1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm 60 của thế kỉ XX, nhắc đến châu Á là nhắc đến chiến tranh, nghèo
đói và lạc hậu. Tuy nhiên, một vài thập kỉ sau, cả thế giới phải trẩm trồ thán phục và thay
đổi cách nhìn về châu Á, khi “những con rồng” châu Á nổi lên bên cạnh Nhật Bản. Cục
diện đã hoàn toàn thay đổi: Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore đã trở thành những quốc
gia phát triển hàng đầu thế giới.
Trong khi đó, năm 2008 Việt Nam đặt bước chân đầu tiên vào nhóm những nước có
thu nhập trung bình, thoát khỏi tình trạng nghèo đói và kém phát triển. Mức thu nhập bình
quân cũng tăng nhanh trông thấy. Tuy nhiên những dấu hiệu của “bẫy thu nhập trung
bình” đã xuất hiện một cách hết sức rõ ràng. Vậy chúng ta làm thế nào để vượt qua bẫy và
không rơi vào tình trạng “chưa giàu thì đã già”.
Để có cái nhìn khách quan và đa chiều về “Bẫy thu nhập trung bình” cũng như cách
để vươn lên thành nước có thu nhập cao hơn nữa, nhóm tiểu luận chọn đề tài “Quá trình
vượt qua bẫy thu nhập trung bình của Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”
Bài tiểu luận gồm 03 phần chính:
Chương 1: Tổng quan về bẫy thu nhập trung bình
Chương 2: Nền kinh tế Hàn Quốc giai đoạn 1960 – 2017 và quá trình vượt qua bẫy
thu nhập trung bình của Chính phủ Hàn Quốc
Chương 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Với các phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê nghiên cứu nền kinh tế Hàn
Quốc giai đoạn 1960-2017 và những biện pháp mà Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng để
đưa Hàn Quốc vượt qua bẫy thu nhập trung bình, nhóm tiểu luận đối chiếu với hiện trạng
của Việt Nam và từ đó đề xuất những giải pháp tối ưu nhất.
Nhóm cũng rất mong nhận được những nhận xét mang tính xây dựng nhằm hoàn
thiện hơn nữa những nghiên cứu của nhóm về “Quá trình vượt qua bẫy thu nhập trung
bình của Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.
2
1. TỔNG QUAN VỀ BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH
1.1. Khái niệm bẫy thu nhập trung bình
Theo Indermit Gill, chuyên gia kinh tế trưởng của World Bank, Viện Brookings
(2007):”Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “bẫy thu nhập trung bình” là tình
trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền kinh tế đã đạt đến mức thu
nhập trung bình.
[1]
Các ngưỡng để phân loại các nền kinh tế được xác định vào đầu năm tài chính của
Ngân hàng thế giới vào tháng 7 và cố định trong 12 tháng với điều chỉnh lạm phát. Kể từ
ngày 1 tháng 7 năm 2018, các ngưỡng mới để phân loại theo thu nhập đó là:
Bảng 1: Ngưỡng phân loại các nền kinh tế
Ngưỡng
Thu nhập thấp
GNI/đầu người (theo USD)
<995
Thu nhập trung bình thấp
996 – 3.896
Thu nhập trung bình cao
3.896 – 12.055
Thu nhập cao
>12.055
Nguồn: World Bank (2018)
Theo giáo sư Kenichi Ohno của Viện nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản, bẫy
thu nhập trung bình là tình huống mà một quốc gia bị mắc kẹt tại mức thu nhập được
quyết định bởi một nguồn lực nhất định và lợi thế ban đầu, và không được vượt quá mức
[2]
thu nhập đó.
Có thể thấy rằng, có rất nhiều quan niệm khác nhau về “bẫy thu nhập trung bình”.
Tuy nhiên ta có thể hiểu đơn giản khái niệm về “bẫy thu nhập trung bình” đó là khi một
quốc gia thoát khỏi mức thu nhập thấp bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình,
nhưng trong một thời gian dài vẫn không thể vươn lên hàng các quốc gia có mức thu nhập
cao, các quốc gia phát triển.
