Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.74 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Phan Thị Định

THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HỊA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI
CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO
TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 9.31.04.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội-2021

1


2


Cơng trình được hồn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Nguyễn Đức Sơn
2. TS Hoàng Anh Phước

Phản biện 1: PGS. TS Đỗ Mạnh Tôn
Phản biện 2: PGS, TS Nguyễn Thị Minh Hằng
Phản biện 3: PGS, TS Lê Vân Anh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…



Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thích ứng có vai trò quan trọng trong cuộc sống, là khả năng và phương thức
đặc thù để con người có thể tồn tại và phát triển trong xã hội luôn biến đổi và nhiều
thách thức.

3


Với mọi người trong xã hội, thay đổi môi trường sống đã khó khăn, đối với
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trở về
tái hịa nhập cộng đồng lại càng khó khăn. Về lý luận, đây là giai đoạn có nhiều xáo
trộn về mặt tâm lý, đang định hình nhân cách; lại là đối tượng đã thực hiện hành vi sai
lệch chuẩn mực xã hội do tâm lý tiêu cực điều khiển. Về thực tiễn, những người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng khi trở về địa
phương gặp rất nhiều trở ngại khi gia nhập vào các nhóm xã hội một phần do tự ti,
mặc cảm; một phần là sự kỳ thị của cộng đồng.
Từ những phân tích trên, tác giả nghiên cứu đề tài: “Thích ứng với tái hịa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng thích ứng tâm lý với tái hịa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng, luận án đề xuất những biện pháp giúp họ thích ứng tốt hơn.
3.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1
Đối tượng nghiên cứu
Mức độ và biểu hiện thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
3.2
Khách thể nghiên cứu
168 Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng.
4.
Giả thuyết khoa học
Hiện nay, người chấp hành xong BPXLHC đưa vào TGD về địa phương sinh
sống thích ứng với cuộc sống tại các cộng đồng xã hội chưa cao, biểu hiện ở các mặt
nhận thức, thái độ, hành vi qua các hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và
sinh hoạt thường ngày. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng trong đó yếu tố thuộc về chủ quan
và các yếu tố khách quan có ảnh hưởng lớn nhất.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng lý luận về thích ứng, tái hịa nhập cộng đồng và mức độ của
thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD .
5.2. Nghiên cứu thực trạng mức độ và các yếu tố ảnh hưởng tới sự thích ứng
với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD.
5.3. Đưa ra các khuyến nghị nhằm nâng cao sự thích ứng với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mức độ và biểu hiện thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng ở người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
thơng qua các mặt: nhận thức, thái độ, hành vi và những yếu tố ảnh hưởng đến sự

thích ứng đó.
6.2. Phạm vi về thời gian nghiên cứu

4


Đề tài được nghiên cứu trong 4 năm 2017 - 2020.
7.
Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Nguyên tắc phát triển
Thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng của người đã chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được xem như là một phạm trù có sự
thay đổi trong từng giai đoạn từ khi họ chấp hành xong Quyết định xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng về sinh sống tại địa phương.
- Nguyên tắc hoạt động
Xuất phát từ quan điểm cho rằng tâm lý con người được hình thành trong hoạt
động và giao tiếp; có nguồn gốc từ mơi trường sống. Do đó, muốn tìm hiểu rõ về thích
ứng trong q trình tái hịa nhập cộng đồng của người đã chấp hành xong Quyết định
xử lý hành chính phải nghiên cứu thông qua hoạt động thực tiễn của họ.
- Nguyên tắc tiếp cận hệ thống
Con người là một thực thể xã hội, hành vi của họ chịu sự chi phối, ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau- yếu tố tâm lý cá nhân và yếu tố xã hội.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
7.2.2. Phương pháp quan sát
7.2.3. Phương pháp chuyên gia
7.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.5. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch
7.2.6 Phương pháp nghiên cứu trường hợp

7.2.7. Phương pháp phỏng vấn sâu.
7.2.8. Phương pháp thống kê toán học
8. Đóng góp mới của luận án
8.1. Về lý luận
- Xây dựng được cơ sở lý luận về thích ứng ở người chấp hành xong biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng và khẳng định sự cần thiết về thích ứng
tâm lý trong tái hịa nhập cộng đồng cho các đối tượng chấp hành xong biện pháp xử
lý hành chính.
8.2. Về thực tiễn
Xác định được các biểu hiện và mức độ thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng
ở người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

Chương 1. LÝ LUẬN VỀ THÍCH ỨNG TÂM LÝ VỚI TÁI HỊA NHẬP
CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH
CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu về thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng
1.1.1. Hướng nghiên cứu sự thích ứng nghề nghiệp, thích ứng lao động
E. A. Ermolaeva năm 1969 nghiên cứu “Đặc điểm của sự thích ứng xã hội và
nghề nghiệp của sinh viên tốt nghiệp trường sư phạm”.

5


Năm 1979 A.I Serbacov và A.B. Mudric với cơng trình “Sự thích ứng nghề
nghiệp của thầy giáo” cũng có quan điểm gần giống với E.A. Ermolaeva
Năm 1979, A.E.Golomstooc khi nghiên cứu về “Sự lựa chọn nghề nghiệp và
giáo dục nhân cách cho học sinh
Nguyễn Thúy Bình với “Sự thích ứng của người giáo viên trẻ”, Nguyễn Thị

Minh Huyền có “Sự thích ứng với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh
viên các trường sư phạm”, Nguyễn Nguyệt Cầm “Sự thích ứng với nghề chế biến ăn
uống của học sinh ngành chế biến ăn uống trường trung học Thương mại và Du lịch”
[dẫn theo 23].
“Kế hoạch đường đời và tự xác định nghề nghiệp của thanh niên- sinh viên”
của tác giả Nguyễn Thạc
1.1.2. Hướng nghiên cứu sự thích ứng với mơi trường văn hóa mới, thích
ứng xã hội.
H. Spencer (1820- 1903) khi nghiên cứu về sự thích ứng của con người với môi
trường,
K. Oberg, nhà nhân chủng học người Mỹ, đưa ra khái niệm “sốc văn hóa”.
Năm 1956, “ Colonial Studens” của Carey A.T
Chu Văn Đức với luận án tiến sĩ về “Sự thích ứng của phạm nhân với chế độ
sinh hoạt và chế độ lao động tại trại giam”.
Trần Hồng Yến “Sự thích ứng học tập của học sinh lớp 1”, Hồng Trần Dỗn
“sự thích ứng trong hoạt động học tập của sinh viên”, Nguyễn Minh Đức có “sự thích
ứng hoạt động học tập của học sinh lớp 6”.
Cơng trình của tác giả Phạm Thị Thục Oanh “Thích ứng tâm lý với quá trình
chấp hành án tại trại giam của phạm nhân nữ”.
Năm 2012, tác giả Vũ Dũng với cuốn sách “Thích ứng xã hội của các nhóm xã
hội yếu thế ở nước ta hiện nay”
1.1.3. Nghiên cứu về thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng
Cơng trình "Offender Reentry: Correctional Statistics, Reintegration into the
Community, and Recidivism" (Thống kê Người phạm tội: cơng tác tái hịa nhập cộng
đồng và phòng ngừa tái phạm của tác giả Nathan James Analyst in Crime Policy,
tháng 1/ 2015
Đề tài “Những nhân tố quan trọng tác động đến sự tái hòa nhập cộng đồng
thành cơng của người chấp hành xong hình phạt tù” của tác giả Anna Wilson
Bài viết “Bài học thực tiễn của q trình tái hịa nhập xã hội của người mãn hạn
tù ở Nauy” của tác giả Stian Bonnvie Arntzen

Tác giả chưa thấy có bất cứ nghiên cứu nào về thích ứng với tái hịa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng mà chỉ là những nghiên cứu tái hịa nhập cộng đồng ở góc độ quản lý nhà
nước về An ninh trật tự.
1.2. Lý luận về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.2.1. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.2.1.1. Người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng

6


Người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là người đã nhận được
sự giúp đỡ, giáo dục lại để xóa bỏ tâm lý tiêu cực, hình thành tâm lý tích cực, thực
hiện hành vi hợp chuẩn.
Một số đặc điểm tâm lý phổ biến của người chấp hành xong biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
- Tâm lý mặc cảm, tự ti
- Nhu cầu của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa TGD
- Ý thức pháp luật và nhận thức xã hội thấp kém
Khó khăn tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Về chủ quan: tâm lý tự ti, không muốn giao tiếp
Về phía khách quan: định kiến “đã có tì vết là xấu”, khơng thể gột rửa được.
1.2.1.2. Tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
Tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD là quá trình cá nhân chủ động, tiếp nhận chuẩn mực xã hội sau một thời gian
nhất định bị tách biệt với mơi trường xã hội, hình thành tâm lý tích cực, xóa bỏ tâm lý

tiêu cực, thực hiện hành vi hợp chuẩn, có ích cho xã hội.
Nội dung tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD
Tái hòa nhập về học tập
Tái hòa nhập về hoạt động lao động
Tái hòa nhập các quan hệ xã hội
Tái hòa nhập trong sinh hoạt
1.2.2. Thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
1.2.2.1. Khái niệm thích ứng tâm lý
Thích ứng tâm lý là q trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi, điều chỉnh
bản thân để hịa nhập vào mơi trường sống mới, khắc phục những khó khăn của sự
thay đổi mơi trường sống thể hiện ở sự cân bằng và phù hợp về nhận thức, thái độ và
hành vi trong bối cảnh mới.
Thích ứng tâm lý là q trình cá nhân chủ động, tích cực thay đổi, điều chỉnh
bản thân để hịa nhập vào mơi trường sống mới, khắc phục những khó khăn của sự
thay đổi môi trường sống thể hiện ở sự cân bằng và phù hợp về nhận thức, thái độ và
hành động trong bối cảnh mới.
Thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, bản chất thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là đạt được sự thay đổi và có sự hài hịa,
cân bằng, thống nhất tâm lý ở cả ba thành phần nhận thức, thái độ và hành vi.
- Thứ hai, thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là sự thích ứng tâm lý đặc biệt.
- Thứ ba, cơ chế thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là cơ chế bắt buộc.
Biểu hiện của nội dung thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng ở người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
- Thích ứng về mặt nhận thức


