Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trước và sau đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.75 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ THƠNG TIN
🙤🙤🙤🙤🙤

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
Đề tài : Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trước và sau đổi mới

Môn học: Lịch sử Đảng
Lớp: SS010.L22
Giảng viên: Trần Thị Châu
Sinh viên thực hiện: Vũ Phú Thành
MSSV: 19522247

TP.HCM, Tháng 8 năm 2021
MỤC LỤC


2


LỜI MỞ ĐẦU
Trước đổi mới, Việt Nam phát triển nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp. Cơ chế kinh tế này dần để lộ ra nhiều khuyết điểm đẩy nước ta vào tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội. Trước tình thế khó khăn này, Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng trở
thành một yêu cầu cấp thiết. Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa được hình thành
là một bước sáng tạo, đột phá lý luận lớn của Đảng ta. Sự lựa chọn đổi mới này là một bước
ngoặt trong con đường phát triển của toàn dân tộc, đưa nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Tư duy đổi mới kinh tế của Đảng đã trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển nhưng
vẫn khơng ngừng chứng minh được vai trị quan trọng của mình trong phát triển đời sống, xã
hội. Xây dựng chủ nghĩa xã là một q trình lâu dài và hồn tồn khơng hề đơn giản, vì vậy bản
thân của mỗi cá nhân đều phải tìm hiểu thật rõ con đường mà cả Đảng và nhân dân ta đã lựa


chọn. Trước tình hình hội nhập trên toàn thế giới, việc hiểu biết về tư duy kinh tế của Đảng
trước và sau đổi mới là một yêu cầu cần thiết.
Bài tiểu luận phân tích sự khác nhau của tư duy kinh tế trước và sau đổi mới. Từ đó,
khẳng định sự đúng đắn của Đảng trong con đường đổi mới và ảnh hưởng của tư duy kinh tế
mới trong thời đại hiện nay. Cuối cùng là để bản thân sinh viên có thể củng cố kiến thức mà
mình đã được học.
Với khả năng và thời gian có hạn nên khơng thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong
được sự quan tâm, giúp đỡ và thơng cảm của cơ để em có thể hồn thiện hơn về đề tài của mình.
Sinh viên thực hiện
Vũ Phú Thành

3


Chương 1: Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trước đổi mới
1.1.Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới
1.1.1.Bối cảnh
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu bao cấp. “Chế độ bao cấp” đã tồn tại ở miền Bắc dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
từ trước năm 1975. Nhưng “thời kỳ bao cấp” thì được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước
Việt Nam từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986 – sau khi miền Nam được giải phóng.
1.1.2.Đặc điểm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên
hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Nhà nước xây dựng các chỉ tiêu
một cách chủ quan, cấp phát vốn, vật tư, phương hướng sản xuất, định giá sản phẩm, tổ chức bộ
máy, nhân sự, tiền lương, … sau đó giao xuống cho các doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện. Các
doanh nghiệp chỉ quan tâm đến một vấn đề duy nhất là hoàn thành chỉ tiêu được đề ra.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp. Những thiệt hại vật chất do các quyết định của cơ quan hành chính gây
ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp khơng có quyền tự chủ sản xuất,

kinh doanh, cũng khơng bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh. Nhà
nước chỉ coi trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, dẫn tới việc hạn chế phát triển và đóng
góp của nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu. Giá cả không tuân theo quy luật cung - cầu. Tiền lương quy định theo cấp bậc hành chính
và thâm niên, chia đều theo bình qn, không phản ánh được hiệu quả lao động của từng người.
Nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng
không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động, vừa sinh
ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.
1.1.3.Các hình thức chủ yếu của chế độ bao cấp
Bao cấp qua giá, Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn
giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức, tính
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp giảm, từ đó dẫn tới việc sụt giảm khả năng sản xuất.

