phần
thức Alaya xây dựng. Tướng phần của hiện tượng vạn pháp đã được phát sinh
từ nơi thế giới hạt giống trong thể thức Alaya. Nhưng điều đáng chú ý, thế
giới hạt giống nghiệp lực và nghiệp tướng trong thể thức Alaya chỉ làm kiểu
mẫu căn bản cho Kiến phần Alaya khi xây dựng vạn Pháp. Trong giai đoạn
xây dựng vạn pháp, Kiến phần Alaya trực tiếp lấy kiểu mẫu nơi thế giới hạt
giống mà không qua trung gian của các Tâm thức khác, nghĩa là Kiến phần
thức Alaya không nhờ đến các Tâm thức khác tiếp tay hỗ trợ. Như vậy, vạn
pháp trong thế gian được nhận biết là Hiện lượng của Kiến phần thức do
Alaya xây dựng và bảo trì. Chính vì vậy, trong triết học Phật giáo, sự nhận
biết Kiến phần của thức Alaya là thuộc về Hiện lượng.
Hình thái nhận thức thứ hai là Tỷ lượng.
Trong tiếng Hán, “tỷ” là so sánh, “tỷ lượng” là nhận thức thông qua sự
so sánh. Tỷ lượng cũng là xét đoán, tính toán theo sự so sánh đúng sai, cân
nhắc lợi hại, phân biệt phải quấy, lựa chọn hơn kém của tâm thức để hiểu
biết. Đây là sự hiểu biết của ý thức (thức thứ sáu). Ý thức hiểu biết vạn pháp
qua ảnh tử do năm tâm thức cung cấp. Không giống như sự hiểu biết trực tiếp
của năm tâm thức trước, ý thức hiểu biết vạn pháp qua sự suy luận, diễn giải,
nghĩa là ý thức luôn luôn phân biệt được danh xưng, ý nghĩa và tướng trạng
từng sự vật một để nhận biết tính chất cũng như giá trị mỗi loại.
Vậy, Tỷ lượng và Hiện lượng có hai đối tượng nhận thức khác nhau.
Đối tượng của Hiện lượng là Tự tướng với tính cách là cái riêng, cái đặc thù;
trong khi đối tượng của Tỷ lượng là Cộng tướng với tính cách là cái chung,
cái phổ biến, toàn thể. Cộng tướng có sự ngộ chấp chủ quan của chủ thể, sự
phản ánh của Tỷ lượng về cộng tướng chỉ là “giả hữu - giả có” (ước không,
ước có)
Nhận thức theo Tỷ lượng có hai loại, đó là Chân tỷ lượng và Tợ tỷ lượng.
Chân tỷ lượng có nghĩa là ý thức hiểu biết chính xác về tính chất, giá trị
và ý nghĩa của vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy luận và diễn

giải. Những hiện tượng ảnh tử do năm thức đầu cung cấp đều phát sinh từ nơi
những sự vật có thực chất trong thế gian nên gọi là chân và ý thức hiểu biết
đúng những hiện tượng ảnh tử đó bằng sự suy luận và diễn giải nên gọi là
Chân tỷ lượng.
Nếu Chân tỷ lượng là sự hiểu biết chính xác về tính chất, giá trị và ý
nghĩa của ý thức thứ sáu về vạn pháp hiện có mặt trong thế gian bằng sự suy
luận và diễn dịch thì Tợ tỷ lượng là việc ý thức nhớ lại (hồi tưởng) và so sánh
những quá trình nghiệm sống của mình để hiểu biết tính chất, ý nghĩa và giá
trị từng loại trong cuộc đời. Những quá trình nghiệm sống nói trên đã được
đúc kết lại thành những hạt giống và cũng đã được tàng trữ trong thể thức
Alaya. Khi muốn nhớ lại thì ý thức phải nhờ thức Mạt na mang những hình
ảnh của hạt giống này từ trong thể thức Alaya đưa lên để trình diện cho ý
thức thứ sáu so sánh. Sự so sánh này của ý thức để hiểu biết được gọi là Tợ tỷ
lượng, vì những hình ảnh đem so sánh này có phần không thực chất và cũng
không giống những sự vật hiện tượng có mặt trong thế gian.
