Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

THÀNH tựu xóa đói GIẢM NGHÈO ở VN THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.53 KB, 20 trang )

Lý thuyết tài chính công
MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

2
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI

3
1.1 Một số khái niệm về nghèo đói
3
1.2 Những quan điểm về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo
4
PHẦN II: NHỮNG THÀNH TỰU XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA
NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA

6
2.1 Những thành tựu trong công tác xóa đói giảm nghèo

6
2.2 Nguyên nhân của những thành tựu trên

11
PHẦN III: NHỮNG TỒN TẠI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÔNG TÁC
XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

13
3.1 Người nghèo và địa phương nghèo còn tồn tại tư tưởng ỷ lại

13
3.2 Sự thiếu sót trong việc đánh giá tỷ lệ nghèo



13
3.3 Tỷ lệ hộ nghèo của nước ta còn ở mức cao
1
Lý thuyết tài chính công

13
3.4 Sự bất bình đẳng trong thu nhập và mức sống giữa các vùng và các nhóm
dân cư còn cao và xu hướng tiếp tục tăng

14
3.5 Những thành tựu đạt được trong công tác xoá đói giảm nghèo còn thiếu
tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn lớn

15
3.6 Nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, giảm nghèo còn khiêm
tốn

15
3.7 Số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam còn ở mức cao, trong khi
đó tỷ lệ lao động qua đào tạo còn quá thấp, tập trung ở những đối tượng
nghèo và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống

16
3.8 Các cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo và hỗ trợ cho người nghèo
tuy được triển khai thực hiện, song chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa rõ ràng và
minh bạch ở một số vùng và địa phương, chưa thích ứng với đièu kiện cụ thể
của từng vùng, từng nhóm người nghèo

17

3.9 Các chính sách về bình đẳng giới tuy được ban hành nhiều nhưng chưa
được thực hiện nghiêm túc

18
PHẦN IV: KẾT LUẬN

19
2
Lý thuyết tài chính công
LỜI MỞ ĐẦU
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với các nước trên thế giới, đói nghèo luôn là một vấn đề được xã hội
quan tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn tại tình
trạng phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với thu nhập trung
bình và thấp, trong đó có Việt Nam thì một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn sống ở
mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người sống trong hoàn cảnh rất khó khăn,
vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, không đủ ăn trong khi đây là nhu cầu cần thiết
của con người.
Trải qua nhiều thời kỳ, Việt Nam đang từng bước phát triển và đạt được
những thành tựu đáng kể trong mọi mặt như: Kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật, y
tế, giáo dục,… khiến cho đời sống của người dân không ngừng được nâng cao. Ở
Việt Nam, vấn đề xóa đói giảm nghèo đã được đánh giá là một trong những thành
công của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm đáng kể
qua các thời kỳ nhưng vẫn xếp trong nhóm các nước nghèo trên thế giới và công
cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta càng có nhiều thời cơ và thách thức khi
nước ta đã gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Xóa đói, giảm nghèo ở
nước ta vẫn đang là vấn đề bức xúc được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.
Xóa đói giảm nghèo là vấn đề cấp thiết, là nền tảng để đất nước có thể phát triển
ổn định và bền vững, do đó Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách, dự án,
chương trình nhằm thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo giúp nâng cao đời sông

nhân dân, công tác này đã được những thành công và được sự ủng hộ to lớn từ
phía nhân dân cũng như các tổ chức quốc tế, mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất
định nhưng cũng không thể phủ định những giá trị mà nó đem lại. Và trong suốt
chặng đường ấy, Việt Nam đã bước đầu gặt hái được những thành tựu đáng kể
trong công tác xóa đói giảm nghèo ở từng thời lỳ cụ thể.
PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI
3
Lý thuyết tài chính công
1.1 Một số khái niệm về nghèo đói
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu không thỏa
mãn nhu cầu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp…
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn mức
sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Ngưỡng nghèo hay mức nghèo, là mức chi dùng tối thiểu, được xác định
như tổng số tiền chi cho giỏ hàng tiêu dùng trong thời hạn nhất định, bao gồm
một lượng tối thiểu lương thực thực phẩm và đồ dùng cá nhân, cần thiết để bảo
đảm cuộc sống và sức khỏe một người ở tuổi trưởng thành, và các khoản chi bắt
buộc khác. Người ở ngưỡng nghèo là người có tổng thu nhập tương đương với
tổng chi dùng tối thiểu đó. Ở các nước phát triển ngưỡng nghèo cao hơn đáng kể
so với các nước đang phát triển.
Chuẩn đói nghèo: Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác
nhau để đánh giá mức độ giàu nghèo. Ở nước ta, tùy vào từng thời kì phát triển
của đất nước mà đưa ra chuẩn nghèo đói khác nhau phù hợp với thực tế.
Năm 2000, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra ngưỡng nghèo mới
làm căn cứ xác định mục tiêu xoá đói giảm nghèo cho giai đoạn 2001 - 2005.
Ngưỡng nghèo đói được ấn định cho từng khu vực: Nông thôn miền núi, hải
đảo: 80.000 đồng/người/tháng; nông thôn đồng bằng: 100.000