7


- Thích ứng về mặt thái độ
- Thích ứng về mặt hành vi
1.2.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với tái hòa nhập cộng đồng ở
người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
- Các yếu tố thuộc về chủ quan: Trầm cảm; Nhận thức (nhận thức sai lệch về
các chuẩn mực xã hội); Hành vi tích cực (Tự ý thức của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD); mặc cảm
- Các yếu tố thuộc về khách quan: Gia đình, hàng xóm, xã hội
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở phân tích nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngồi nước,
nhóm nghiên cứu đã xây dựng một số khái niệm cơng cụ cho nghiên cứu như sau:
Thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD là sự chủ động, tích cực thay đổi nhận thức, thái độ và
hành vi ở chủ thể của mình để thực hiện những hành vi phù hợp với cuộc sống và
chuẩn mực xã hội hiện hành.
Thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD biểu hiện ở nhận thức, thái độ và hành vi thông qua các
hoạt động học tập, lao động, quan hệ xã hội và sinh hoạt của họ.
Dự báo các yếu tố tác động thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD bao gồm các yếu tố thuộc về
chủ quan và các yếu tố thuộc về khách quan.
Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa bàn và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu luận án tại một số tỉnh thuộc phía bắc của Việt Nam
2.1.2. Khách thể nghiên cứu

Được sự giới thiệu của địa phương, chúng tôi đã gặp trực tiếp các em là những
người đã chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng để
trình bày mục đích của nghiên cứu và đề nghị các em hỗ trợ. Sau khi nhận được sự
đồng ý tham gia nghiên cứu, chúng tôi phát phiếu hỏi và trực tiếp hướng dẫn các em
cách trả lời. Các em tự điền câu trả lời của mình vào phiếu hỏi. Tuy nhiên, việc tiếp
cận khách thể rất khó khăn. Nhiều em tự ti về quá khứ của mình, khơng thích giao tiếp
với ai… nên khơng hợp tác. Mặt khác, địa phương cư trú của các em nằm rải rác khắp
các tỉnh thành trên cả nước, mỗi quận, huyện chỉ có một vài em... Vì vậy, tác giả chỉ
thu thập được thông tin từ 168 khách thể. Trong số này, chúng tôi đã phỏng vấn sâu 12
em. Đặc điểm khách thể được thể hiện trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Số lượng
Tỉ lệ %
Giới tính
Nam
154
91,7
Nữ
14
8,3
Q qn
Thành thị
15
91,1
Nơng thơn
153
8,9

8



Dưới 6 tháng
83
49,4
6- 12 tháng
31
18,5
Trên 12 tháng
54
32,1
6 tháng
1
0,6
Thời gian chấp hành ở TGD
12 tháng
26
15,5
18 tháng
58
34,5
24 tháng
83
49,4
Số lần vào TGD
1 lần
163
97,0
2 lần
5

3,0
Dư dả
19
11,3
Kinh tế của gia đình
Đủ ăn
123
73,2
Khó khăn
26
15,5
Từ đủ 14 đến dưới 16
52
31,0
tuổi
Độ tuổi
Từ đủ 16 đến dưới 18
77
45,8
tuổi
Từ đủ 18 tuổi trở lên
39
23,2
Như vậy, hầu hết người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về địa
phương trong mẫu nghiên cứu là nam giới, sống ở thành thị và mới vào trường giáo
dưỡng một lần và có thời gian chấp hành ở trường giáo dưỡng từ 18 tháng trở lên. Sau
khi chấp hành xong thời gian tại TGD, các em hầu hết ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.2. Tổ chức nghiên cứu
Luận án được tổ chức nghiên cứu qua 3 giai đoạn
- Giai đoạn 1: Nghiên cứu lý luận

- Giai đoạn 2: Khảo sát thực tiễn
- Giai đoạn 3: Viết luận án.
2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận
- Xây dựng, hoàn thiện đề cương nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD; chỉ ra các yếu tố ảnh
hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Thời gian: Từ 12/2016 - 5/2018
2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn
- Xác định độ tin cậy và độ hiệu lực của thang đo trong bảng hỏi của đề tài, trên
cơ sở đó, chỉnh sửa các biến quan sát chưa đạt yêu cầu để hoàn thiện bảng hỏi.
- Chỉnh sửa các phiếu phỏng vấn sâu, các phiếu thảo luận nhóm và bảng quan
sát trước khi khảo sát chính thức.
Thời gian, địa điểm
- Thời gian: từ tháng 8/2018 - 3/2019.
- Địa điểm: Một số xã của huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình; một số phường của
Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
2.2.3. Giai đoạn viết và hoàn thành luận án
Thời gian: từ tháng12/2019 đến tháng 12/2020
2.3. Các phương pháp nghiên cứu
Thời gian về địa phương

9


2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
Tổng hợp, phân tích, hệ thống về mặt lý luận các nghiên cứu về thích ứng tâm
lý, thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD ở trong và ngoài nước xác định những vấn đề cần nghiên cứu:

các thành phần, biểu hiện và mức độ của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Tìm hiểu thực trạng mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD để đánh giá mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố đó đối với thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
2.3.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Thu thập, bổ sung, và làm rõ thông tin đã thu được từ phương pháp khác để có
thể đánh giá trung thực, khách quan các biểu hiện và mức độ của thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và
các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng tâm lý đó.
Các tình huống nảy sinh các cuộc trò chuyện hoặc phỏng vấn cũng hết sức
phong phú dựa theo các mặt của đời sống xã hội, đơi khi là những câu chuyện, chia sẻ
mang tính giải tỏa áp lực tâm lý cho các em.
2.3.4. Phương pháp quan sát
Bổ sung thông tin cho các phương pháp khác, tìm hiểu biểu hiện thích ứng với
tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD và
các yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng tâm lý của họ...
2.3.5. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Phân tích, phác họa chân dung hai người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD với các mức độ thích ứng với tái hịa nhập khác nhau khác nhau nhằm góp
phần khẳng định cơ sở lý luận của luận án và bổ sung cho kết quả nghiên cứu thực
trạng.
2.3.6. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này nhằm xử lý số liệu thu được và chuẩn hóa thang đo sử dụng
theo đặc điểm khách thể cho phù hợp.
Các tiểu thang đo và thang đo

Số item ban
Số item sau khi
đầu gồm
kiểm tra độ tin cậy
Tiểu thang đo thích ứng về nhận thức
20
15
Tiểu thang đo thích ứng về thái độ
20
16
Tiểu thang đo thích ứng về hành vi
24
19
Thang đo thích ứng chung
64
50
Trong mỗi tiểu thang đo, bên cạnh những item thuận chiều, cịn có các item
nghịch đảo. Mỗi item có 5 phương án trả lời từ hoàn toàn sai đến hoàn toàn đúng. Các
item thuận chiều được cho điểm theo mức 4, 3, 2, 1, 0, tương ứng với các phương án
trả lời “Hoàn toàn đúng”, “Đúng nhiều hơn sai”, “Nửa đúng nửa sai”, “Sai nhiều hơn
đúng”, “ Hoàn toàn sai”. Các item nghịch đảo đều được đổi điểm trước khi tính điểm
trung bình của tiểu thang đo và thang đo. Điểm trung bình càng cao, mức độ thích ứng

10


càng lớn. Độ tin cậy của tiểu thang đo thích ứng về nhận thức là 0,75; của tiểu thang
đo thích ứng về thái độ là 0,77; của tiểu thang đo thích ứng về hành vi là 0,87 và của
tồn bộ thang đo thích ứng tâm lí là 0,91.
2.3.7 Phương pháp chuyên gia