4


Bao cấp qua tem phiếu, Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho
cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá
khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành hiện vật. Người làm được nhiều
cũng được hưởng chế độ như người làm được ít, làm giảm động lực của người lao động và phá
vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng khơng có sự kiểm sốt quy
trình sản xuất, các chế tài rằng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp phát
vốn. Điều này vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu
quả, nảy sinh cơ chế “xin - cho”.
1.1.4.Đánh giá
Dưới thời bao cấp, hàng hóa được phân phối chủ yếu dựa vào hệ thống tem phiếu làm

cho giá trị của đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Nếu lấy đồng lương năm 1975 làm chuẩn thì số
tiền đó năm 1980 là 51.1% và đến năm 1984 thì cịn 32.7%. Thị trường tự do bị xem là bất hợp
pháp nên có hàng hóa lưu thơng ở thị trường chợ đen và giá rất cao.
Nhà nước chưa nhận thức được sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên kế hoạch hóa
là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế XHCN. Nhà nước muốn nhanh chóng xóa bỏ sở
hữu tư nhân, kinh tế cá thể và không chấp nhận nhiều thành phần kinh tế.
Ưu điểm của cơ chế quản lí kế hoạch hóa tập trung, đáp ứng được yêu cầu của thời chiến
vì đất nước còn bị xâm lược, nhà nước thực hiện bao cấp hồn tồn sẽ giúp cho người lính n
tâm chiến đấu.
Cho phép tận dụng tối đa các nguồn lực kinh tế và các mục tiêu chủ yếu trong từng giai
đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển
cơng nghiệp nặng.
Nhược điểm, từ nhiều các phân tích nêu trên, có thể thấy rõ ràng được những yếu điểm
của nền kinh tế cũ. Dưới thời kì của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, việc nhà nước chú trọng
phát triển công nghiệp nặng để xây dưng nền tảng cho nền kinh tế, trong khi công nghiệp nhẹ
và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức nên đã gây ra lãng phí lớn các nguồn lực.
Chế độ bao cấp đã làm cho cán bộ, cơng chức của các cơ quan hành chính trở nên quan
liêu, lộng hành. Thủ tiêu động lực kinh tế đối với người lao động và làm kìm hãm sự tiến bộ của
khoa học công nghệ.

5


Kết luận, tình hình kinh tế trước đổi mới của nước ta có nhiều bất cập, làm cho đất nước
lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội. Việc đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường là
một yêu cầu khách quan của thời đại.

6



Chương 2: Đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường của Đảng
2.1.Khủng hoảng kinh tế
Nguyên nhân khách quan, do xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản
xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh;
hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh ở biên giới ở hai đầu
đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới.
Nguyên nhân chủ quan, do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định
mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa,
trong lĩnh vực phân phối, lưu thơng; duy trì q lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; bng
lỏng chun chính vơ sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn của địch.
Không thể phủ nhận tổng kết 10 năm từ năm 1975 – 1986, Đảng ta đã nhiều những thành
tựu nổi bật như: Thực hiện thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt
được những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tuy nhiên cũng đã có những sai lầm, khuyết điểm làm cho đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế-xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và khơng ổn định; nền kinh tế ln trong tình
trạng thiếu hụt, khơng có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô lập, đời
sống nhân dân hết sức khó khăn, lịng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm
trọng.
Trước những áp lực của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng hoảng KT – XH, thay
đổi nhận thức, cải tiến về nền kinh tế thị trường là một xu hướng tất yếu của Đảng và Nhà nước.
2.2.Bối cảnh
Tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, tháng 6 – 1985, Hội nghị đã
quyết định: “Phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ
tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả”.
Trải qua nhiều kì Đại hội, Đảng ta đã có những thay đổi lớn về mặt nhận thức và suy
nghĩ về nền kinh tế thị trường.
2.3.Tư duy của của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới

2.3.1.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến đại hội VIII
Ở thời kỳ này, Đảng ta đã có những nhận thức căn bản và sâu sắc hơn về nền kinh tế thị
trường.