đồng/người/tháng; thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
Đến năm 2005, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Việt Nam áp
dụng chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006 – 2010 theo khu vực như sau: Khu
vực nông thôn với mức thu nhập bình quân dưới 200.000 đồng/người/tháng; khu
vực thành thị với mức thu nhập bình quân dưới 260.000 đồng/người/tháng.
Theo Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ,
mức chuẩn nghèo và cận nghèo được xác định và áp dụng mới cho giai đoạn
4
Lý thuyết tài chính công
2011 – 2015. Đối với hộ nghèo: Ở khu vực nông thôn, hộ nghèo là những hộ có
mức thu nhập bình quân từ dưới 400.000 đồng/người/tháng, đối với khu vực
thành thị hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân dưới 500.000
đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn, còn ở khu
vực thành thị là từ 501.000đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
1.2 Những quan điểm về nghèo đói và xóa đói giảm nghèo
Hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, mà là
vấn đề mang tính toàn cầu, bởi vì tất cả các quốc gia trên thế giới ngay cả những
giàu mạnh thì người nghèo vẫn còn và có lẽ khó có thể hết người nghèo trong
khi xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về kinh tế, xã hội, môi trường và sự
bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản xuất và
đời sống làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo.
Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia dân tộc. Nó là
một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Đến nay, nhiều
nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau,
trong đó có khái niệm khái quát hơn cả được nêu ra tại Hội nghị bàn về xóa đói
giảm nghèo ở khu vực châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Thái Lan
vào tháng 9/1993, các quốc gia đã thống nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của
con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội

và phong tục tập quán của từng địa phương. Đây là khái niệm khá đầy đủ về đói
nghèo, được nhiều nước trên thế giới nhất trí sử dụng, trong đó có Việt Nam.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
_Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống như nhu cầu về
ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế,…
_Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của địa phương, ở một thời kì nhất định. Nghèo tương đối có thể
5
Lý thuyết tài chính công
được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất
cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của
xã hội đó.
Những quan điểm trên về đói nghèo phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của
người nghèo là: không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu
dành cho con người, có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng, thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các
giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế xã
hội nhằm giải quyết vấn đề nghèo đói, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài.
Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xóa sự nghèo, giảm khoảng
cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, toàn xã hội mà
trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo.
Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản ngăn cách xã hội và
kinh tế để xóa đói giảm nghèo; thì hiệu quả xóa nghèo đạt thấp nếu bản thân
người nghèo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn.

Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng
đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều
kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước. Nhà nước
sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro.
Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người nghèo
bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo
điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xóa đói giảm nghèo thành công nhanh
và bền vững.
PHẦN II: NHỮNG THÀNH TỰU XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA
6
Lý thuyết tài chính công
2.1 Những thành tựu trong công tác xóa đói giảm nghèo
Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa
đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức
quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 2001 đến 2005: Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới
đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Nhờ tăng trưỏng
GDP toàn nền kinh tế cao (bình quân 5 năm đạt 7,5%), tăng dần qua các năm và
trong tất cả các nhóm ngành kinh tế cơ bản nên tốc độ giảm nghèo trong giai đoạn
2001 - 2005 là khá nhanh.
Theo kết quả các đợt điều tra mức sống dân cư toàn quốc, theo tiêu chuẩn
quốc tế, nếu năm 1998 tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam vẫn còn ở mức 37% và
năm 2000 giảm còn 32%, thì năm 2002 còn 28,9% và năm 2004 còn 24,1%. Như
vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam đã được thể
hiện rõ nét trong những năm qua.
Tính theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ nghèo chung cả nước trong 5 năm 2001 -
2005 đã giảm được hơn một nửa. Nếu so với mục tiêu giảm 20% đã được ghi