[1] Gill Indermit S, 2007, East Asian Visions: Perspectives on Economic Development Unknown Binding,
trang 42
[2] Ohno Kenichi , 2009, Avoiding the Middle-income Trap: Renovating Industrial Policy Formulation in
Vietnam, Tạp chí kinh tế ASEAN, số 26, trang 25
3
1.2. Nguyên nhân sập bẫy thu nhập trung bình
Sau khi vượt ngưỡng thu nhập thấp, một quốc gia sẽ mất dần các lợi thế sẵn có và
các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI sẽ bắt đầu chuyển sang các nước kém phát
triển hơn nhưng có nhiều tài nguyên thiên nhiên hơn hoặc lao động giá rẻ hơn. Để tiếp tục
tăng trưởng, quốc gia đó sẽ phải hướng phát triển tới các ngành công nghiệp có hàm lượng
công nghệ và tính cạnh tranh cao, giúp nâng cao giá trị nội tại cho nền kinh tế. Tuy nhiên
[3]
việc này sẽ khó thực hiện vì một số nguyên nhân dưới đây :
•
Sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kích thích tăng trưởng kinh tế.
•
Nhân lực trong thời kỳ thu nhập thấp chủ yếu được khai thác ở phần thủ công mà
chưa được đào tạo về kỹ năng dẫn đến mặt bằng chung có chất lượng kém.
•
Nền tảng khoa học, công nghệ lạc hậu so với thế giới làm giảm năng suất lao động
và chất lượng hàng nội địa
•
Tiếp tục tình trạng của một nền kinh tế gia công: Nền kinh tế trong nước không đủ
sức tạo ra giá trị gia tăng mới để tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu, sự
thống trị của các tập đoàn mang thương hiệu nước ngoài.
•
Các nhà quản lý kinh tế vĩ mô ngộ nhận những thành quả đã đạt được, không có các
biện pháp, chính sách kịp thời, phù hợp với tình hình mới khi bước vào nhóm có thu
nhập trung bình.
•
Sự phân hóa thu nhập dẫn đến phân cực và bất ổn xã hội: Các khu vực nông thôn
ngày càng tụt hậu so với thành thị. Các dân tộc thiểu số tham gia rất ít vào quá trình
tăng trưởng chung.
•
Sự hủy hoại môi trường sống mà phải mất nhiều nguồn lực và thời gian để có thể
khắc phục được, kết cấu xã hội biến đổi trong thời gian quá ngắn dễ tạo ra nhiều
xung đột, tự tin thái quá của các tầng lớp dẫn dắt đến tâm lý đòi thưởng công trạng
biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm.
Trên thực tế, có nhiều nền kinh tế ở khu vực châu Á từ nghèo chuyển thành nước có
thu nhập trung bình, nhưng rất ít trong số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan, Hàn
Quốc. Philippines là một quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung
bình, nước này đã không thể vượt được ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên.
Indonesia cũng đã mất hơn một thập niên để cải thiện từ 1.000$ lên hơn 2.000
[3] Ohno Kenichi, 2009, Avoiding the Middle-income Trap: Renovating Industrial Policy Formulation in
Vietnam, Tạp chí kinh tế ASEAN, số 26, trang 32
4
USD/người. Thái Lan cũng đã mất hơn hai thập niên để vượt được con số 3.000 USD do
bất ổn kéo dài. Dấu hiệu nhận biết bẫy thu nhập trung bình
Giáo sư Kenichi Ohno (2014) đã phân tích 6 khía cạnh dùng để đánh giá liệu một
[4]
quốc gia đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay chưa, cụ thể như sau :
•
Thu nhập bình quân đầu người thấp.
•
Tăng trưởng kinh tê chậm biểu hiện ở sự tăng trưởng chậm lại của GDP.
•
Năng suất lao động thấp.
•
Thiếu hụt chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng nghĩa, nặng tính hình thức.
•
Không có sự cải thiện về chỉ số xếp hạng kinh tế.