Phỏng vấn xin ý kiến về đặc điểm tâm lý đối tượng đã chấp hành xong biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng; phân tích chia sẻ một vài trường
hợp CHXBPXLHC đưa vào TGD
2.3.8. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, lý lịch
Nắm được tiểu sử, nhân thân, lai lịch, nguyên nhân của những hành vi đã, đang
và dự đoán hành vi của đối tượng.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, tác giả đã trình bày tiến trình tổ chức thực hiện đề tài
nghiên cứu qua 3 giai đoạn và các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu lý luận
cũng như nghiên cứu thực tiễn. Các công cụ điều tra đã được tổ chức tiến hành nghiên
cứu thử nghiệm, chỉnh sửa, bổ sung và được hoàn thiện trước khi đưa vào điều tra
chính thức.
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ THÍCH ỨNG
TÂM LÝ VỚI TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG Ở NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
3.1. Thực trạng thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng ở người chấp
hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
3.1.1. Đánh giá chung về thực trạng thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng
đồng ở người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng

Biểu đồ 3.1. Phân bố điểm thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Phân bố điểm thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD cho thấy điểm trung bình (Mean) = 3,21;
trung vị (Median)= 3,31; điểm thấp nhất (Min) = 1,75; điểm cao nhất (Max) = 4,00;
độ lệch chuẩn (SD) = 0,49; độ nghiêng (Skewness) = -0,86; độ dẹt (Kurtosis) = 0,29.
Như vậy, phân phối điểm thích ứng tâm lý chung tiệm cận phân bố chuẩn, tuy nhiên
điểm phân bố tập trung ở cực phải, phía bên trái biểu đồ có độ thoai thoải, nghiêng
dốc ít hơn so với phía bên phải của biểu đồ và có độ nhọn rõ rệt; sự dao động của

ĐTB khá rộng từ 1,75 đến 4,00 điểm.
Bảng 3.1. Mức độ thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp
hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

11


Thấp
(%)

Trung
bình (%)

Điểm
Điểm ĐTB ĐL
thấp
cao
C
nhất
nhất
Thích ứng chung
14,3
70,2
15,5
1,75
4,00
3,21 0,49
Thích ứng về nhận thức
13,3
79,1

7,6
1,60
4,00
3,36 0,50
Thích ứng về thái độ
15,5
66,7
17,9
1,75
4,00
3,15 0,54
Thích ứng về hành vi
20,2
60,7
19,0
0,63
4,00
3,13 0,64
Kết quả thu được cho thấy ĐTB của toàn bộ thang đo thích ứng tâm lí cũng như
ba tiểu thang đo đều có ĐTB đạt hơn 3/4 điểm, trong đó thích ứng về nhận thức có
ĐTB cao hơn thích ứng về thái độ và thích ứng về hành vi. Như vậy, sau khi trở lại địa
phương, các thanh thiếu niên đã từng ở TGD đã tỏ ra thích ứng tương đối tốt với tái
hịa nhập cộng đồng; trong đó thích ứng về nhận thức của các em tốt hơn thích ứng về
thái độ và hành vi. Tuy nhiên, so sánh trên chính mẫu chọn của nghiên cứu này thì
phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có mức thích ứng tâm
lý ở mức trung bình (70,2%), tỉ lệ này cao gấp hơn 4,5 lần so với tỉ lệ người thích ứng
tâm lý ở mức cao và gấp 4,9 người thích ứng tâm lý ở mức thấp.
Khi so sánh theo các đặc điểm nhân khẩu, thích ứng chung của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mặc
dù vậy, tỉ lệ có mức thích ứng thấp ở nữ cao hơn tỉ lệ này ở nam giới, ngược lại tỉ lệ có

mức thích ứng cao ở nam giới cao hơn ở nữ giới. Trong khi không có em nào ở thành
thị có mức thích ứng thấp thì tỉ lệ các em ở nơng thơn có mức thích ứng thấp là 16%;
đồng thời tỉ lệ có mức thích ứng cao của các em sống ở thành thị cao hơn các em sống
ở nông thôn (20% và 15%). Các em càng có nhiều thời gian ở trường giáo dưỡng thì tỉ
lệ thích ứng ở mức độ thấp càng cao. Các em sống trong gia đình có hồn cảnh kinh tế
càng khó khăn thì càng thích ứng thấp.
Mặc dù, thích ứng về nhận thức có ĐTB cao nhất, nhưng tỉ lệ người thích ứng về
nhận thức ở mức cao khá thấp so với tỉ lệ người thích ứng về thái độ và hành vi. Mặc
dù tỉ lệ người thích ứng về hành vi khá cao, nhưng những người thích ứng về hành vi
ở mức thấp cũng chiếm một tỉ lệ tương đương và chiếm tỉ lệ cao hơn người thích ứng
thấp về thái độ và nhận thức. Điều này cho thấy có sự thích ứng chưa đồng đều trong
từng mặt cũng như giữa các mặt.
Thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể
hiện đầu tiên là phải chấp nhận và tiến tới tự giác thực hiện những hành vi tuân theo
các chuẩn mực của địa phương nói riêng và của xã hội nói chung. Trong q trình đó
có sự giám sát của gia đình và các tổ chức xã hội giúp họ có điều kiện tự nhìn nhận lại
bản thân và hành vi của mình một cách căn bản. Vì vậy, sau đây, chúng tơi phân tích
kĩ hơn từng mặt của sự thích ứng tâm lý này.
3.1.2. Thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng về mặt nhận thức
Việc chấp nhận thực hiện các nội quy cụ thể trong các hoạt động hàng ngày khi
sinh sống tại địa phương như khi tham gia hoạt động học tập và hoạt động lao động,
quan hệ xã hội, các sinh hoạt cá nhân.... Kết quả phân tích số liệu cho thấy nhận thức
về lao động đạt điểm trung bình cao nhất (3,54); tiếp đến là nhận thức về học tập
(3,35) và sau cùng là nhận thức về sinh hoạt và và về quan hệ xã hội (3,29 và 3,28).
Điều này cho thấy của người chưa thành niên đã từng thực hiện hành vi vi phạm pháp

12

Cao

(%)


luật là chưa nhận thức đồng đều về tất cả các khía cạnh. Dường như vấn đề sinh hoạt
và quan hệ xã hội vẫn còn nhiều trở ngại với các em.
Trong các biểu hiện cụ thể của nhận thức thì nhận thức về lợi ích của lao động,
học tập và việc tham gia hoạt động với mọi người là tốt nhất (đạt điểm trung bình cao
nhất, từ 3,69 trở lên). Phần lớn các em đều hiểu rằng lao động giúp các em hiểu về
cuộc sống, lao động giúp rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì; học tập giúp các em có
được kiến thức và cơ hội làm việc; tham gia các hoạt động với mọi người là cách tốt
nhất để hòa nhập. Chia sẻ của một số em tham gia phỏng vấn sâu đã khẳng định lại
điều này: "Lao động đầy đủ và có hiệu quả giúp mọi người nhìn nhận chúng cháu
theo hướng thiện cảm hơn, chúng cháu có điều kiện để chứng minh với mọi người về
sự hướng thiện của chúng cháu. Hơn nữa, vì là thay đổi mơi trường sống nên chúng
cháu cũng chưa có được nhiều các quan hệ xã hội ở địa phương nên lao động giúp
thời gian trôi nhanh hơn với chúng cháu mà chúng cháu cũng khuây khỏa đầu óc, bớt
thời gian lo nghĩ về gia đình và những việc khác” (T.T.H- 21 tuổi, Hai Bà Trưng, Hà
Nội). Một số khác cho rằng: "May có việc làm sớm chứ nếu khơng có việc làm thì
cũng chẳng biết làm gì cơ ạ" ( N.H.V, 18 tuổi, TP.Tam Điệp, Ninh Bình)
Bảng 3.2. Thực trạng thích ứng về nhận thức
Nội dung
ĐTB ĐLC
Nhận thức về học tập
3,35
Tôi thấy việc học tập pháp luật là cần thiết*
3,48
1,15
Tôi thấy nội dung học tập giáo dục công dân, đạo đức cũng lí thú*
3,20
1,26

Tơi thấy bắt buộc học tập văn hóa khơng q khó khăn đối với tơi* 2,75
1,44
Học tập giúp tơi có được kiến thức và có cơ hội việc làm
3,70
0,82
Tơi thấy mình cần phải học để bổ sung kiến thức
3,61
0,78
Nhận thức về lao động
3,54
Lao động giúp tôi rèn luyện sức khỏe và sự kiên trì
3,70
0,72
Lao động giúp tơi hiểu hơn về cuộc sống
3,73
0,70
Tơi thấy phải lao động có ích đối với bản thân tôi*
3,20
1,18
Nhận thức về quan hệ xã hội
3,28
Để có bạn bè mới, tơi cần phải chủ động làm quen và thiết lập
3,13
1,22
quan hệ
Tôi biết rằng cần phải có thời gian để hàng xóm chấp nhận
3,23
1,19
Tơi cần thể hiện sự quan tâm đến các thành viên trong gia đình
3,48

1,02
Nhận thức về sinh hoạt
3,29
Tham gia các hoạt động với mọi người là cách tốt nhất để tơi hịa
3,69
0,76
nhập
Làm các việc (đi ngủ, xem tivi...) theo quy định là cần thiết
3,39
1,06
Tôi cần phải cố gắng tham gia các hoạt động tại địa phương
3,10
1,22
Tôi thấy mọi người xung quanh chấp hành tốt các quy định của địa 2,96
1,05
phương
Ghi chú: * Item nghịch đảo đã được quy đổi điểm và thay đổi diễn đạt cho phù hợp.