trong văn bản Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo cho giai đoạn
2001 - 2005, thì chúng ta đã đạt được kết quả hơn gấp đôi. Đó là một thành tựu
lớn. Vùng giảm nghèo đói mạnh nhất là Đông Nam Bộ, từ 8,88% xuống 1,7 %,
tức là giảm tới 5,2 lần; các vùng còn lại giảm tương đối đồng đều từ 50% đến
60%. Vùng còn có tỷ lệ nghèo trên 10% là Tây Bắc (12%), Tây Nguyên (11%) và
Bắc Trung Bộ (10,5%).
Song, để nhìn rõ hơn những thành tựu đã đạt được của giai đoạn 2001 -
2005, nhất là trong việc phát huy những ưu điểm, cách làm tốt phục vụ cho sự
phát triển những năm tới chúng ta cũng cần tính toán trên cơ sở chuẩn mới (được
áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010). Theo đó, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ
nghèo, nghĩa là tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới tính bình quân cả nước cao hơn tỷ lệ
nghèo (theo chuẩn cũ) khoảng 15%. Bức tranh tổng quát về tỷ lệ nghèo theo vùng,
theo chuẩn nghèo mới như sau: Bình quân cả nước - 22%; vùng Tây Bắc - 42%;
7
Lý thuyết tài chính công
Đông Bắc - 33%; đồng bằng sông Hồng - 14%; Bắc Trung Bộ - 35%; duyên hải
Nam Trung Bộ - 23%; Tây Nguyên - 38%; Đông Nam Bộ - 9%; và vùng đồng
bằng sông Cửu Long - 18%. Tuy tỷ lệ nghèo đói ở thành thị giảm nhanh hơn khu
vực nông thôn, nhưng lại không ổn định, từ 9,2% (năm 1998) xuống 6,6% (năm
2002), lại tăng lên 10,8% (năm 2004). Tỷ lệ nghèo của khu vực đồng bào dân tộc
thiểu số còn rất cao và tốc độ giảm nghèo chậm từ 75,2% xuống 69,3% trong thời
gian tương ứng.
Giảm diện nghèo về lương thực, thực phẩm: Tình trạng nghèo về lương
thực, thực phẩm đã được cải thiện rất đáng kể trong thời gian vừa qua. Số liệu của
các đợt điều tra mức sống dân cư cho thấy tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm đã
giảm từ 35,6% (giai đoạn 1998 - 1999) xuống còn 11,9% (giai đoạn 2002 - 2003).
Đây là thành tựu rất quan trọng đối với bộ phận nghèo trong xã hội hiện nay, vì
chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm luôn là mốc đầu tiên nói lên ranh giới giữa
đói và nghèo, chứng tỏ chúng ta đã giảm được cơ bản tình trạng đói (xóa đói).
Tăng thu nhập và chi tiêu của dân cư: Thành tựu xóa đói giảm nghèo còn

thể hiện qua sự gia tăng thu nhập của các hộ gia đình và tăng chi tiêu cho sinh
hoạt của các hộ theo khu vực, vùng, nhóm. Tuy nhiên, vấn đề nổi lên là sự chênh
lệch giữa các khu vực, nhóm và vùng: năm 2001 - 2002, chi tiêu trung bình ở
thành thị cao gấp 2,2 lần so với khu vực nông thôn.
Trên bình diện toàn xã hội, tỷ trọng chi tiêu cho ăn uống có xu hướng
giảm, ở thành thị chiếm 52%, ở nông thôn là 60%. Nhưng đối với các hộ nghèo
thì phần lớn chi tiêu vẫn tập trung cho ăn uống, đặc biệt là nhóm hộ nghèo ở nông
thôn, chiếm trên 70% tổng chi tiêu gia đình. Xét theo vùng thì tỷ lệ chi tiêu cho ăn
uống của hai vùng Đông Nam Bộ và đồng Bằng sông Hồng là thấp nhất (tương
ứng là 52,65% và 53,83%) và cao nhất là Tây Bắc (64,24%), Đông Bắc (61,19),
đồng bằng sông Cửu Long (60,52), Tây Nguyên (58,59%) và Bắc Trung Bộ
(58,28%).
Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định hướng
chung là từng bước tiếp cận với trình độ của các nước đang phát triển trong khu
vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong đó có tính đến các nhân tố ảnh
hưởng. Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 quy định: Hộ nghèo
8
Lý thuyết tài chính công
là những hộ ở khu vực nông thôn có thu nhập bình quân 200.000
đồng/người/tháng trở xuống, đối với những hộ ở khu vực thành thị có thu nhập
bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống. Theo quy định này, ước tính
năm 2005 cả nước ta có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ trong toàn
quốc; Các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%) và Tây Nguyên
(40%); vùng có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%).
Giai đoạn năm 2006 – 2010: Mục tiêu giảm nghèo trong giai đoạn 2006-
2010 của Việt Nam là giảm tỷ lệ hộ nghèo từ khoảng 23% năm 2005 xuống còn
15% năm 2010 (theo chuẩn nghèo mới, ước tính đến cuối năm 2005, cả nước sẽ
có hơn 4 triệu hộ nghèo); cải thiện đời sống của nhóm hộ nghèo, hạn chế tốc độ
gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông
thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo.