•
Xuất hiện, nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến tăng trưởng như lạm phát, bong bóng
chứng khoán và bất động sản, tắc nghẽn giao thông, suy thoái môi trường, nợ xấu
của nhà nước…
Những dấu hiệu trên bao quát trên toàn bộ các lĩnh vực của một quốc gia như kinh
tế, chính trị cho đến văn hóa, môi trường. Cần lưu ý những dấu hiệu của bẫy thu nhập
trung bình trên để nhanh chóng đưa ra các giải pháp khắc phục kịp thời
1.3. Tác động của bẫy thu nhập trung bình lên nền kinh tế
•
Đối với nền kinh tế vĩ mô:
Thứ nhất là đối với khả năng tích lũy vốn của nền kinh tế. Khi quốc gia rơi vào bẫy
thu nhập trung bình, thu nhập bình quân giảm, làm giảm tiết kiệm nội địa dẫn tới mất khả
năng tích lũy vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, đất nước bị mất dần lợi thế cạnh tranh
trong việc thu hút FDI, không huy động được đủ vốn cần thiết cho tái xuất đầu tư và duy
trì đà tăng trưởng. Vay nợ và viện trợ có thể sẽ không khả thi do bị phụ thuộc về các mặt
kinh tế, chính trị, hoặc rơi vào tình trạng “lãi mẹ đẻ lãi con”. Do đó, khi một đất nước bị
rơi vào bẫy thu nhập càng lâu thì càng khó thoát khỏi nó.
Thứ hai, thu nhập thấp dẫn tới người lao động không có nhiều cơ hội được tiếp xúc
với giáo dục và đào tạo bài bản, trình độ lao động không được cải thiện. Thiếu hụt lao
động chuyên môn cao gây khó khăn với các ngành cần nhiều chất xám tạo giá trị gia tăng
lớn, chỉ được tiếp cận công nghệ lạc hậu mà không tạo được các sản phẩm mới mang tính
bứt phá, tạo động lực cho nền kinh tế.
•
Đối với các cá thể trong nền kinh tế:
[4] Ohno Kenichi, 2009, Avoiding the Middle-income Trap: Renovating Industrial Policy Formulation in
Vietnam, Tạp chí kinh tế ASEAN, số 26, trang 43
5
Nền kinh tế tăng trưởng thấp không đủ khả năng tạo việc làm và thu nhập cho người
dân, tạo thành một vòng luẩn quẩn. Tốc độ gia tăng các loại phí tăng nhanh hơn nhiêu so
với tốc độ tăng lương của lao động. Sự phụ thuộc vào các quốc gia khác, đặc biệt là vào
các khoản vay nước ngoài sẽ mang tới gánh nặng trả nợ lên vai người dân và doanh
nghiệp khiến tỷ lệ phá sản của doanh nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp và đói nghèo tăng cao. Thất
nghiệp gia tăng còn dẫn tới tệ nạn xã hội, bất ổn về chính trị. Khả năng hưởng thụ của con
người giảm, không được đảm bảo các điều kiện tối thiểu cho cuộc sống bình thường, bị
hạn chế các quyền tự do và quyền tiếp cận với hàng hóa công cộng như y tế, giáo dục,
nước sạch...
2. NỀN KINH TẾ HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1960 - 2018 VÀ QUÁ TRÌNH VƯỢT
QUA BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH
2.1. Bối cảnh nền kinh tế Hàn Quốc giai đoạn 1960 – 2018
Nền Hàn Quốc đã phát triển vượt bậc trong vòng mấy chục năm qua: có mức thu
nhập trung bình thấp năm 1969, đạt được mức thu nhập trung bình cao năm 1988, vươn
lên ngưỡng các nước có thu nhập cao năm 1996.
Biểu đồ1: GDP của Hàn Quốc so với Hồng Kông và Ấn Độ giai đoạn 1960 – 2017
Nguồn: World Bank (2018)
2.1.1. Giai đoạn 1960 đến 1979
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Hàn Quốc là một nước nghèo nàn, lạc hậu, đặc
biệt sau chiến tranh Nam – Bắc Triều Tiên kết thúc năm 1953, Hàn Quốc bị tàn phá nặng
nề, thu nhập bình quân đầu người khoảng 67 USD/năm.