7


Thứ nhất, Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của CNTB mà là thành tựu
chung của nhân loại. Trao đổi hàng hóa là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị
trường, thị trường giữ vai trị là một cơng cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu đời, có mầm mống từ thời kì chiếm hữu nơ lệ,
hình thành trong XHPK và phát triển mạnh trong XHTB.
Nếu so sánh kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường thì cả hai đều cùng bản chất nhằm sản
xuất ra hàng hóa để bán nhằm mục đích giá trị; trao đổi thơng qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ;
dựa trên cơ sở phân cơng sức lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất. Nhưng nền kinh tế thị trường lại ở một trình độ phát triển cao hơn, lấy khoa học công
nghệ hiện đại làm cơ sở và có nền sản xuất được xã hội hóa cao.
Thứ hai, Kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Kinh tế thị trường có thể coi là một kiểu tổ chức, phương thức vận hành nền kinh tế, lấy cơ chế
thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với
người.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của nhân loại nên nó tồn tại ở nhiều phương thức
sản xuất khác nhau. KTTT chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp chứ không đối lập với
chế độ xã hội. Xây dựng KTTT khơng có nghĩa là phát triển CNTB và tất nhiên XDCNXH
cũng không phải là phủ định nền kinh tế thị trường.
Đại Hội VII, tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng thành phần kinh tế vừa cạnh tranh,
vừa hợp tác, cơ chế vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là cơ chế thị trường có sự
quản lí của nhà nước, bằng pháp luật, kế hoạch và các công cụ khác. Cơ chế này cho phép các
đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong tổ chức SX, Kinh doanh, Quan hệ bình đẳng, Quan hệ hợp
tác cạnh tranh hợp pháp, Liên doanh tự ngun, Thị trường có vai trị trực tiếp hướng dẫn các

đơn vị kinh tế.
Đại hội VIII, tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN.
Thứ ba, vì là một tồn tại khách quan trong thời kì q độ nên có thể và cần thiết sử
dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta.
Khi lấy kinh tế thị trường làm cơ sở để phân bố các nguồn lực kinh tế thì nền kinh tế sẽ
có những đặc điểm sau: Các chủ thể kinh tế có tình độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh, lỗ lại tự chịu. Giá cả do quy luật cung cầu điều tiết, thị trường phát triển đồng
bộ và hoàn hảo. Nền kinh tế thị trường có tình mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của nền
KTTT như quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh, … Cuối cùng là có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước.
8


Kết luận, CNTB không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế thừa và khai thác hiệu
quả các lợi thế của nó để phát triển. Ta muốn xây dựng thành công CNXH cũng phải biết khai
thác và dùng nó làm phương tiện để thành cơng.
Thành tựu, sau 10 năm đổi mới đất nước từ 1986 – 1996, Việt Nam đã thốt khỏi tình
trạng khủng hoảng nặng nề, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, công cuộc xóa đói giảm
nghèo đạt được những thành tựu to lớn. Lạm phát được đẩy lùi hơn 70% (1986) xuống 12%
(1995) và được kiểm soát chặt chẽ cho tới nay. Tổng sản phẩm quốc nội thời kỳ 1992 – 1997
tăng bình quân 8.75% năm. GDP năm 2000 gấp hơn 2 lần năm 1990. Xuất khẩu đạt mức tăng
trưởng hơn 20% năm.
2.3.2.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến đại hội X
Đại hội IX (4.2001), xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH, là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây được coi là một bước chuyển nhận thức rất quan trọng của Đảng ta: từ chỗ coi
KTTT chỉ như một cơng cụ, phương tiện, cơ chế quản lý thì nay đã coi KTTT là một chỉnh thể,
là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của CNXH. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của thị trường được sử dụng để phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Tính định
hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên cả ba mặt của QHSX là sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối. Nhằm mục đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn
minh, có kỉ cương, phép nước; xóa bỏ mọi áp bức bất cơng và tạo điều kiện cho mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cần phải nhận thức rõ một điều rằng nói KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa thì chắc
chắn đó khơng phải là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung; cũng khơng phải là nền kinh tế thị
trường TBCN và cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường XHCN (vì chưa có đầy đủ các
yếu tố XHCN).
Tính định hướng XHCN của ta làm nền kinh tế khác với kinh tế thị trường TBCN. Tại
Đại hội IX đã đưa ra 4 tiêu chí của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là:
Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng,
dân chủ, văn minh. Giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân. Đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người cùng vươn lên làm
giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và cùng khá giả hơn. Phát triển kinh tế để
9