Hình thái nhận thức thứ ba trong triết học Phật giáo gọi là Phi lượng.
Thực ra, đây không phải là một hình thái nhận thức độc lập với hai hình thái
nhận thức trước. Hiện lượng và Tỷ lượng có khi đúng và cũng có khi sai, mà
mỗi khi sai thì đều là Phi lượng. Hiện lượng mà sai thì không phải là Chân
hiện lượng mà là Tợ hiện lượng. Tỷ lượng mà sai thì không phải là Chân tỷ
lượng mà là Tợ tỷ lượng. Tợ ở đây là có vẻ giống như cái đó nhưng thực ra
không phải là cái đó. Chẳng hạn, khi ta đi trong đêm tối mà nhận lầm sợi dây
làm con rắn thì đó là Tợ hiện lượng; còn khi suy diễn sai một điều gì chẳng
hạn thì đó là Tợ tỷ lượng.
Như vậy, Phi lượng là sự xét đoán của Tỷ lượng và Hiện lượng nhưng
sai lầm, không đúng sự thật. Đây thường là sự hiểu biết của thức Mạt na, một
sự nhận thức bằng tưởng tượng, nhận biết mang tính chất so đo, chấp trước.
Sự xét đoán, so lường của Mạt na thức thường chấp trước những điều không
đúng chân giá trị của hiện tượng thực tại nên gọi là Phi lượng. Thức Mạt na
luôn chấp trước nên khống chế và điều khiển ý thức nhận xét mọi việc và

thường bóp méo sự thật. Sự hiểu biết vạn pháp của Mạt na thức không được
vô tư mà lại hay sai lệch nên gọi là Phi lượng. Chẳng hạn, người Việt Nam
thường có câu:
“Thương nhau thương cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”.
Đây là hiện tượng so lường một cách chủ quan của thức Mạt na qua ý
thức phân biệt.
Việc nêu ra và làm rõ các hình thái của quá trình nhận thức, có thể xem
là một trong những đóng góp có ý nghĩa tích cực của triết học Phật giáo đối
với sự phát triển của nhận thức luận nói chung. Với ba hình thái của quá trình
nhận thức bao gồm: Hiện lượng, Tỷ lượng và Phi lượng; trong đó Hiện lượng
đã có phần nào giống với các hình thức nhận thức đầu tiên (cảm giác và tri
giác) của nhận thức cảm tính, còn Tỷ lượng lại bao hàm các hình thức nhận
thức lý tính (biểu tượng, khái niệm, phán đoán, suy luận), trong đó biểu
tượng là hình thức giao thoa giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Còn Phi lượng, không có gì khác hơn, đó chính là sự sai lầm của Hiện lượng
và Tỷ lượng, tức sai lầm của cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Các hình thái nhận thức được trình bày như trên trong nhận thức luận
Phật giáo có phần giống và cũng có phần khác với việc phân chia các giai
đoạn, các hình thức của quá trình nhận thức trong nhận thức luận mácxít.
Trong Bút ký triết học, Lênin đã khắc họa con đường biện chứng của nhận
thức chân lý như sau: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn”. Theo quan điểm đó, nhận thức là một quá
trình biện chứng, diễn ra qua hai giai đoạn khác nhau, đó là nhận thức cảm
tính (trực quan sinh động) và nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng).
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, có
được là nhờ sự hoạt động của các giác quan nhận biết của con người như
thính giác, thị giác, xúc giác giai đoạn nhận thức này được tiến hành trong
ba hình thức như: cảm giác, tri giác và biểu tượng. Tương tự, nhận thức luận
Phật giáo cũng xem cảm giác, tri giác là những hình thái nhận thức cảm

tính. Riêng biểu tượng, nhận thức luận Phật giáo coi là hình thức của nhận
thức Tỷ lượng.