6
Từ năm 1962 đến 1979, dưới thời Tổng thống Park Chung- hee cầm quyền, Hàn
Quốc bắt đầu bước vào một giai đoạn phát triển mới. Đây là giai đoạn Hàn Quốc xây
dựng kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, dựa vào khai thác thị trường thế giới và liên kết quốc tế. Để thực
hiện mục tiêu chiến lược kinh tế nêu trên, Chính phủ Park đã thực hiện một số biện pháp
sau:
Một là, mở rộng chức năng kinh tế của nhà nước và thực hiện cải cách hành chính,
trong sạch hoá bộ máy chính phủ.
Hai là, thực hiện kế hoạch hoá kinh tế bằng các kế hoạch kinh tế 5 năm, cụ thể:
[5]
Dưới thời tổng thống Park Chung- hee, với sự thành lập của EPB , các kế hoạch
hoá kinh tế mới trở thành hệ thống. Đó là các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1962-1966),
kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1967-1971), kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1972-1976), kế
hoạch 5 năm lần thứ tư ( 1977-1981). Trải qua hai thập kỷ xây dựng và phát triển quốc
gia, Chính phủ Park Chung-hee đã bước đầu đưa đất nước vượt qua khỏi cảnh nghèo nàn,
lạc hậu. Nền kinh tế luôn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao về GNP và GDP trong các
thời kỳ (trừ năm 1980 sau cái chết của Tổng thống Park, GNP giảm 5.2%, GDP giảm
3.2%). Tuy nhiên, nếu tính bình quân thì trong 15 năm, GNP tăng 19 lần và GDP cũng có
có sự gia tăng tương ứng. Cụ thể, về công nghiệp, tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao
đạt 13.5%/năm (1967-1971), 18.1%/ năm (1972-1976).
Bên cạnh những thành tựu kể trên, trong giai đoạn 1961-1979, Hàn Quốc cũng phải
đối mặt với những khó khăn thách thức đòi hỏi chính phủ phải có những biện pháp để
khắc phục như nền kinh tế phát triển thiếu cân đối trong các ngành sản xuất, nợ nước
ngoài tăng nhanh, các tập đoàn kinh tế lớn (Chaebol) do được chính phủ ưu tiên nên dễ
dẫn đến sự độc quyền về kinh tế và lấn át về chính trị, lạm phát gia tăng.
2.1.2. Giai đoạn 1979 đến nay
Kinh tế Hàn Quốc trong giai đoạn 1979 đến trước khi cuộc khủng hoảng tài chính
năm 1997 gồm các kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1982-1986), lần thứ sáu ( 1987-1991) và
lần thứ bảy ( 1992-1996). Nội dung chủ yếu của nền kinh tế Hàn Quốc trong giai đoạn này
được tập trung vào một số vấn đề sau: (1) Sự đổi mới về vai trò kinh tế của nhà nước và
cơ chế vận hành kinh tế. Tính chỉ huy trong kinh tế của chính phủ phải được loại bỏ và
thay vào đó là nhà nước phải hoạt động trong khuôn khổ của nền kinh tế thị trường; (2)
Kinh tế Hàn Quốc tiếp tục thực hiện kế hoạch hoá, đẩy mạnh việc tự do hoá thị trường,
[5] Econimics Planning Board – Hội đồng Hoạch định Kinh tế Hàn Quốc
7
hạn chế sự can thiệp của nhà nước; (3) Nhà nước có chính sách hỗ trợ và thúc đẩy bộ phận
công nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhằm khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu công
nghiệp và hướng hoạt động của các bộ phận này vào xuất khẩu; (4) Đẩy mạnh công
nghiệp bằng việc phát triển các ngành kỹ thuật- công nghệ cao của dân tộc nhằm thay thế
nguồn công nghệ nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển, gắn liền với việc đẩy mạnh
[6]
khoa học kỹ thuật đi vào chiều sâu phục vụ đắc lực cho tăng trưởng kinh tế .