nâng cao đời sống cho mọi người, ai cũng được hưởng thành quả và lợi ích từ thành quả phát
triển. Điều này khác về cơ bản với CNTB lấy lợi nhuận là mục đích và vì lợi ích của các nhà tư
bản.
Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong thành phần kinh tế trong mỗi
cá nhân và các vùng miền, phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Tuy vậy cần
phải xác định kinh tế nhà nước là chủ đạo, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng XH ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; Tăng cường kinh tế gắn chặt chẽ và đồng bộ với

phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo; Giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người; Hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Trong lĩnh vực phân phối,
định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát
triển chúng ta còn thực hiện phân phối đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lí: Nhà nước đảm bảo phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân; đảm
bảo vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản
chủ nhĩ với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Hạn chế mặt tiêu cực và đảm bảo phát huy
quyền lợi chính đáng của mọi người.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội X khẳng
định“ Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế”. Bao gồm: kinh tế nhà nước, tập thể, tư bản nhà nước và có
vốn đầu tư từ nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế TT định hướng XHCN.
Thành tựu, Năm 2000 – 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7.5%. Từ một nước thiếu ăn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu
gạo lớn trên thế giới, đời sống nhân dân được cải thiện. Hàng loạt các Luật được ban trong
nhiều lĩnh vực. Quan hệ ngoại giao được mở rộng và phát triển.
Kết luận, trong nhiều năm đổi mới, Đảng ta đã khơng ngừng cố gắng thực hiện hồn
thành những mục tiêu đề ra là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Đổi mới là một q trình phức tạp, có nhiều q trình, giai đoạn, nhưng chúng ta đã hình
thành được những nét cơ bản và hoàn thiện. Khẳng định sự đúng đắn trong đường lối đổi mới
của kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng và nhân dân ta.

10


2.4.Tiếp tục xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

2.4.1. Thách thức
Trong giai đoạn thời kỳ công nghệ 4.0 và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì nền
kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi cũng như là những khó khăn lớn. Một số các
khó khăn có thể kể đến như về năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp, những bất cập
của thực tiễn cuộc sống, yêu cầu Việt Nam phải có những bước đi vững chắc, hồn thiện hơn về
thể chế KTTT XHCN. Trong đó, vai trị kiến tạo của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế
tư nhân sẽ là những trụ cột để tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế quốc gia.
2.4.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Một số chủ trương để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
được đưa ra như.
Thống nhất nhận thức: xác định rõ nền kinh tế của nước ta vừa tuân theo quy luật của
KTTT vừa chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế của CNXH. Nghiên cứu, xem xét để áp dụng
nhiều hơn, hiểu đầy đủ hơn những quy luật, những giá trị chung của thể chế kinh tế thị trường –
một thành tựu chung của nhân loại vào nền kinh tế của chúng ta, nhằm tạo ra sự thuận lợi phát
triển của nền kinh tế trong nước.
Hoàn thiện thể chế về sở hữu các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp các tổ chức
sản xuất kinh doanh; vì KTTT định hướng XHCN dựa vào sự tồn tại khách quan nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp nên trong tư cách pháp lý
phải được định hình rõ để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ sở hữu.
Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại
thị trường: hoàn thiện về thể chế giá, cạnh tranh và kiểm sốt độc quyền trong kinh doanh; hồn
thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại; đầu từ và giải quyết tranh
chấp phù hợp với KTTT và cam kết quốc tế; đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa và dịch
vụ theo hướng hiện đại; …
Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sắc phát triển và bảo vệ mơi trường.
Hồn thiện thể chế về vai trị lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước và sự tham gia của
các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