Chương trình giảm nghèo đã được triển khai đồng bộ với nhiều giải pháp
hiệu quả, nhất là các cơ chế chính sách liên quan trực tiếp đến đầu tư cơ sở hạ
tầng, vay vốn phát triển sản xuất, dạy nghề cho người nghèo, hỗ trợ tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, văn hóa giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt tạo tiền
đề cơ bản để đại bộ phận hộ nghèo cải thiện đời sống vươn lên thoát nghèo.
Chương trình đã hỗ trợ cho 5 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi
với mức vay bình quân khoảng 6-7 triệu đồng/lượt/hộ; triển khai 30.000 lớp tập
huấn chuyển giao kỹ thuật; 120 ngàn lao động nghèo đã được đào tạo nghề miễn
phí, trong đó khoảng trên 60% lao động sau đào tạo có việc làm; dự án nhân rộng
mô hình giảm nghèo đã được nhân rộng ở 218 xã thuộc 35 tỉnh, thành, với tổng số
hộ tham gia mô hình là 27.566 hộ, trong đó 77% là hộ nghèo; đã có khoảng 2.000
công trình hạ tầng phục vụ sản xuất được đầu tư ở 273 xã đặc biệt khó khăn, bãi
ngang ven biển, hải đảo; 52 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế; 8
triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí; khoảng 400 ngàn hộ nghèo
được hỗ trợ nhà ở và đến nay đã có 17 tỉnh, thành phố, 306 quận, huyện và 5.931
xã, phường, thị trấn được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trao
“Bằng ghi công” hoàn thành chương trình xóa nhà dột nát cho người nghèo.
Những năm qua, nhờ thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh
9
Lý thuyết tài chính công
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi (Chương
trình 135), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện
nghèo (Nghị quyết số 30a) và các chương trình kinh tế, xã hội khác hướng vào
mục tiêu giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh từ 22% (năm 2005)
xuống còn 11,3% (năm 2009) và còn 9,45% (năm 2010), bình quân mỗi năm giảm
2% - 3% tỷ lệ nghèo; người nghèo đã được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế
(vốn, đất đai, công nghệ, thị trường ) và các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục,
y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý ; kết cấu hạ tầng của các huyện, xã nghèo được
tăng cường; đời sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt.

Trong những năm 2010 – 2013, có thể khẳng định rằng, Chiến lược toàn
diện về tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam là đúng đắn, hợp lòng dân,
phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Mặc dù kinh tế đất nước còn không ít
khó khăn nhưng Đảng, Nhà nước luôn coi công tác giảm nghèo là một trong
những mục tiêu quan trọng. An sinh xã hội và giảm nghèo luôn là một trong
những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của Chính phủ những năm qua.
Những thành tựu có được trong xóa đói giảm nghèo là nhờ nỗ lực chung của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các doanh
nghiệp, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội và các cá nhân.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2011 giảm 1,5% so với năm 2010. Số hộ thiếu đói
năm 2011 có 609,6 nghìn hộ và 2.563 nghìn khẩu giảm 18,6% số hộ và 12,0% về
khẩu so với năm 2010.
Tính đến năm 2012, đã có 500 nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở,
542 triệu lượt người được hỗ trợ bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người
nghèo được cải thiện. Thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng gần 2 lần trong 5
năm qua. Trong năm 2012, số lượt hộ thiếu đói giảm 27,6% và tỷ lệ hộ nghèo cả
nước cũng giảm 1,76% so với năm 2011. Tỷ lệ hộ nghèo và các huyện nghèo
giảm nhanh, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội đề ra từ 14,2% (năm 2010)
xuống còn 9,6% (năm 2012). Thông qua thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II,
tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% (năm 2006)
xuống còn 28,8% (năm 2010), thu nhập bình quân đầu người là 4,2 triệu
đồng/người/năm. Tỷ lệ các xã có đường giao thông cho xe cơ giới từ trung tâm xã
10
Lý thuyết tài chính công
đến thôn, bản lên tới 80,7%. 2,2 triệu hộ được hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi;
xây dựng được 6.834 mô hình phát triển nông, lâm, ngư nghiệp Sau gần 4 năm
thực hiện, tỷ lệ hộ nghèo ở 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a đã giảm từ
58,33% (năm 2010) xuống còn 43,89% (năm 2012), bình quân giảm trên 7%/năm.
Các địa phương đã hỗ trợ 1.340 lao động ở các huyện nghèo đi xuất khẩu lao
động, nâng tổng số lao động xuất khẩu lao động qua gần 4 năm lên gần 8.500