Về thành tựu kinh tế: Hàn Quốc tiếp tục giữ được mức tăng trưởng GNP và GDP với
mức cao và ổn định, bình quân hàng năm 8.1%. Sản xuất kinh tế công nghiệp có sự phát
triển cao theo chiều sâu, bình quân tăng hàng năm là 12.6 %. Năm 1994, công nghiệp điện
tử chiếm vị trí thứ 5 thế giới.
Vào giữa những năm 1980, các tập đoàn Hàn Quốc như Hyundai, Samsung, LuckyGoldstar đã bắt đầu tiến hành những đợt lấn chiếm sâu vào thị trường Mỹ. GNP của Hàn
Quốc tăng lên với một tỉ lệ đáng kinh ngạc, đạt 11,6% vào năm 1986 và 12,5% vào năm
1987, cả hai năm đều giữ kỉ lục toàn cầu. Hàn Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn
thứ 7 của Mỹ và nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới. Nhưng chỉ một
thập kỉ sau đó, Hàn Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính hết sức tồi tệ. Tháng
4/1998, tỉ lệ thất nghiệp của Hàn Quốc tăng lên 8.5%, hơn năm trước đó 2.5%. Điều này
có nghĩa là khoảng 10.000 công nhân đang bị mất việc mỗi ngày. Tỉ lệ phá sản ở các
doanh nghiệp nhỏ tăng lên đến mức kỉ lục, ít nhất mỗi ngày có một chủ doanh nghiệp nhỏ
đã phải tự tử. Hàn Quốc đã bị tuột dốc từ nền kinh tế lớn thứ 11 xuống thứ 17 thế giới chỉ
trong vòng vài tuần.
Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, để cải thiện tính minh bạch, chính phủ đưa ra
những bản kê tài chính thống nhất mang tính bắt buộc cho những tập đoàn kinh tế lớn nhất
nhằm xác định giao dịch trong nội bộ công ty và các báo cáo kế toán riêng biệt. Chính phủ
cũng thay đổi Luật thương mại công bằng, hạn chế sự bảo lãnh nợ chéo giữa các công ty
trong các tập đoàn lớn, yêu cầu cải thiện cơ cấu vốn của các công ty, hạn chế việc mở rộng
quy mô tràn lan, khuyến khích các công ty tập trung phát triển những lĩnh vực nòng cốt,
có ưu thế nhất.
Những biện pháp trên đã giúp cải thiện việc quản lý và cơ cấu tài chính của các công
ty Hàn Quốc, tỉ lệ nợ của các công ty có trong danh sách cần thay đổi đã giảm từ 76,7%
năm 1997 xuống 43,5% năm 2006, trong khi vốn kinh doanh tăng từ 23,3% lên 56,5%
trong cùng thời kỳ.
[6] Han Seunghee, 2014, Operation of the economic planning board in the era of high economic growth
in Korea, Nhà xuất bản Seoul : KDI School of Public Policy and Management, trang 20
8
Bảng 2: Xu hướng tăng trưởng GDP của Hàn Quốc 1980 – 2005
Nguồn:World Bank (2006)
Trong tháng 7 năm 2018, tổng giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 51,4 tỷ USD, tăng
13,7% so với cùng kỳ năm 2017, giúp kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc lần đầu tăng
trong 9 tháng liên tiếp. Cùng với sự phục hồi của xuất khẩu, thị trường chứng khoán cũng
trên đà tăng tốc. Trong nửa đầu năm 2018, chỉ số thị trường chứng khoán Hàn Quốc
(KOSPI) đã vượt mốc 2.000 điểm từ lâu và không ngừng xác lập kỷ lục mới. Giá trị vốn
hóa của thị trường Hàn Quốc tính đến hết quý II đạt 1.540 tỷ USD, tăng 20,8% so với cuối
năm 2017, chỉ xếp sau chỉ số chứng khoán Ấn Độ với mức tăng là 25,6% và chỉ số Sàn
giao dịch chứng khoán Bombay (BSE) với mức tăng 25,0%.
2.2. Quá trình vượt qua bẫy thu nhập trung bình của Hàn Quốc
2.2.1. Giai đoạn 1960-1970
Bước vào giai đoạn đầu năm 1960 nền kinh tế Hàn Quốc phải đối mặt với vô vàn
khó khăn, nổi bật là Mỹ đã giảm dần nguồn vốn viện trợ không hoàn lại cho Hàn Quốc.