Trong nhận thức luận mácxít, nhận thức cảm tính chỉ cung cấp những
hiểu biết ban đầu về đối tượng nhận thức. Những hiểu biết đó thường là về
những vẻ bề ngoài của đối tượng. Từ những tri thức trực quan, cảm tính, bề
ngoài đó chưa thể phân biệt được hoặc xác định được cái bản chất và không
bản chất, cái tất nhiên và ngẫu nhiên, tính phổ biến và cá biệt. Hơn nữa, nhận
thức cảm tính luôn bị giới hạn trong hoạt động của các giác quan nên nhận
biết không thể vượt ra ngoài giới hạn của tri giác. Như vậy, với nhận thức
cảm tính, con người không thể nhận biết mọi không gian, sắc màu, âm thanh,
mùi vị hay tiếp xúc được với những khối lượng cực lớn, cực nhỏ; trong khi
nhiệm vụ của nhận thức là phải nắm bắt được bản chất, tính tất yếu và tính
quy luật của đối tượng. Nhận thức luận mácxít cho rằng, để thực hiện được
nhiệm vụ đó, quá trình nhận thức phải chuyển lên giai đoạn cao hơn, nhận
thức lý tính.
Coi hình thái nhận thức đầu tiên - Hiện lượng có đối tượng nhận thức là
cái riêng, cái đặc thù nên đích mà các nhà triết học Phật giáo hướng tới cho
Hiện lượng là chân lý tuyệt đối. Chính cái chân lý tuyệt đối ấy là tiền đề quan
trọng của quá trình lập luận. Chân lý tuyệt đối ở đây có thể đến với chủ thể
bằng nhiều con đường khác nhau như: trực quan cảm tính, trực quan siêu
nghiệm, bằng trực giác tâm linh. Với các đặc trưng nhận thức trực tiếp bằng
cảm giác, phi kiến tạo, phi ảo giác, cộng thêm vào đó là những trực giác siêu
nghiệm, tâm linh thì nhận thức của con người mới tiệm cận với chân lý tuyệt
đối được. Tức là chỉ riêng ở giai đoạn này, theo nhận thức luận Phật giáo, con
người mới có thể nắm bắt bản chất đích thực của thế giới các sự vật hiện
tượng, hiểu được bản chất của thế giới tự thân. Nếu chuyển sang hình thái
nhận thức Tỷ lượng thì con người sẽ không làm được điều đó. Rõ ràng, đây là
một điểm khác với nhận thức luận mácxít.
Về giai đoạn nhận thức thứ hai, nhận thức luận mácxít cho rằng, nhận
thức lý tính có được là hoạt động của tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng

là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan. Tư duy phải gắn
liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ và ngôn ngữ chính là cái
vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính năng động, sáng tạo nên nó có thể
phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật,
do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Muốn có tư duy, con người
phải sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa
và trừu tượng hóa Khác với điều này, ở hình thái nhận thức thứ hai - Tỷ
lượng, theo nhận thức luận Phật giáo, là sự nhận thức có xét đoán, tính toán,
so sánh đúng sai, cân nhắc lợi hại, lựa chọn hơn kém của Tâm thức. Đây
là sự hiểu biết của Ý thức chứ không giống sự hiểu biết trực tiếp của năm
tâm thức ở trước. Ý thức hiểu biết vạn pháp qua sự suy luận, diễn giải. Sự
so sánh, nhớ lại, hồi tưởng lại của ý thức so với hình ảnh của những hạt
giống lấy từ thể thức Alaya đưa lên trình diện cho ý thức là những hình ảnh
nhiều phần không thực chất và không đúng thật về các sự vật hiện tượng của
thế gian. Đó không thật là những sự vật hiện tượng tồn tại ở thế giới Tánh
cảnh, cho nên ở hình thái này, quá trình nhận thức thường dẫn con người
đến với nhiều sai biệt. Như vậy, Tỷ lượng có làm sâu sắc thêm nhận thức
nhưng cũng làm cho nó càng xa thực tại hơn.