người. Các địa phương còn tổ chức đào tạo nghề cho hơn 10.000 lao động nghèo
để tạo việc làm tại chỗ, ngoài địa bàn hoặc tham gia xuất khẩu lao động. 225
nghìn hộ được vay vốn với tổng số tiền 1.122 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi để chăn
nuôi gia cầm, gia súc, phát triển ngành nghề
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước không ngừng bổ sung, hoàn thiện
hệ thống chính sách về xóa đói giảm nghèo. Nhiều nghị quyết, chỉ thị, chiến lược,
quyết định, chính sách quan trọng về công tác xóa đói giảm nghèo đã được ban
hành để phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Các chương trình, chính
sách giảm nghèo đã huy động sức mạnh, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị,
toàn xã hội (các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội) và sự
vươn lên của chính người nghèo , tạo nguồn lực to lớn cùng với nguồn lực của
Nhà nước thực hiện hiệu quả công tác có ý nghĩa xã hội sâu sắc này. Kết quả tích
cực của công cuộc xóa đói giảm nghèo đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
thực hiện công bằng xã hội, an sinh xã hội cho người dân vùng đặc biệt khó khăn.
Mục tiêu đến cuối năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm (từ
9,6% xuống còn 7,6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân
5%/năm (từ 43,89% năm 2012 xuống còn 38,89% năm 2013). Đến cuối năm
2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn dưới 5% theo chuẩn nghèo hiện hành; tỷ lệ
nghèo các huyện nghèo còn dưới 30%.
2.2 Nguyên nhân của những thành tựu trên
_Nhờ kinh tế phát triển và tăng trưởng liên tục, ổn định nhất là nông
nghiệp và nông thôn được nhà nước ưu tiên đầu tư (thuỷ lợi, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất…) có các chính
11
Lý thuyết tài chính công
sách cải cách trong nông nghiệp, đặc biệt là giao quyền sử dụng đất cho người dân
đã tạo những động lực và nguồn lực mới từ đó cho phép thực hiện xoá đói giảm
nghèo trên diện rộng, nên đời sống của người nông dân ở nông thôn đã được cải
thiện rõ nét.
Tăng trưởng kinh tế và ổn định là tiền đề giúp công tác xoá đói giảm nghèo

tiến hành nhanh và toàn diện, để kết quả xoá đói giảm nghèo bền vững cần phải
đảm bảo các điều kiện cho người nghèo thể thụ hưởng được các thành tựu của sự
phát triển. Việc tăng cường tài sản cho người nghèo, đặc biệt là đất đai, là một
trong những giải pháp hữu hiệu để tăng trưởng và giảm nghèo.
_Chương trình xoá đói giảm nghèo đã được cấp uỷ Đảng, chính quyền,
đoàn thể từ trung ương đến cơ sở chỉ đạo sát sao và triển khai thực hiện tích cực,
được nhân dân hưởng ứng.
Nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng cũng như phương pháp
tiếp cận giải quyết vấn đề đói nghèo cho các cấp, các ngành và mọi người dân đặc
biệt là người nghèo và xã nghèo được thường xuyên quan tâm và nâng cao. Xoá
đói giảm nghèo vươn lên khá giả và làm giàu không chỉ là trách nhiệm của nhà
nước mà trước hết thuộc về từng cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng và trách
nhiệm của toàn xã hội, đây là vấn đề mấu chốt để thực hiện thành công chương
trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
_Hệ thống chính sách, cơ chế, giải pháp xoá đói giảm nghèo bước đầu
được thực hiện và đi vào cuộc sống như: tín dụng ưu đãi, hướng dẫn cách làm ăn,
hỗ trợ về y tế, giáo dục, hỗ trợ đồng bào dân tộc ít người đặc biệt khó khăn, hỗ trợ
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ pháp lý….tạo hành lang pháp lý và môi
trường thuận lợi cho xoá đói giảm nghèo và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho
các xã nghèo để pháp triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân,
đặc biệt ở những xã nghèo miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đồng
bào dân tộc ít người.
12
Lý thuyết tài chính công
_Công tác xã hội hoá hoạt động xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là xã hội
hoá về nguồn lực, nhân lực và vật lực ngày càng được mở rộng. Chính sự hợp tác
này đã tạo ra phong trào xoá đói giảm nghèo sôi động nhiều năm trong cả nước
góp phần vào thành công của chương trình. Cùng với sự chia sẻ trách nhiệm xã
hội của người dân trong việc trợ giúp ngừơi nghèo, còn có sự đồng thuận của các
tổ chức quốc tế, các quốc gia trong việc tiếp cận và giải quyết vấn đề đói nghèo ở