Vấn đề khó khăn nhất với các em là việc bắt buộc học văn hóa. Mặt khác, độ
lệch chuẩn của các biểu hiện nhận thức khá cao, phần lớn đều lớn hơn 1. Kết quả này
cho thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có sự thích ứng khơng
đồng đều về mặt nhận thức. Trong khi một số em nhận thức rất tốt về học tập, lao

13


động, quan hệ xã hội và sinh hoạt thì một số em chưa có nhận thức tốt về những vấn
đề này.
Như vậy, mặc dù nhiều em đã nhận thức được việc cần chấp nhận tuân theo các
chuẩn mực xã hội khi về địa phương nhưng vẫn còn một bộ phận thanh thiếu niên

chưa thực sự thay đổi nhiều về nhận thức.
3.1.3. Thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt thái độ
Mặc dù nhận thức về sinh hoạt không cao song thái độ về sinh hoạt của người
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD lại cao nhất, tiếp đến là thái độ
đối với lao động; cuối cùng là thái độ đối với quan hệ xã hội và học tập. Tương tự
thích ứng về mặt nhận thức, phần lớn các biểu hiện thích ứng về thái độ đều có sự
phân tán ý kiến. Trong khi nhiều em tỏ ra phấn khởi, vui vẻ thì một số em vẫn cảm
thấy buồn chán, khó chịu trong học tập, lao động, quan hệ xã hội cũng như sinh hoạt.
Bảng 3.3. Thực trạng thích ứng thái độ
Nội dung
ĐTB ĐLC
Thái độ về học tập
2,94
Tơi thích thú khi được học tập *
2,77 1,34
Tơi không cảm thấy buồn chán khi học pháp luật *
3,06 1,28
Việc học nghề làm tơi thấy dễ chịu
3,36 1,04
Tơi thích được học lại từ đầu
2,55 1,35
Thái độ về lao động
3,22
Tôi muốn lao động để mình có ích cho xã hội*
3,25 1,20
Tơi khơng cảm thấy khó chịu khi bị nhắc nhở trong q trình lao
2,72 1,37
động*
Tơi thấy vui khi tự mình làm ra sản phẩm mới

3,68 0,85
Thái độ về quan hệ xã hội
3,00
Tơi khá hài lịng với các bạn của tơi
2,92 1,13
Tơi khơng thấy khó chịu về sự dị xét của mọi người xung quanh
2,24 1,40
Tôi thấy thoải mái với mọi người trong gia đình
3,62 0,87
Mọi người đối xử tốt với tôi
3,23 1,00
Thái độ về sinh hoạt
3,39
Sinh hoạt chung với mọi người trong cộng đồng tôi thấy cũng ổn
2,98 1,14
Tôi dần quen với quy định về giờ giấc sinh hoạt (đi ngủ, xem ti
3,61 0,76
vi...)
Tôi thấy yên tâm khi làm việc theo thời gian biểu
3,47 0,98
Tơi thấy hài lịng vì đã làm theo được quy định của địa phương
3,35 0,96
Tôi thấy khá ổn với cuộc sống hiện tại
3,52 0,99
Ghi chú: * Item nghịch đảo đã được quy đổi điểm và thay đổi diễn đạt cho phù hợp.

Nhiều em cảm thấy vui khi tự mình làm ra sản phẩm mới, cảm thấy thoải mái
với mọi người trong gia đình, dần quen với các quy định về giờ giấc sinh hoạt.
Tuy nhiên, một bộ phận thanh thiếu niên vẫn khó chịu với sự dị xét của mọi
người, khơng thích phải học lại từ đầu. Những mệnh đề thể hiện thái độ này, sau khi

đã đổi điểm đều nhận được điểm trung bình thấp nhất 2,24 và 2,55. Điều này phản ánh
thái độ chưa tích cực, thoải mái khi thực hiện hoạt động học tập, cũng như trong quan
hệ với mọi người xung quanh. Cảm thấy áp lực, buồn chán, mệt mỏi là biểu hiện tâm

14


lý thường thấy nhiều nhất trong tâm lý của người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Thực tiễn công tác tổ chức tái hòa nhập cộng đồng cho người CHXBPXLHC đưa vào
TGD hiện nay ở một số địa phương đã bắt đầu chú trọng vào việc dạy văn hóa và giáo
dục kiến thức xã hội nói chung, tuy nhiên cơng tác này chưa thực sự đạt hiệu quả như
mong đợi của xã hội cịn chưa nói tới nhiều địa phương chưa để ý đến cơng tác này.
Về khía cạnh tổ chức hoạt động giáo dục kiến thức xã hội cho các đối tượng là tù tha
về, tác giả Vũ Văn Hòa cho rằng các địa phương hiện nay tổ chức cho các đối tượng
chấp hành xong án về địa phương học tập chỉ dừng lại ở một số nội dung hạn chế,
chưa cụ thể và chưa đi vào chiều sâu (10, tr. 112).
Thực trạng này bắt nguồn một phần từ thái độ của những người xung quanh đối
với đối tượng là người CHXBPXLHC đưa vào TGD. Qua trao đổi với một số người
dân tại địa phương có người CHXBPXLHC đưa vào TGD, nhóm tác giả nghiên cứu
cũng nhận thấy điều này. “...Bọn này tin sao được cơ, chúng nó lại ngựa quen đường
cũ mà.....” (VHH., Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc); “Bố mẹ chúng nó cịn chẳng giáo dục
được nữa là ra xã hội, cứ để pháp luật trừng trị” ( BKL.,Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Có thể nói rằng một bộ phận người CHXBPXLHC đưa vào TGD chỉ chấp nhận
và thay đổi thái độ ở mức độ thấp; các em khơng hồn toàn thoải mái, cân bằng khi
thực hiện các yêu cầu hay quy định địa phương.
3.1.4. Thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD về mặt hành vi
Trong 3 mặt thì thích ứng về mặt hành vi có dải điểm rộng nhất với điểm thấp
nhất là 0,63 và điểm cao nhất là 4,00. Độ lệch chuẩn của các biểu hiện thích ứng về
hành vi cũng rất cao; hầu hết các biểu hiện có độ lệch chuẩn lớn hơn 1. Các con số

này cho thấy thích ứng về hành vi cũng khơng có sự đồng đều giữa các cá nhân.
Bảng 3.4. Thực trạng thích ứng hành vi
Nội dung
ĐTB ĐLC
Hành vi học tập
3,04
Tơi tích cực tham gia hoạt động học tập
3,15 1,12
Tơi thường xuyên trao đổi với giáo viên về nội dung học tập
2,70 1,32
Tôi tham gia đầy đủ các buổi học nghề
3,20 1,14
Tơi tham gia đầy đủ các buổi học văn hóa
3,13 1,29
Tôi hay trao đổi với mọi người về nội dung học được
3,04 1,19
Hành vi lao động
3,23
Tôi tham gia đầy đủ ngày cơng lao động
3,35 1,04
Tơi hồn thành định mức lao động
3,36 0,98
Tôi thành thạo các thao tác lao động
3,27 1,08
Tôi không chủ động hay sáng tạo khi lao động, ai bảo gì làm đấy
2,95 1,28
Hành vi trong quan hệ xã hội
3,06
Tơi gặp và trị chuyện với hành xóm một cách bình thường
2,90 1,36

Tơi giữ quan hệ tốt với nhiều người
3,01 1,17
Mọi người giúp đỡ tơi nhiệt tình
3,02 1,19
Tơi ứng xử với mọi người trong gia đình bình thường
3,48 0,99
Tơi hay giúp đỡ mọi người xung quanh
2,90 1,13
Hành vi trong sinh hoạt
3,20
Tôi thực hiện tốt các quy định của địa phương
3,05 1,24

15


Tơi nhanh chóng hịa nhập với sinh hoạt tại địa phương
Tôi luôn cố gắng thực hiện một số yêu cầu cao trong sinh hoạt
Tôi luôn cố gắng ngủ dậy sớm đúng giờ
Tơi sinh hoạt theo mọi người trong gia đình

3,27
3,50
3,13
3,04

1,09
0,85
1,31
1,31


Ghi chú: * Item nghịch đảo đã được quy đổi điểm và thay đổi diễn đạt cho phù hợp.