Mức độ tín nhiệm quốc gia của Hàn Quốc cũng ở mức thấp nên việc vay vốn trở nên khó
khăn, cơ sở hạ tầng bị tàn phá sau chiến tranh,…
Mặc dù đây là một giai đoạn khó khăn với đất nước Hàn Quốc, Chính phủ Hàn Quốc
đã có những bước đi biến nó trở thành giai đoạn tiền đề trong quá trình vượt qua bẫy thu
nhập trung bình của Hàn Quốc. Nhìn chung, giai đoạn này nổi bật với Kế hoạch phát triển
kinh tế của Chính phủ Hàn Quốc: Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (19621966).
Với Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962-1966), Hàn Quốc theo
đuổi mục tiêu công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu sử dụng lao động giá rẻ. Trọng tâm
chính sách trong Kế hoạch này là: (1) Tăng các nguồn năng lượng như điện than; (2) Tăng
thu nhập khu vực nông nghiệp và cải thiện sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế; (3) Xây
dựng các ngành công nghiệp lớn và cơ sở hạ tầng xã hội; (4) Sử dụng các nguồn lực nhàn
9
rỗi, gia tăng việc làm; (5) Cải thiện cán cân thanh toán thông qua xúc tiến xuất khẩu; (6)
Phát triển công nghệ.
Thành tựu lớn nhất của kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ nhất là tốc độ tăng trưởng
và tốc độ xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,8%/năm. Vượt qua mục tiêu ban
đầu là 7,1%/năm.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 44%/năm, gấp đôi mục tiêu đề ra nhờ
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp. Sơ lược kết quả được tóm tắt trong bảng
sau:
Bảng 3: Kết quả hoạt động xuất khẩu trong kế hoạch phát triển lần thứ nhất của Hàn Quốc
Chỉ tiêu
1962
1967
Tổng kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
55
320
Tỉ lệ xuất khẩu/GNP (%)
2,4
7,4
Tỉ trọng trên thị trường thế giới (%)
0,04
0,16
Cơ cấu xuất khẩu theo ngành (%)
Sản phẩm sơ cấp
63,0
27,5
Sản phẩm công nghiệp
27,0
72,5
Nguồn: IMF(2004)
Từ sự giúp đỡ tiền vốn của quốc tế, Hàn Quốc đã xây dựng hàng loạt tuyến đường
sắt, đường bộ đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo mạch máu lưu thông kinh tế của đất nước thuộc
vào hàng nghèo nhất thế giới bắt đầu nhịp đập cho sự phục hồi sau chiến tranh.
Với những chính sách đó, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc đã có những
thay đổi rất tích cực được thể hiện trong biểu đồ sau:
10
Biểu đồ 2: GDP/người của Hàn Quốc 1960-1970
Nguồn: World Bank (2000)
2.2.2. Giai đoạn 1970-1990
Tiếp sau giai đoạn của kế hoạch năm năm 1962-1966 Chính phủ Hàn Quốc đã tiếp
tục có những cải cách mạnh mẽ. Cùng với sự đồng lòng của nhân dân, Hàn Quốc đã trở
thành nước có thu nhập trung bình vào đầu những năm 1970.
Biểu đồ 3: GDP/người và tốc độ tăng trưởng GDP của Hàn Quốc 1970-1990
Nguồn: World Bank(2000)
Cụ thể, giai đoạn này chứng kiến sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo. Tốc
độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp là 13,1%, trong đó công nghiệp chế tạo tăng
trưởng với tốc độ 13,2%. Hàn Quốc trở thành quốc gia công nghiệp mới ở châu Á với
98% xuất khẩu thuộc về hàng chế tạo. Cho đến những năm đầu thập niên 90, Hàn Quốc đã
trở thành nước có thu nhập cao và đến năm 1996 Hàn Quốc gia nhập vào tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế OECD.