Tỷ lượng hướng tới đối tượng là cái chung, cái phổ biến, gắn bó mật
thiết với ngôn ngữ và tư duy lôgíc của con người. Tuy nhiên, chân lý do Tỷ
lượng đem lại chỉ là chân lý tương đối, do tư duy kiến tạo mà có. Trong khi
nhận thức luận mácxít xem chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Tính tuyệt đối của chân lý đó là
tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức con
người với thế giới hiện thực khách quan. Còn tính tương đối của chân lý là
tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của
những tri thức với hiện thực khách quan. Như vậy, theo nhận thức luận
mácxít, muốn đạt đến chân lý Tuyệt đối thì những tri thức của con người phải
hoàn toàn phù hợp với hiện thực khách quan, nhưng sự phù hợp ấy không
phải có ngay lập tức từ ban đầu, mà chỉ đạt được trong một quá trình nhận

thức lâu dài xuyên qua vô số những chân lý tương đối bao gồm cả nhận thức
cảm tính và nhận thức lý tính, phải xuất phát từ thực tiễn để hình thành kinh
nghiệm và xây dựng lý luận. Và cuối cùng, điều quan trọng để biết tri thức ấy
đúng hay sai thì phải đem nó áp dụng vào trong thực tiễn. Quá trình ấy là một
quá trình lâu dài, chứ không phải chỉ đơn thuần như sự cảm giác một cách
trực tiếp, vô phân biệt, phi kiến tạo, phi ảo giác và cộng thêm vào đó là
bằng trực giác siêu nghiệm, tâm linh thì con người mới có thể tiệm cận với
chân lý tuyệt đối được. Chính ở đây, trong quá trình nhận thức, triết học Phật
giáo đã mang theo và chứa đựng trong mình một cách rõ ràng yếu tố tâm
linh, là một đặc điểm quan trọng để thể hiện mình với tư cách là một tôn giáo
thật sự như bất kỳ một tôn giáo nào đã từng có mặt và tồn tại trong lịch sử.
Tóm lại:
Với câu hỏi, những đối tượng nào được lượng biết trong quá trình nhận
thức? Nhận thức luận Phật giáo cho rằng, những đối tượng ấy chính là: thế
giới Tánh cảnh, thế giới Đới chất cảnh và Độc ảnh cảnh. Mỗi đối tượng trên
đều mang những sắc thái riêng, tuy nhiên, đích cuối cùng mà nhận thức luận
Phật giáo muốn đạt đến là thế giới Tánh cảnh, bởi đây là thế giới mang bản
chất của đối tượng hay là bản chất của thực tại khách quan.
Với câu hỏi bằng cách nào để lượng biết các đối tượng ấy? nhận thức
luận Phật giáo chỉ ra trong học thuyết Tam lượng rằng có ba hình thái để
nhận biết đối tượng, bao gồm: Hiện lượng, Tỷ lượng và Phi lượng. Cũng như
những đối tượng nhận thức nói trên, mỗi hình thái nhận thức ở đây cũng
mang những sắc thái và những chức năng riêng. Hiện lượng nhận thức một
cách trực tiếp, đúng thật; Tỷ lượng nhận thức một cách so đo, tính toán, suy
diễn, phân biệt; Phi lượng thường mang đến những sự nhận thức sai biệt làm
cho khác đi so với sự thật. Nếu cái đích mà nhận thức luận Phật giáo hướng
tới ở đối tượng là thế giới Tánh cảnh thì ở các hình thái nhận thức đó phải là
Hiện lượng. Bởi chỉ với Hiện lượng thì con người mới có thể nhận thức được
thế giới Tánh cảnh. Chúng ta sẽ rõ hơn khi đi vào trả lời câu hởi lớn nhất mà
tiết 1 đã đặt ra: làm sao để biết rõ tiến trình nhận thức?

1.2. Nội dung của nhận thức luận Phật giáo
Khi khởi đầu thuyết trình về Nhân minh học, để minh định mục đích và
phạm vi của khoa nhận thức và luận lý do mình chủ trương, ngài Thiên Chủ
(Dharmakìrti) nói: “Mọi hành động thành công là nhờ trước đó nhận thức
đúng, vì vậy chúng ta bắt đầu khảo sát điều đó”[7;tr1].
Có thể nói, vấn đề quan hệ giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận
thức đã được các luận sư Phật giáo luận bàn và phát triển nhiều lần trong lịch
sử. Theo quan điểm của họ, tri thức (Thức) chủ yếu là kết quả của sự hòa
hợp, ăn nhập giữa lục căn và lục trần (thuộc về cảnh). Ðối tượng của nhận
thức không thuần túy do chủ thể tạo ra. Cả chủ thể (Kiến phần) lẫn khách thể
(Tướng phần) nương vào nhau mà hiện hữu và xuất hiện đồng thời như là đối
tượng chuyển hiện của thức.