Tuy nhiên mức độ thích ứng về hành vi của các biểu hiện tương đối đồng đều.
Một số hành vi có ĐTB thấp hơn các hành vi khác một chút là trao đổi với giáo viên
về nội dung học tập, không chủ động hay sáng tạo khi lao động, ai bảo gì thì làm nấy,
gặp và trị chuyện với hàng xóm một cách bình thường, hay giúp đỡ mọi người xung
quanh. Một số hành vi có ĐTB cao hơn cả là thực hiện một số yêu cầu cao trong sinh
hoạt, đối xử bình thường với mọi người trong gia đình.
Thích ứng về mặt sinh hoạt và lao động cao hơn thích ứng về học tập và quan
hệ xã hội. Mặc dù vậy, thực tế quan sát cách thức sinh hoạt, lao động của người
CHXBPXLHC đưa vào TGD trong quá trình tham gia lao động cho thấy một số em
luôn lợi dụng những sơ hở của quy trình, cách thức quản lý của người quản lý để vi
phạm những lỗi nhỏ, lao động một cách bị động, chứ không chủ động, kết quả lao
động chưa như ý. Có thể thấy, những hành vi lao động dễ dàng bị giám sát đều được
phần lớn người CHXBPXLHC đưa vào TGD tuân thủ, thực hiện tốt theo u cầu của
lao động, cịn những gì khơng hoặc khó có thể giám sát được chặt chẽ thì đa số họ làm
việc theo kiểu cầm chừng.
Đây có thể coi là những hành vi mang tính ứng phó với việc các em ln nhìn
nhận bị mọi người xa lánh, phản ứng với những khó khăn trong q trình thiết lập các
mối quan hệ và sinh hoạt theo nề nếp ở gia đình và địa phương. Xét về khía cạnh cân
bằng tâm lý thì những hành vi ứng phó giúp cho người CHXBPXLHC đưa vào TGD
phần nào cảm thấy đã tự trấn an được tâm lý của mình nhưng khơng phải tất cả hành
vi ứng phó đều được cho là phù hợp với quy định của địa phương cũng như phù hợp
với u cầu của pháp luật.
Đồng chí phó chủ tịch một phường ở quận Hồn Kiếm (Hà Nội) trao đổi với
nhóm nghiên cứu những băn khoăn của mình khi thấy có sự khác biệt về nhận thức,
thái độ và hành vi trong thích ứng tâm lý của người CHXBPXLHC đưa vào TGD với
việc thực hiện các quy định của địa phương trong sinh hoạt tại địa phương như sau:
"Quản lý, giáo dục cho người CHXBPXLHC đưa vào TGD tái hòa nhập cộng đồng

là cơng việc đặc biệt. Bởi mình với tư cách là cán bộ quản lý, chỉ đạo trực tiếp anh
em làm việc này phải luôn thật nhân văn, gần gũi, tôn trọng họ nhưng mặt khác cũng
phải nghiêm túc quán triệt và chấp hành các nguyên tắc đảm bảo họ tin tưởng và
nhận thức được mục đích của xã hội. Họ là những người được theo dõi để uốn nắn
nên ln có xu hướng bằng cách nào đó hạn chế tối đa những sự ảnh hưởng, chi phối
của những người quan tâm đến họ”.
Sự khác biệt về mức độ thích ứng tâm lý giữa các nhóm người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD chưa có ý nghĩa thống kê có thể do số lượng một số
nhóm (nhóm nữ, nhóm sống ở thành thị...) chưa đủ lớn để so sánh. Vì vậy, sự khác
biệt trong thích ứng của từng nhóm thanh thiếu niên này cần tiếp tục được kiểm tra
trên các mẫu nghiên cứu lớn hơn trong các nghiên cứu tiếp theo.
3.1.5 Tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD

16


Bảng 3.5. Tương quan giữa các khía cạnh thích ứng tâm lý
Thích ứng Mặt nhận thức
chung
1
0,782

Mặt thái
độ
0,862

Mặt hành vi

Thích ứng

0,894
chung
Mặt
0,782
1
0,534
0,524
nhận thức
Mặt
0,862
0,534
1
0,675
thái độ
Mặt
0,894
0,524
0,675
1
hành vi
Hệ số tương quan Pearson của các mặt với nhau theo chiều thuận và ở mức độ
trung bình đến tương quan chặt chẽ với r > 0,5 và p < 0,01. Tương quan giữa các yếu
tố cấu thành của sự thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đều diễn ra theo chiều thuận và hông đồng đều
với các mức độ tương quan chặt chẽ khác nhau từ mức độ trung bình đến chặt chẽ (với
r = 0,534 đến 0,894). Dữ liệu nghiên cứu cho thấy rằng các mặt của thích ứng khơng
tồn tại độc lập mà có liên quan đến nhau, trong đó thích ứng thái độ và thích ứng hành
vi có tương quan với nhau mạnh hơn so với tương quan giữa chúng với thích ứng
nhận thức. Đây là điểm cho thấy sự thống nhất giữa các mặt này trên bình diện chung.
Trong 3 mặt thì nhận thức được thích ứng cao nhất, tiếp đến là mặt thái độ và thấp

nhất là mặt hành vi.
3.2. Dự báo các yếu tố tác động tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo dưỡng
3.2.1. Các yếu tố thuộc về chủ quan
Bảng 3.15a. Dự báo từng yếu tố thuộc về chủ quan
Nhân
tố
Trầm
cảm
Nhận
thức
Hành
vi tích
cực
Mặc
cảm

Thích ứng chung
Bêta

Sig

VIF

1,000
-0,40
000
R2= 0,62; sig=000;
DW=1,539
1,000

-0,36
000
2
R =0,13; sig= 000;
DW=1,513
1,000
0,53
000
2
R =0,29; sig= 000;
DW=1,627
1,000
-0,41
000
2
R =0,17;sig= 000;
DW=1,653

Mặt Nhận thức
Bêta Sig VIF

Mặt Thái độ
Bêta Sig VIF

Mặt Hành vi
Bêta Sig VIF

-0,14

1,000

-0,32
000
R2=0,53;sig= 000;
DW=1,570
1,000
-0,28 000
2
R =0,18; sig=000;
DW=1,588
1,000
0,42
000
2
R =0,17; sig=000;
DW=1,624
1,000
-0,38 000
2
R =0,15; sig=000;
DW=1,628

1,000
-0,30 000
R2= 0,29; sig=000;
DW=1,528
1,000
-,33
000
2
R =0,11;sig= 000;

DW=1,546
1,000
0,50
000
2
R =0,25; sig=000;
DW=1,699
1,000
-0,40 000
2
R =0,16;sig= 000;
DW=1,625

000

1,000

2

R = 0,20;sig= 000;
-0,15

DW=1,623
000
1,000

R2=0,19;sig= 000;
0,42

DW=1556

000
1,000

R2=0,18; sig=000;
-0,23

DW=1,699
000
1,000

R2=0,16; sig=000;
DW=1,642

Dự báo yếu tố Trầm cảm
Kết quả bảng 3.15a cho thấy mơ hình dự báo của trầm cảm đều có ý nghĩa thống kê
với sig= 0,000, tức yếu tố trầm cảm (và các biến số của trầm cảm) có khả năng dự báo
chính xác đến thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và hành vi của
thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD theo chiều nghịch (giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ thuộc đều âm).

17


Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Hòa (2013) cũng cho thấy nhóm các
yếu tố liên quan đến tâm lý của người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương thì
có tới 23% liên quan tới căng thẳng tâm lý ở mức độ trầm cảm (tress). Tác giả cho
rằng các vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần và các quy trình liên quan đến điều
trị các vấn đề tâm thần có dùng thuốc và can thiệp y khoa đều có sự ảnh hưởng tới tái
hòa nhập của họ và các phản ứng chống đối của họ với các quy định của địa phương
[58].

Mức độ dự báo của yếu tố trầm cảm tới các thành phần của thích ứng tâm lý
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD được được mô tả ở bảng
3.15a.
Kết quả ở mơ hình Hồi quy tuyến tính cho thấy yếu tố trầm cảm đều dự báo
đến các thành phần của sự thích ứng tâm lý đạt mức có ý nghĩa về mặt thống kê với
sig= 0,000. Trong đó trầm cảm có mức dự báo tác động cao nhất tới thích ứng về thái
độ của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (R2 = 0,53; và sig=
0,000), tiếp theo là dự báo tới thích ứng về mặt hành vi (sig = 0,000; R 2 = 0,29). Tuy
nhiên, từ bảng trên ta thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có vấn
đề về trầm cảm và cũng cho thấy dự báo mức độ tác động của trầm cảm tới các thành
phần của thích ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD,
đặc biệt là về thích ứng nhận thức- những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD có vấn đề về trầm cảm chỉ thích ứng được với 20% so với những người
khơng có vấn đề về trầm cảm.
Dự báo yếu tố Mặc cảm
Theo bảng 3.15a thì yếu tố mặc cảm dự báo tác động đến thích ứng tâm lý chung
và cả các thành phần thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với R 2 của thích ứng tâm lý chung = 0,17 và sig=
0,000; thích ứng nhận thức có R2= 0,16 và sig= 0,000; thích ứng về thái độ là 0,15 và
sig= 0,000; thích ứng về hành vi là 0,16 và sig= 0,000. Giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ
thuộc đều âm tức là yếu tố mặc cảm tác động theo chiều nghịch đến tất cả các biến
nghiên cứu và sig đều = 0,000 tức các giá trị đều có ý nghĩa về mặt thống kê.
Dự báo yếu tố Nhận thức (nhận thức sai lệch các chuẩn mực xã hội)
Mô hình xem xét khả năng tác động của 5 biến số mô tả nhận thức sai lệch của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD về các chuẩn mực xã hội nhưng
chỉ có 4 biến số có khả năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với thích ứng tâm lý của
người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD (xem thêm phụ lục 3.1; 3.2) với p
sig= 0,000. Đó là các biến: "vẫn coi mọi chuyện như bình thường"; "mặc kệ mọi
chuyện đến đâu thì đến"; "việc học tập hay lao động chẳng có ích gì" và "khơng thấy
vấn đề gì về những sai trái trước đây của mình". Cụ thể dữ liệu nghiên cứu cho thấy

các biến có ảnh hưởng theo chiều nghịch đến thích ứng tâm lý của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD (Bêta>0) với giá trị về tỉ số chênh từ 2,11.
Kết quả ở bảng 3.15a cho thấy mức độ dự báo của các biểu hiện về nhận thức
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD tới các thành phần thích ứng
tâm lý của họ có sự khác nhau; nhưng tất cả các biểu hiện đều đạt mức ý nghĩa thống
kê (sig< 0,005) và biểu hiện đều có thể dự báo tới tất cả các thành phần của sự thích
ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với việc chấp
hành nội quy của địa phương.