Việt Nam.
_Cơ chế phân bổ ngân sách công bằng, minh bạch và có tính khuyến khích
cao đã tạo điều kiện cho các địa phương trong việc huy động nguồn lực tại chỗ
cũng như lồng ghép với các nguồn lực khác, góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện chương trình. Trong quá trình thực hiện xoá đói giảm nghèo, sự tham gia
giám sát của mặt trận tổ quốc, các đoàn thể cơ sở, người dân, đặc biệt là người
nghèo, phụ nữ và người dân tộc thiểu số cũng là một trong nhưng nguyên nhân
tạo nên thành công của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia của Việt Nam.
PHẦN III: NHỮNG TỒN TẠI VÀ THÁCH THỨC
CỦA CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY
Mặc dù, Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện công tác
xoá đói giảm nghèo và trên thực tế cũng đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đáng khích lệ đó công tác xoá đói giảm nghèo của
nước ta còn tồn tại một số hạn chế mà trong quá trình thực hiện tiếp theo chúng ta
cần có những giải pháp cụ thể để giải quyết. Đó là những hạn chế trên cả phương
diện nhận thức và cả trong công tác tổ chức thực hiện từ trung ương đến địa
phương làm ảnh hưởng đến kết quả của chương trình.
13
Lý thuyết tài chính công
3.1 Người nghèo và địa phương nghèo còn tồn tại tư tưởng ỷ lại
Một bộ phận không nhỏ người nghèo và địa phương nghèo vẫn còn tư
tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nên chưa chủ động vượt lên để
thoát nghèo.
3.2 Sự thiếu sót trong việc đánh giá tỷ lệ nghèo
Theo chuẩn nghèo mới cao hơn được áp dụng từ năm 2011 thì nhiều hộ gia
đình ở các xã có khó khăn đặc biệt sẽ được coi là hộ nghèo, tỷ lệ nghèo tăng lên
trên 50%, thậm chí một số nơi còn lên đến 70-80%. Việc đánh giá tỷ lệ nghèo
thấp hơn thực tế ở một vài địa phương khiến một bộ phận người thực sự nghèo
chưa được tiếp cận với các chương trình xóa đói, giảm nghèo.

3.3 Tỷ lệ hộ nghèo của nước ta còn ở mức cao
Năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo mới) của một số vùng vẫn
trên 20% (Vùng Trung du và miền núi phía Bắc còn 29,4%; Bắc Trung Bộ và
duyên hải miền Trung 20,4%; Tây Nguyên 22,2%). Đến năm 2010 ở nhiều vùng
số hộ nghèo vẫn lớn đến mức bình quân cứ 4 đến 5 hộ có 1 hộ nghèo.
Các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số tỷ lệ hộ nghèo cao hơn con số trung bình này nhiều. Có tới 64% số người
nghèo tập trung ở vùng núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải
miền trung. Sự bất bình đẳng trong thu nhập và mức sống giữa các vùng và các
nhóm dân cư còn cao và xu hướng tiếp tục tăng. Năm 2010, tỷ lệ nghèo đã giảm
trên phạm vi toàn quốc nhưng giảm nhanh hơn ở các vùng quanh khu vực thành
phố lớn như Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh. Tiến bộ không đồng đều dẫn đến những
thay đổi lớn về phân bố nghèo theo vùng, người nghèo còn lại chủ yếu tập trung ở
vùng cao miền Bắc và Tây Nguyên.
Các thành viên thuộc 53 dân tộc của Việt Nam, không tính người Kinh, chỉ
chiếm 15% tổng dân số nhưng lại có tới 47% tổng số người nghèo và chiếm 68%
số người nghèo cùng cực. Tuy điều kiện sống của nhiều nhóm dân tộc thiểu số đã
được cải thiện nhưng tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong số người nghèo lại gia
tăng đáng kể, từ 28% năm 1998 lên 47% năm 2010 đối với người nghèo và từ
43% lên 68% đối với người nghèo cùng cực. Trong khi đó, chỉ có 12,9% người
Kinh vẫn nghèo và 2,9% sống dưới chuẩn nghèo cùng cực.
14
Lý thuyết tài chính công
3.4 Sự bất bình đẳng trong thu nhập và mức sống giữa các vùng và
các nhóm dân cư còn cao và xu hướng tiếp tục tăng
Giữa các vùng: Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miến núi vẫn còn cao gấp từ 1.7
đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào
dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng trở lại.
Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp,

trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra xuất hiện những đối tượng nghèo
mới ở những vùng đang đô thị hoá và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ
thường gặp nhiều rủi ro khó khăn hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn
lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra
sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc,
Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là
những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Chênh lệch giữa các nhóm: Thu nhập của các tầng lớp dân cư đều tăng
trong những năm vừa qua, nhưng thu nhập của một bộ phận dân cư tăng chậm,
làm cho khoảng cách chênh lệch giàu nghèo tương đối cao và có xu hướng ngày
càng dãn ra. Thu nhập bình quân người/tháng năm 2002 của 20% số hộ thuộc
nhóm thu nhập cao nhất đạt 872,9 nghìn đồng, gấp 8,1 lần thu nhập bình quân
người/tháng của 20% số hộ thuộc nhóm thu nhập thấp nhất; năm 2004 đạt 1182,3
nghìn đồng; gấp 8,3 lần; năm 2006 đạt 1541,7 nghìn đồng, gấp 8,4 lần; năm 2008
đạt 2458,2 nghìn đồng, gấp 8,9 lần; năm 2010 đạt 3411,0 nghìn đồng, gấp 9,23
lần.
3.5 Những thành tựu đạt được trong công tác xoá đói giảm nghèo còn
thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn lớn
Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là dân cư sinh sống ở vùng sâu,
vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai vẫn rất khó khăn. Thiếu đói giáp hạt vẫn
xảy ra ở một số địa phương. Năm 2009 là năm thiếu đói giáp hạt xảy ra ít nhất
trong mười năm 2001-2010, nhưng vẫn có tới 676,5 nghìn lượt hộ với 2973,3
nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu đói giáp hạt. Theo kết quả Khảo sát mức sống hộ
gia đình thì thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2010 là 1387 nghìn đồng,
15
Lý thuyết tài chính công
nhưng 20% số hộ gia đình thuộc nhóm thu nhập thấp nhất chỉ đạt 369,3 nghìn
đồng/người/tháng. Với mức giá tăng cao như hiện nay thì thu nhập thực tế của các
hộ thuộc nhóm thu nhập thấp cải thiện không nhiều; những hộ cận nghèo và vừa
mới thoát nghèo có thể lại rơi vào nhóm các hộ nghèo một khi gặp khó khăn trong