11



Chương 3: Tổng kết
3.1.Kết quả và ý nghĩa đạt được
Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành cơng từ thể chế kinh tế kế hoạch
hóa bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của
Đảng đã được thể chế hóa thành pháp luật, tọa hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN hình thành và phát triển.
Chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế được hình thành đan xen và hỗn
hợp. Trong đó, sở hữu tồn dân những tư liệu chủ yếu và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Điều này vừa tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng sức sản xuất, khơi gợi tiềm
năng trong và ngoài nước vào kinh tế - xã hội.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển trong cả nước và trên thế
giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đã đi vào cuộc sống thay cho cơ chế kế
hoạch hóa tập trung. Các doanh nghiệp, doanh nhân được tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh
tranh lành mạnh.
Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành
chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác.
Việc gắn phát triển kinh tế xã hội với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói giảm nghèo
đạt nhiều kết quả tích cực. Thể chế kinh tế mới đã đi vào cuộc sống và phát huy những hiệu quả
tích cực, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Tạo ra những tiền đề để thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển.
3.2. Thách thức
Bên cạnh các thành công đạt được, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cũng gặp nhiều thách thức mà yêu cầu toàn dân cùng cố gắng thực hiện sửa đổi. Một số vấn đề
có thể kể đến như: Hoàn thiện hệ thống luật pháp để ổn định kinh tế, kinh tế, xã hội; Nhà nước
cần phải khắc phục, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đối với đời
sống xã hội, ….

3.3. Tổng kết
Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế bao cấp đều có điểm giống nhau là chịu sự quản lý
của nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đóng vai trị chỉ đạo và điều tiết các
thành phần kinh tế hoạt động sản xuất, kinh doanh.

12


Mục tiêu cuối cùng của hai nền kinh tế đều mong muốn con người được phát triển toàn
diện, tạo ra một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.3.1.Kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
Nhà nước đưa ra chỉ tiêu pháp lệnh, yêu cầu các doanh nghiệp phải hoàn thành theo.
Đồng thời can thiệp quá sâu vào việc kinh doanh mỗi doanh nghiệp, lời lỗ nhà nước đều phải
chịu.
Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chế độ tem phiếu khác xa với giá thị trường làm
ảnh hưởng tới động lực kinh tế của mỗi cá nhân.
3.3.2.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đóng vai trị điều tiết, để các doanh nghiệp tự do phát triển theo
đúng quy định và pháp luật.Trong đó với đa dạng nhà cung cấp, nguồn cung cấp, tư nhân tham
gia vào sản xuất thương mại, lời lỗ các doanh nghiệp tự chịu; đồng thời khi tạo ra giá trị thì tư
dân phải có nghĩa vụ hồn thành thuế cho nhà nước.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa cịn được thể hiện ở chỗ chế độ cơng hữu giữ vai trò
nền tảng của nền kinh tế quốc dân với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Đồng thời, khi
phải triển nền kinh tế nhiều thành phần thì phát triển kinh tế nhà nước đóng vai trị điều tiết. Vì
vậy, các vị trí then chốt của nền kinh tế hay các lĩnh vực an ninh quốc phòng, nền kinh tế nhà
nước phải được củng cố và phát triển mà các thành phần kinh tế khác khơng có điều kiện để
thực hiện.

13



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD&ĐT (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, HN.
2. Trần Đức Hiếu, Lớp CQ55/11.04CLC Học viện Tài Chính (2021), Kinh tế thị trường

3.

4.
5.

6.
7.
8.
9.

hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, Link, Truy cập ngày
30/7/2021.
GS, TS Nguyễn Trọng Tuấn (2020), Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và vấn đề con người - tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát triển, Link, Truy cập
ngày 30/7/2021.
Quang Hưng (2020), Các kỳ Hội nghị Đại hội V của Đảng: Xóa bỏ quan liêu bao cấp
trong giá lương tiền – Văn kiện Đảng tồn tập, Link, Truy cập ngày 30/7/2021.
Trang thơng tin điện tử Hội Đồng Lý Luận Trung Ương, Đổi mới tư duy kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Link,
Truy cập ngày 30/7/2021.
Wikipedia, Thời bao cấp, Link , Truy cập ngày 30/7/2021.
VIETNAM123, Những đặc trưng kinh tế - xã hội của thời Bao cấp ở Việt Nam, Link,
Truy cập ngày 31/7/2021.
Trương Thị Hiển, Tạp chí phát triển nhân lực, số 1(27) – 2012, Một số vấn đề về đổi mới

tư duy kinh tế trong văn kiện đại hội XI của Đảng, Link, Truy cập ngày 31/7/2021.
Tài liệu đại cương, Trường ĐH. KHXH&NV, Lịch sử Đảng, Link, Truy cập ngày
1/8/2021.

14



×