18


Như vậy, yếu tố nhận thức sai lệch về chuẩn mực xã hội của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD có khả năng dự báo cao tới các thành phần của
thích ứng tâm lý: thích ứng nhận thức, thích ứng thái độ và thích ứng hành vi.
Dự báo yếu tố hành vi tích cực (Yếu tố tự ý thức)
Kết quả bảng 3.15a cho thấy mơ hình dự báo của trầm cảm (xem thêm phụ lục 3.3)
đều có ý nghĩa thống kê với sig= 0,000, tức yếu tố hành vi tích cực (và các biến số của nó)
có khả năng dự báo chính xác đến thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức,
thái độ và hành vi của thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng của người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD theo chiều thuận (giá trị Bêta ở tất cả các biến phụ
thuộc đều dương).
Mơ hình nghiên cứu xem xét khả năng tác động của các biến số khi chạy độ tin
cậy đạt 0,63 điều này giải thích yếu tố hành vi tích cực có khả năng dự báo có ý nghĩa
thống kê đối với thích ứng tâm lý chung và từng thành phần của thích ứng tâm lý đó là
trầm cảm. Dữ liệu cho thấy những người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào
TGD) có xác xuất thích ứng tâm lý bằng 29,0% những người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD không thực hiện hành vi tích cực.
Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan
Bảng 3.15b. Dự báo các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái

hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Nhâ
n tố

Thích ứng chung
Bêt Sig VIF
a

Mặt Nhận thức
Bêta Sig
VIF

Mặt Thái độ
Bêta
Sig
VIF

Mặt Hành vi
Bêt Sig VIF
a

Trầm
cảm
Nhận
thức
HV
tích
cực
Mặc
cảm


-0,15

-0,19

1,270

-0,28

1,270

-0,18

1,294

-0,29

1,294

-0,15

1,041

0,31

1,041

0,40

0,00 1,170

1
R2=0,24;sig= 000;
DW= 1,694

-0,23

0,00
1,170
4
R2=0,27; sig=000;
DW=1,654

-0,22

-0,18
0,43
-0,22

0,00
0
0,00
1
0,00
0

1,27
0
1,29
4
1,04

1

0,00 1,17
3
0
R2=0,39; sig=000;
DW=,1469

--0,23
0,37

0,00
2
0,00
4
0,00
0

-0,10

0,00
1
0,00
2
0,00
0

0,00
1
0,00

3
0,00
0

1,27
0
1,29
4
1,04
1

004

1,17
0
R2=0,35 ; sig=000;
DW=1,458

Các yếu tố thuộc về chủ quan tác động tới thích ứng tâm lý chung với tái hòa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đạt chỉ số R2= 0,39
với sig=0,000. Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,469 tra trong bảng với n=10, k=3 ta
có dL= 0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,496 như bảng trên thì 0,340<
1,496< 1,733. Điều này phù hợp với R 2 ở trên biến độc lập tác động và ảnh hưởng đến
biến phụ thuộc. Với DW=1,496 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng khơng quyết định
được biến độc lập.
Giá trị với sig= 0,000 chứng tỏ R2 bình phương của tổng thể khác 0. Đồng
nghĩa với mơ hình hồi quy tuyến tính xây dựng được phù hợp với tổng thể thực tế
Cột hệ số Bêta ta thấy hệ số Bêta> 0 của yếu tố hành vi tích cực tác động theo
chiều thuận đến biến thích ứng tâm lý chung, còn lại các yếu tố Trầm cảm, Mặc cảm,
nhận thức có Bêta< 0, nghĩa là các biến đó tác động theo chiều nghịch đến Thích ứng

tâm lý chung. Yếu tố Hành vi tích cực sẽ có ảnh hưởng và biến đổi biến phụ thuộc
thích ứng tâm lý chung lớn nhất với Bêta= 0,43, tiếp theo là nhân tố Mặc cảm với

19


Bêta= -0,22; Nhận thức với hệ số B = -0,18; biến Trầm cảm lại có chỉ số Bêta nhỏ
nhất với Bêta= -0,15. Khi kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương quan
giữa các biến độc lập) thông qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance
inflation factor) ta thấy theo bảng 3.15b tất cả các biến đều có VIF đều bé hơn 2,
chứng tỏ khơng có hiện tượng đa cộng tuyến.
Các yếu tố thuộc chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý về mặt nhận
thức. Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số R 2 của thích ứng nhận thức là 0,24 và sig=
0,000, các giá trị thu được có ý nghĩa thống kê và tin tưởng được, biến phụ thuộc thích
ứng tâm lý chung được giải thích bởi các biến nhân tố độc lập.
Các yếu tố thuộc chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý về mặt thái độ.
Với bảng 3.15b, hệ số R2 của thích ứng thái độ là 0,27 với sig= 0,000.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,654 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,654 như bảng trên thì 0,340< 1,654<
1,733.. Với DW=1,654 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng khơng quyết định được
biến độc lập. Điều này sẽ lưu ý trong phần đề xuất giải pháp giúp người chấp hành
xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng với tái hịa nhập cộng đồng về mặt
thái độ.
Hệ số B của các nhân tố trầm cảm, mặc cảm, nhận thức đều âm với lần lượt là
-0,28; -0,23, -0,29, nghĩa là khi các biến này tác động theo chiều nghịch đến biến phụ
thuộc Thích ứng về thái độ. Kiểm tra giả định về hiện tượng đa cộng tuyến (tương
quan giữa các biến độc lập) thơng qua giá trị của hệ số phóng đại phương sai VIF thì
tất cả các nhân tố đều có VIF đều bé hơn 2, chứng tỏ khơng có hiện tượng đa cộng
tuyến.
Các yếu tố thuộc chủ quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý về mặt hành vi.

Hệ số R2 của thích ứng hành vi là 0,35 và sig= 0,000 cho thấy mơ hình hồi quy
tuyến tính này phù hợp với tập dữ liệu của mẫu. Với hệ số tự tương quan (DW) là
1,458 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL= 0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan
DW= 1,458 như bảng trên thì 0,340< 1,458< 1,733. Biến độc lập có ảnh hưởng
nhưng khơng quyết định được biến phụ thuộc.
Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc về chủ quan có khả
năng dự báo thích ứng tâm lý chung và các thành phần nhận thức, thái độ và hành vi
của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng ở người chấp hành xong biện pháp
XLHC đưa vào TGD.
3.2.2. Dự báo yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái hịa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Kết quả nghiên cứu cho thấy các biến số thuộc về khách quan như các yếu tố
thuộc về gia đình, mối quan hệ với hàng xóm, bạn bè (gọi tắt là hàng xóm), Sự quan
tâm của chính quyền, các tổ chức xã hội (chính quyền) đều có ý nghĩa thống kê với
chỉ số sig< 0,005 (xem thêm phụ lục 3.3; 3.4; 3.5) cho thấy có khả năng dự báo tới
thích ứng tâm lý chung và các thành phần của thích ứng tâm lý và khả năng dự báo
chính xác cao. Điều đó có nghĩa là các yếu tố như gia đình, hàng xóm, chính quyền có
khả năng dự báo thích ứng tâm lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý với tái
hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD. Kết
quả nghiên cứu từ bảng 16a cho thấy các biến số thuộc về các yếu tố khách quan như
yếu tố thuộc về gia đình, yếu tố hàng xóm, xã hội đều có ý nghĩa thống kê với chỉ số

20


sig < 0,005 (xem thêm phụ lục 3.3; 3.4; 3.5) cho thấy có khả năng dự báo tới thích
ứng tâm lý chung và các thành phần thích ứng tâm lý.
Bảng 3.16a. Dự báo từng yếu tố thuộc về khách quan
Nhâ
n tố


Thích ứng chung
Bêta Sig VIF

Mặt Nhận thức
Bêta Sig VIF

Mặt Thái độ
Bêta Sig VIF

Mặt Hành vi
Bêta Sig VIF

Gia
đình

0,42 0.00 1,00
7
0
0
ARS= 0,224;
sig=0,000
0,11 0,00 1,00
5
1
0
ARS= 0,174;
sig=0,001
0,47 0,00 1,00
8

0
0
ARS= 0,102;
sig=0,000

0,21 0,00 1000
4
4
ARS= 0,108;
sig=0,004
0,11 0,00 1,00
5
1
0
ARS= 0,107;
sig=0,001
0,30 0,00 1,00
1
0
0
ARS= 0,185;
sig=0,000