Các luận sư Phật giáo cho rằng, quá trình nhận thức phát khởi khi có sự
hội tụ các điều kiện chủ quan và khách quan. Sáu quan năng nhận thức được
chia thành ngũ căn giác quan và Ý căn, trong đó Ý căn có vai trò chi phối. Nếu
không có ngũ căn thì không có sự tiếp xúc với khách thể; Nhưng nếu không có
Ý căn thì ngũ căn hầu như không có tác dụng “thủ cảnh sinh thức - tức nắm bắt
đối tượng để sản sinh ra tri thức”. Vậy, có thể hiểu rằng, Ý căn vẫn là cội
nguồn của hành vi nhận thức. Bởi rằng, chính Ý căn chi phối nhãn căn hay nhĩ
căn, thiệt căn thực hiện hành vi nhận thức để có tri thức (cái biết).
Sau này, các nhà tư tưởng Phật giáo còn tiếp tục phát triển lý thuyết Sáu
thức của mình thành Bảy thức, Tám thức, Chín thức. Nhưng phổ biến và sâu
sắc hơn cả là lý thuyết Tám thức do triết học Duy thức đề ra, trong đó các vấn
đề của nhận thức luận Phật giáo được tập trung giải quyết.
Để tìm hiểu nhận thức luận Phật giáo với lý thuyết Tám thức, trước tiên
ta phải biết Thức là gì?
Thức không phải là những thực thể thường hằng bất biến mà chỉ là
những dòng lưu chuyển biến đổi từng giây phút, từng sát na. Sự chuyển biến
này là định luật chung của mọi hiện tượng trong thế giới hữu vi, nghĩa là
những hiện tượng thành lập, tồn tại và phân tán theo những nguyên lý nhân

duyên, chịu điều kiện hóa bởi những hiện tượng liên hệ. Thức phát sinh do
Căn và Cảnh, nương tựa trên căn cứ phát sinh (căn) và đối tượng của căn cứ
đó là Cảnh để tồn tại. Năm thức trước có những Căn và Cảnh vật chất. Ngũ
căn ở đây là sinh lý và Cảnh ở đây là vật lý. Chẳng hạn, Nhãn thức (thị giác)
không thể tồn tại nếu không có Nhãn căn tức là thị quan và sắc trần, tức là
sắc hình. Sự tiếp nối của những chuỗi xúc chạm giữa các giác quan sinh lý
của con người và đối tượng vật lý của chúng tạo nên sự tiếp nối của những
chuỗi cảm giác mà ta gọi là Thức. Vì Thức luôn luôn biến chuyển. Thức ở
đây là những dòng cảm giác hay tri giác mà không phải là một cái gì bất biến
có tính đồng nhất. Chẳng hạn, khi ta ngắm nhìn một đóa hoa trong một thời
gian dài, ta có cảm tưởng là cảm giác, tri giác và ý thức của ta về sự có mặt
của đóa hoa cũng tồn tại lâu bằng thời gian ta đứng ngắm. Thực ra, không
phải chỉ có một cảm giác, một tri giác và một ý thức mà cả một loạt những
cảm giác, tri giác và ý thức nối tiếp nhau. Với mỗi cảm giác chẳng hạn, trong
thời gian sát na của nó, vừa lúc đóa hoa phát động tác dụng và trở thành đối
tượng của nó, đối tượng này là ảnh tượng của đóa hoa truyền đạt qua con
mắt. Đúng vào lúc này, ảnh tượng của đóa hoa liền được Huân tập trở thành
một tân huân chủng tử và được hiện hành trở lại ngay sau đó để làm bối cảnh
hồi tưởng cho sự hiểu biết, tức tuệ phát sinh do sự tác động của tư duy tức
của tâm sở cuối trong năm tâm sở biến hành (tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư). Tri
giác này được tạo ra do một ảnh tượng mới của đóa hoa mà con mắt mới
chuyển đạt vào. Vô số những ảnh tượng như thế được tiếp nối truyền đạt vào
trung khu cảm giác, làm cho vô số đối tượng tiếp nối nhau và vô số hiện
tượng cảm giác và tri giác xuất hiện nối tiếp nhau.

×