sản xuất và đời sống.
Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro của cuộc
sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường, môi trường ô nhiếm, thất
nghiệp…) còn lớn. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở những vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường xuyên xảy
ra thiên tại, bão lụt và 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp có thể dẫn
đến nguy cơ tái nghèo đói cao. Mặt khác, có không ít hộ tuy không thuộc diện đói
nghèo mức thu nhập không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy
cơ tái đói nghèo.
Bên cạnh đó nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái
môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác qúa mức nguồn tài
nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo trở lên trầm trọng hơn.
3.6 Nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, giảm nghèo còn
khiêm tốn
Đó là do nước ta còn nghèo nên ngân sách nhà nước không lớn. Mặt khác,
nhà nước vừa phải chi đầu tư cho các mục tiêu khác vừa phải đầu tư cho công tác
xoá đói giảm nghèo cũng là nguyên nhân dẫn đến việc nguồn lực đầu tư cho công
tác này chưa thực sự tương xứng với đòi hỏi và nhu cầu đầu tư cho phát triển.
Trung bình nguồn ngân sách chi cho các chương trình XDGN chỉ chiếm gần 2%
ngân sách nhà nước.
Địa bàn trọng điểm của công tác xoá đói giảm nghèo hiện nay chủ yếu là
những xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi mà cơ
sở hạ tầng còn thiếu thốn chưa đồng bộ, trình độ dân trí thấp, nhu cầu đầu tư lớn,
khó thu hút được khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Do đó nhà nước sẽ là chủ thể
chủ yếu thực hiện các kế hoạch, dự án của chương trình xoá đói giảm nghèo. Đây
thực sự là thách thức vô cùng lớn đối với một quốc gia đang phát triển như Việt
Nam trong việc giải quyết tình trạng nghèo đói trong thời gian tới. Và đó cũng là
16
Lý thuyết tài chính công
thách thức nói chung cho tất cả các quốc gia khác trước thực trạng đói nghèo của

quốc gia mình.
3.7 Số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam còn ở mức cao,
trong khi đó tỷ lệ lao động qua đào tạo còn quá thấp, tập trung ở những đối
tượng nghèo và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống
Vấn đề này dẫn đến hệ quả là tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn và thất
nghiệp ở các đô thị và thành phố luôn ở mức cao và có xu hướng gia tăng
( khoảng 26 % và 6.4% tương ứng với từng tỷ lệ ).
Trong những năm qua hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã dạt
được nhiều thành tựu quan trọng như mở rộng giao lưu hợp tác với các quốc gia
và các tổ chức quốc tế khác, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động
du lịch nổi tiếng…. Đó là cơ hội giúp nước ta tranh thủ được nguồn ngoại lực vô
cùng lớn nhưng đó cũng là thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế quốc dân,
trong đó có vấn đề về trình độ tay nghề của người lao động. Nguồn nhân lực dưới
góc độ kinh tế học được xem là một trong bốn nguốn lực không thể thiếu đối với
bất kỳ nền kinh tế nào không phụ thuộc vào quy mô của chúng ra sao. Do đó hạn
chế về trình độ của người nghèo trong tiến trình hội nhập cũng là một thách thức
đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Nghèo tri thức là tình
trạng chung của nông thôn Việt nam hiện nay, chính vì vậy mà công tác XDGN
cần được thực hiện đồng bộ với Chương trình quốc gia về giáo dục đào tạo và
khoa học công nghệ.
3.8 Các cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo và hỗ trợ cho người
nghèo tuy được triển khai thực hiện, song chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa rõ
ràng và minh bạch ở một số vùng và địa phương, chưa thích ứng với đièu
kiện cụ thể của từng vùng, từng nhóm người nghèo
Một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xóa đói giảm nghèo chưa
thật phù hợp, việc tổ chức thực hiện còn bất cập, còn mang tính bao cấp, nên
không tạo được động lực để người nghèo chủ động vượt nghèo. Biện pháp hỗ trợ
làm nhà ở cho đồng bào nghèo chưa thật phù hợp với nhu cầu và tập quán của
từng dân tộc, từng địa phương; có địa phương chưa chú ý đầy đủ đến quy hoạch
sản xuất lâu dài và môi trường sống của nhân dân trong khi xây dựng các khu dân