0,36 0,00 1,00
3
0
0
ARS= 0,126;
sig=0,000
0,15 0,00 1,00

7
1
0
ARS= 0,109;
sig=0,001
0,37 0,00 1,00
1
0
0
ARS= 0,132;
sig=0,000

0,47 0,00 1,00
3
0
0
ARS= 0,219;
sig=0,000
0,27 0,00 1,00
5
0
0
ARS= 0,103;
sig=0,000
0,51 0,00 1,00
2
0
0
ARS= 0,168;
sig=0,000


Hàng
xóm

hội

Dự báo yếu tố Gia đình
Trong khảo sát nghiên cứu về tái hòa nhập của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD thì gia đình, đặc biệt là mối quan hệ với gia đình ảnh
hưởng đến thích ứng tâm lý chung và cả ba thành phần của thích ứng tâm lý với p đều
có ý nghĩa về mặt thống kê (sig < 0,001). Tuy nhiên, mỗi biểu hiện lại có sự ảnh
hưởng riêng đến từng thành phần khác nhau. Theo đó, sự động viên, an ủi của gia đình
để “gia đình giúp tơi có việc làm” đối với người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa
vào TGD có khả năng dự báo giúp cho họ thích ứng tâm lý. Với Bêta = 0,427;
sig=0,000 là dự báo sự tác động của gia đình đến thích ứng tâm lý chung, tuy nhiên
vẫn thấp hơn so với dự báo tác động đến thích ứng về mặt hành vi với Bêta= 0,473 và
sig= 0,000, tiếp theo là tác động đến thích ứng về thái độ (Bêta=0,363), cuối cùng là
tác động đến thích ứng về nhận thức có Bêta=0,214.. Đây là biểu hiện có mức dự báo
tới thích ứng về hành vi cao nhất trong các biểu hiện.
Dự báo yếu tố Hàng xóm
Dữ liệu nghiên cứu ở bảng 3.16a cho thấy yếu tố hàng xóm và các mối quan hệ
với bạn bè cho thấy khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý của người chấp hành xong
biện pháp XLHC đưa vào TGD với tái hòa nhập cộng đồng theo chiều thuận với
Bêta>0 và sig<0,005.
Dự báo yếu tố xã hội
Dữ liệu nghiên cứu ở bảng 3.16b cho thấy yếu tố xã hội (Chính quyền và các tổ
chức xã hội) có khả năng dự báo tới cả thích ứng tâm lý chung và ba thành phần thích
ứng tâm lý của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với cuộc sống ở
địa phương và đều tác động theo chiều thuận thể hiện ở chỉ số sig có ý nghĩa thống kê
đều =0,000 và Bêta lần lượt là 0,478; 0,301, 0,371 và 0,512.

Các yếu tố thuộc về khách quan tác động tới thích ứng tâm lý với tái hịa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
Bảng 3.16b. Dự báo các yếu tố thuộc về khách quan
Nhân
tố
Gia

Thích ứng chung
Bêta
Sig
VIF
0,290 0,000 1,161

Mặt Nhận thức
Bêta
Sig
VIF
0,137 0,004 1,161

21

Mặt Thái độ
Bêta
Sig
VIF
0,256 0,001 1,161

Mặt Hành vi
Bêta
Sig

VIF
0,320 0,000 1,161


đình
Hàng
xóm
Xã hội

0,017

0,004

1,034

0,370 0,000 1,161
R2= 0,129;sig=0,004;
DW=1,611

0,179

0,001

1,034

0,279 0,000 1,161
R2= 0,118; sig=0,004;
DW=1,589

0,080


0,002

1,034

0,265 0,001 1,161
R2= 0,189; sig=0,002;
DW=1,600

0,104

0,000

1,034

0,379 0,000 1,161
R2= 0,256;sig=0,000;
DW=1,644

Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương ( R2) là 0,129 và sig,
0,004. Cả 3 yếu tố thuộc về khách quan đều có tác động theo chiều thuận đến thích
ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD với giá trị
tương ứng của Bêta>0 . Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về khách quan tác động đến
thích ứng tâm lý chung của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD là
R2=0,129 và sig= 0,004 đều là những giá trị có ý nghĩa thống kê. Kiểm tra giá trị VIF đều
< 2 tức là khơng có hiện tượng đa cộng tuyến.
Các yếu tố thuộc khách quan dự báo tác động thích ứng tâm lý về mặt nhận
thức.
Nhìn vào bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương ( R2) thích ứng nhận
thức đạt 0,118 và sig= 0,004 điều này cho thấy mơ hình hồi quy tuyến tính này phù

hợp với tập dữ liệu của mẫu và các số liệu thu được có ý nghĩa về mặt thống kê. Khi
thu được kết quả bảng 3.16b tác giả đã phải loại bỏ bớt một số biến trong các yếu tố
khơng có tác động dự báo biến phụ thuộc về mặt nhận thức.
Như vậy nhìn vào trên ta thấy cả 3 yếu tố đều có tác động theo chiều thuận đến
thích ứng tâm lý về mặt nhận thức. Cụ thể yếu tố chính quyền có ảnh hưởng nhiều
nhất với Bêta= 0,279 và sig= 0,000 tức là yếu tố chính quyền tăng/giảm 1 đơn vị thì
thích ứng tâm lý về nhận thức tăng/giảm 2,79 đơn vị; tiếp theo là yếu tố hàng xóm
tăng/giảm 1 đơn vị thì thích ứng tâm lý về nhận tăng/giảm 1,79 đơn vị; biến là Gia
đình khả năng dự báo có ý nghĩa thống kê đối với biến phụ thuộc là thích ứng về mặt
nhận thức theo tỉ lệ 1: 1,37 đơn vị. Như vậy các yếu tố thuộckhachs quan đều có khả
năng dự báo thích ứng về mặt nhận thức với tái hòa nhập cộng đồng của
NCHXBPXLHC đưa vào TGD.
Các yếu tố thuộc khách quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý về mặt thái
độ.
Với bảng trên ta thấy hệ số Phương sai bình phương ( R2) thích ứng thái độ là
0,189 và sig= 0,002 biến thiên của biến phụ thuộc thích ứng về mặt thái độ được giải
thích bởi các biến nhân tố độc lập. Điều này cho thấy mơ hình hồi quy tuyến tính này
phù hợp với tập dữ liệu của mẫu. Thích ứng về mặt thái độ đạt đến độ chặt.
Với hệ số tự tương quan (DW) là 1,600 tra trong bảng với n=10, k=3 ta có dL=
0,340 và dU = 1,733 vì Tự tương quan DW= 1,600 như bảng trên thì 0,340< 1,600<
1,733. Điều này phù hợp với R 2 ở trên. Với DW=1,600 là biến độc lập có ảnh hưởng
nhưng khơng quyết định được biến độc lập.
Các yếu tố thuộc khách quan dự báo ảnh hưởng thích ứng tâm lý về hành vi.
Hệ số Phương sai bình phương (R2) là 0,256 và sig= 0,000 điều này cho biết
các giá trị thu được có ý nghĩa về mặt thống kê, biến thiên của biến phụ thuộc thích
ứng về mặt hành vi được giải thích bởi các biến nhân tố độc lập.
Với hệ số tự tương quan DW=1,644 là biến độc lập có ảnh hưởng nhưng không
quyết định được biến phụ thuộc.

22



Kiểm tra giả định hiện tượng đa cộng tuyến thông qua giá trị của hệ số phóng
đại phương sai VIF tất cả các yếu tố đều nhỏ hơn 2 chứng tỏ khơng có hiện tượng đa
cộng tuyến.
3.2.3. Tổng hợp mơ hình dự báo các yếu tố tác động đến thích ứng tâm lý với
tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa
vào trường giáo dưỡng
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở trên về các yếu tố dự báo thích ứng tâm lý
với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD
có thể tổng hợp ở bảng 3.17 dưới đây:
Nhân
tố
Trầm
cảm
Nhận
thức
Hành
vi tích
cực
Mặc
cảm
Gia
đình
Hàng
xóm
Xã hội

Mặt Nhận thức
Bêta

Sig
VIF
-0,23 0,000 1,154

Bảng 17. Tổng hợp mơ hình dự báo
Mặt Thái độ
Mặt Hành vi
Bêta
Sig
VIF
Bêta
Sig
VIF
-0,11
0,001 1,154 -0,24 0,003 1,154

Thích ứng chung
Bêta
Sig
VIF
-0,26 0,004 1,154

-0,27

0,002

1,234

-0,10


0,001

1,234

-0,12

0,004

1,234

-0,16

0,002

1,234

0,35

0,000

1,637

0,22

0,002

1,637

0,26


0,000

1,637

0,32

0,000

1,637

-0,17

0,001

1,522

-0,19

0,002

1,522

-0,15

0,002

1,522

-0,18


0,004

1,522

0,18

0,001

1,584

0,11

0,001

1,584

0,15

0,002

1,584

0,18

0,002

1,584

0,26


0,000

1,493

0,24

0,004

1,493

0.11

0,000

1,493

0,19

0,002

1,493

0,22 0,002 1,569
R2= 0,33;sig= 0,000;
DW=1,561

0,23 0,002 1,569
R2= 0,33; sig=0,000;
DW=1,664


0,33 0,000 1,569
R2= 0,49; sig=0,000;
DW=1,511

0,32 0,000 1,569
R2= 0,49; sig=0,000;
DW=1,531

Kết quả cho thấy cả 7 yếu tố của mơ hình đa biến đều có ý nghĩa thống kê với
sig =0,000(< 0,005). Các yếu tố thuộc về chủ quan cá nhân như Trầm cảm, mặc cảm,
nhận thức hay hành vi tích cực đến các yếu tố thuộc về khách quan như việc Gia
đình, hàng xóm, xã hội đều có khả năng dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hịa nhập
cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.
Cụ thể dữ liệu nghiên cứu cho thấy các yếu tố thuộc về khách quan cá nhân có tác
động tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện
pháp XLHC đưa vào TGD mạnh hơn là các yếu tố thuộc về chủ quan. Các giá trị Bêta
dương tức là tương quan biến đổi theo chiều thuận thể hiện ở các yếu tố hành vi tích cực;
gia đình; hàng xóm và xã hội; các yếu tố Trầm cảm; mặc cảm và nhận thức có Bêta < 0
tức là tác động ảnh hưởng theo chiều nghịch. Điều này mới thấy sự tác động lẫn nhau
giữa các nhân tố trong quá trình tác động đến các biến phụ thuộc nghiên cứu. Với người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD những tác động từ môi trường sống
có ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống nói chung và tái hịa nhập nói riêng của họ.
3.3. Nghiên cứu trường hợp thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường Giáo
dưỡng
3.3.1. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ cao.
3.3.1.1. Mô tả trường hợp.
Họ và tên: N.T.T. (tên được giấu); Năm sinh: 2001
Quê quán: xã Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên


23


Thời gian chấp hành ở TGD: 24 tháng
Thời gian đã về địa phương sinh sống: 3 năm 3 tháng
ĐTB tự đánh giá thích ứng tâm lý: 3,62/4,00 điểm
Kinh tế gia đình: Đủ ăn
Đang sinh sống tại Hà Nội
N.T.T đang là nhân viên làm việc tại chuỗi cửa hàng KOTO tại Hà Nội. T được
đào tạo và giao nhiệm vụ là nhân viên chạy bàn tại Nhà hàng số 59- Văn Miếu, Hà
Nội. Năm 2015, N.T.T nhận quyết định Xử phạt hành chính đưa vào TGD của Tịa án
nhân dân huyện Đại Từ, Thái Nguyên với hành vi vi phạm là Trộm cắp tài sản. Kết
quả tự đánh giá về thích ứng tâm lý cho thấy những ĐTB cụ thể sau: Kết quả tự đánh
giá về thích ứng tâm lý từng thành phần cụ thể sau: thích ứng về nhận thức: ĐTB là
3,74; thích ứng về thái độ: ĐTB là 3,62; thích ứng về hành vi: ĐTB là 3,50. Nói về
N.T.T, anh P.A.T- Giám đốc trung tâm KOTO cho biết: "đặc thù của việc học và thực
hành nghề ở đây là hàng ngày tiếp xúc với đủ các thành phần trong xã hội, họ lại là
“thượng đế” của chúng tôi nên địi hỏi phải làm cho khách hàng hài lịng, đó là cam
kết và chát lượng để chúng tôi tồn tại được và N.T.T đã phần nào làm tôi yên tâm về
sự tự giác trong làm việc: nghiêm túc, đúng mực mặc dù lúc đầu phải nhắc nhở đôi
chút. Tôi rất hài lòng về em.
3.3.1.2. Đánh giá trường hợp
Trường hợp N.T.T. là trường hợp tiêu biểu của sự thích ứng tâm lý với tái hòa
nhập cộng đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ở mức tốt
xuất phát từ việc nhận thức đúng đắn vị trí của mình và những điều cần phải làm trong
các mối quan hệ mới. Từ đó T tìm cho bản thân mình cách để cân bằng cảm xúc bản
thân, hình thánh thái độ phù hợp như khơng có thái độ và cảm xúc tiêu cực, hạn chế
được những xúc cảm âm tính và yên tâm học tập để làm lại từ đầu. Chính vì vậy, T tạo
được niềm tin cho mọi người về sự tiến bộ và phù hợp với cuộc sống hiện tại
3.3.2. Trường hợp thích ứng tâm lý ở mức độ thấp

3.3.2.1. Mô tả trường hợp
Họ và tên: C.T.P (tên được giấu); Năm sinh: 2002
Quê quán: Phường Vệ An, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
Thời gian vào TGD: 24 tháng
Thời gian đã về địa phương sinh sống: 9 tháng.
Điều kiện kinh tế gia đình: Đủ ăn
ĐTB tự đánh giá thích ứng đạt: 1,95 (với các điểm thành phần từng biểu hiện
là: thích ứng về nhận thức ĐTB đạt 2,13; thích ứng về thái độ ĐTB đạt 1,80; thích ứng
về hành vi ĐTB đạt 1,92)
C.T.P chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD ngày 27/1/2019. Hoàn
cảnh của P rất đặc biệt: Bố chết, mẹ bỏ đi lấy chồng và ở bên nước ngồi khơng có
thơng tin. Ở với bà ngoại từ nhỏ; năm 2015 bà ngoại mất, khơng có người thân thích
ni dưỡng em bỏ nhà đi lang. Trong quá trình học tập và rèn luyện tại TGD số 2
Ninh Bình, P khơng có bất kỳ người thân nào đến thăm gặp. Nghiên cứu hồ sơ, trao
đổi với P chúng tôi biết em bị bắt vào TGD về hành vi tham gia đánh bạc đánh bạc bị
bắt quả tang. Quan sát P trong quá trình sinh sống tại địa phương chúng tôi nhận thấy
em là một người khá giảo hoạt trong giao tiếp và nhanh nhạy trong ứng xử. Các biểu

24


hiện thích ứng kém của P trong q trình sinh sống ở địa phương chủ yếu là thích ứng
kém với thực hiện nội quy của địa phương và được mô tả như sau:
3.3.2.2. Đánh giá trường hợp
Trường hợp C.T.P tiêu biểu cho sự thích ứng tâm lý kém với cuộc sống ở địa
phương. Do mới về địa phương chưa đến 1 năm nên có thể P chưa biết cách kiểm sốt,
tiết chế những nhu cầu, sở thích cá nhân cũng như thay đổi lối sống, cách sinh hoạt
cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình và đáp ứng với u cầu của nội quy ở địa
phương. Chính vì vậy, P đã vi phạm nội quy ở địa phương và bị cán bộ địa phương
nhắc nhở, giáo dục riêng nhưng chưa có sự thay đổi rõ rệt.

Trường hợp C.T.P đã cho thấy sự mất cân bằng tâm lý giữa những mong muốn,
nhu cầu, cảm xúc của cá nhân với những yêu cầu, quy định bắt buộc phải thực hiện
đối với một công dân làm nảy sinh những hành vi chống đối cộng đồng, vi phạm nội
quy.
Tiểu kết chương 3
Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, chúng tôi rút ra một số kết
luận chính như sau:
Phần lớn người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích ứng ở
mức độ trung bình với các quy định của địa phương. Điều này thể hiện ở cả ba khía
cạnh nhận thức, thái độ và hành vi. Trong đó, người chấp hành xong biện pháp XLHC
đưa vào TGD có mức điểm thích ứng tâm lý với tái hịa nhập cộng đống về mặt nhận
thức cao hơn so với điểm của thích ứng về mặt thái độ và hành vi. Kết quả này cho
thấy người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD chưa thực sự chấp nhận
những yêu cầu của cộng đồng xã hội nơi họ sinh sống do đó ở họ chưa hồn tồn có
sự thay đổi về nhận thức, thái độ và hành vi của bản thân để phù hợp với yêu cầu
chuẩn mực xã hội. Mặc dù người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD đã
có sự thích ứng tâm lý nhưng bản thân họ vẫn chưa thực sự chấp nhận làm theo và
thực hiện theo những quy định của địa phương một cách chủ động và tích cực.
Sự tương quan giữa các khía cạnh của thích ứng tâm lý diễn ra theo chiều thuận
và với mức độ tương quan từ tương quan trung bình đến tương quan chặt.
Các yếu tố dự báo tới thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng của người
chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thể hiện ở một số yếu tố gắn với cá
nhân và yếu tố gắn với mơi trường sống. Trong đó, yếu tố gắn với mơi trường sống
(gia đình) có khả năng dự báo mạnh mẽ nhất tới thích ứng về nhận thức.
Kết quả nghiên cứu từ phần nghiên cứu 2 trường hợp điểm hình cung cấp thêm
thơng tin về chân dung người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD thích
ứng cao và thích ứng thấp với tái hịa nhập cộng đồng. Từ đây cho thấy cái nhìn sâu
sắc hơn về các khía cạnh khác nhau của thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng đồng
của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD.

KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ TÂM LÝ HỌC
1. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thích ứng tâm lý với tái hòa nhập cộng
đồng của người chấp hành xong biện pháp XLHC đưa vào TGD, có thể rút ra một số kết luận
như sau:
1.1. Về lý luận

25


×