17
Lý thuyết tài chính công
cư vượt lũ; mức chi phí cho khám, chữa bệnh còn thấp; chính sách trợ cước, trợ
giá cũng còn bất hợp lý; mức vốn vay tín dụng ưu đãi còn thấp và chưa thật phù
hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh; cơ chế phân bổ vốn còn mang tính bình quân,
v.v Ở một số nơi, nhất là vùng cao, vùng sâu thông tin đến với người dân chưa
đầy đủ nên nhận thức về các chính sách của Nhà nước đối với người nghèo còn
hạn chế. Những khiếm khuyết nói trên đã làm cho hiệu quả của chương trình xóa
đói, giảm nghèo bị giảm bớt một phần.
Việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo không đồng đều
ở một số địa phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực.
Phần lớn cán bộ thực thi chương trình ở cấp xã đều kiêm nhiệm, chưa được đào
tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Việc theo dõi, giám sát chương trình chưa có hệ
thống và đồng bộ. Công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá chương trình chủ yếu dựa
trên các báo cáo với lượng thông tin chưa đầy đủ.
Thiếu cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra hiệu quả đối với việc thực hiện
các chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo thông qua các dự án lớn về
nguốn vốn. Các hiện tượng tham ô, tham nhũng đã gây thất thoát nguồn ngân sách
từ công trình, gây mất lòng tin của nhân dân và từ phía các nhà đầu tư nước ngoài
về sử dụng và quản lý nguốn vốn vay nước ngoài ( ODA, vốn vay ngân hàng
ADB, IMF,WB…).
3.9 Các chính sách về bình đẳng giới tuy được ban hành nhiều nhưng
chưa được thực hiện nghiêm túc
Phụ nữ và trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, phụ nữ vùng dân tộc ít người
còn ít đựơc hưởng lợi từ chính sách, bị ảnh hưởng từ tư tưởng hoặc phong tục tập
quán lạc hậu, là nạn nhân của tội buôn bán phụ nữ và bạo hành gia đình.
Xem xét từ góc độ quyền con người thì phụ nữ và trẻ em là hai đối tượng
yếu thế trong xã hội, cần có chính sách bảo vệ. Nhưng trên thực tế họ lại chưa
được tiếp cận với các chính sách ưu đãi của nhà nước đặc biệt là quyền chăm sóc
sức khoẻ. Các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay cũng đã đưa tin cho thấy

ngày càng nhiều hiện tượng bạo hành gia đình và trẻ em lang thang không mái ấm
tình thương là một vấn đề xã hội nhức nhối rất cần các giải pháp thiết thực hơn.
18
Lý thuyết tài chính công
Có như vậy chúng ta mới thực hiện được cam kết về mục tiêu thiên niên ký và
chương trình sức khoẻ bà mẹ và trẻ em mà Việt nam đã tham gia.
Việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo không đồng đều
ở một số địa phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực.
Phần lớn cán bộ thực thi chương trình ở cấp xã đều kiêm nhiệm, chưa được đào
tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Việc theo dõi, giám sát chương trình chưa có hệ
thống và đồng bộ. Công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá chương trình chủ yếu dựa
trên các báo cáo với lượng thông tin chưa đầy đủ.
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo từ lâu là vấn đề mà Đảng và Nhà
nước rất quan tâm, là một trong những nhiệm vụ được thực hiện hàng đầu. Quan
điểm xuyên suốt trong cương lĩnh phát triển đất nước của Đảng ta là tăng trưởng
kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng thời
kỳ và từng chính sách phát triển. Từ quan điểm ấy, nhiều năm qua xóa đói giảm
nghèo đã trở thành một chính sách xã hội trọng điểm trong suốt quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Nhìn lại thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cùng với các chỉ
số lạc quan về tăng trưởng kinh tế, không thể không nói đến những đóng góp quan
19
Lý thuyết tài chính công
trọng của sự nghiệp giảm nghèo. Trên các diễn đàn trong nước và quốc tế, kết quả
xóa đói giảm nghèo của Việt Nam luôn được khẳng định là thành tựu hiện hữu từ
nhiều phương diện đánh giá khác nhau.
Tuy nhiên, trước xu hướng tăng trưởng của nền kinh tế cũng như mặt bằng
thu nhập trong xã hội không ngừng tăng lên và Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế, mức chuẩn nghèo dự kiến sẽ còn tăng lên. Và do vậy công cuộc
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam vẫn tiếp tục là mục tiêu tiến công mạnh mẽ.

20

×