11
Không chỉ vậy, số các quốc gia nhập khẩu sản phẩm của Hàn Quốc đã tăng từ 33
nước vào năm 1973 lên tới 131 nước vào năm 1977. Số mặt hàng xuất khẩu cũng nhảy vọt
từ 69 lên gần 1200 mặt hàng. Vào năm 1976, Hàn Quốc đã đạt mục tiêu kim ngạch xuất
khẩu 8 tỷ USD sớm hơn hai tháng so với kế hoạch. Và chỉ một năm sau, Hàn Quốc cuối
cùng đã cán mốc 10 tỷ USD xuất khẩu.
Kể từ đó đến nay nền kinh tế Hàn Quốc vẫn duy trì tốc độ phát triển một cách mạnh
mẽ nhờ vào các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, sản xuất ôtô,… Đến năm 2017,
thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc đạt tới 28.380 USD/người/năm.
Biểu đồ 4: Giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc 1970-1995
Nguồn: World Bank(2000)
2.3. Các giải pháp vượt qua bẫy thu nhập trung bình của chính phủ Hàn Quốc
2.3.1. Phong trào Làng mới
2.3.1.1.
Định nghĩa
Phong trào Làng mới còn được gọi là Saemaul Undong, là phong trào tổng động
viên toàn thể cộng đồng cùng chung tay cải tổ, thay đổi và phát triển cộng đồng mới hơn,
tốt đẹp hơn. Thực chất, phong trào Làng mới là “phong trào vì cuộc sống thịnh vượng”.
Cuộc sống thịnh vượng bao hàm cả sự thịnh vượng về vật chất và tinh thần - cuộc sống
đầy đủ về kinh tế là mục tiêu ưu tiên hàng đầu nhưng không quên hướng tới một cuộc
[7]
sống có ý nghĩa, hạnh phúc và trong sạch về lối sống, về văn hóa .
[7] The National Council of Saemaul Undong Movement, 1997, Saemaul Undong in Korea, Nhà xuấ bản Seoul,
Hàn Quốc, trang 5
12
2.3.1.2.
Hoàn cảnh ra đời
Sau khi thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Nhật, Hàn Quốc lại bị tàn phá nặng nề
bởi cuộc nội chiến 1950-1953. Toàn quốc có tới 70% dân số sống ở nông thôn, trong đó
có tới 80% sống trong nhà tranh, chỉ 20% có điện chiếu sáng, quy mô sản xuất nhỏ với,
chủ yếu là trồng lúa, kỹ thuật lạc hậu, lũ lụt hạn hán xảy ra thường xuyên, đời sống kinh
tế-xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào sự viện trợ của Mỹ. Nguy hại hơn là tình trạng khủng
hoảng ý thức, người nông dân vô vọng, phó mặc số phận, thờ ơ với đời sống xã hội.
Tổng thống đương nhiệm Park Chung Hee nhận ra rằng sự ổn định cũng như sự phát
triển của đất nước sẽ khó mà có được nếu khu vực nông thôn bất ổn. Ngày 22 tháng 4 năm
1970, ông đã phát động “phong trào cải thiện làng mới”, bắt đầu từ việc khuyến khích
người dân tự lực, hợp tác cải thiện môi trường sống ở nông thôn. Năm 1971, phong trào
đổi tên thành “Saemaul undong - Phong trào làng mới” và được triển khai trên phạm vi
toàn quốc dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, người dân tham gia tích cực.
2.3.1.3.
Nội dung phong trào
Sau khi được tuyên bố chính thức triển khai, phong trào làng mới đã có nhiều thay đổi
trong quá trình phát triển. Nhìn một cách tổng thể, phong trào làng mới đã trải qua 5 giai
đoạn:
a. Giai đoạn thứ nhất - Giai đoạn cơ sở (1970-1973)
Giai đoạn này tập trung phát động tinh thần làng mới của người dân qua việc thực
hiện chương trình cải thiện môi trường sống cơ bản và chương trình tăng thu nhập thông
thường. Nó được chia thành nhiều giai đoạn và thực hiện cụ thể theo từng năm. Năm 1970
được coi là kỳ khởi động, năm 1971 là kỳ thử nghiệm, năm 1972 là kỳ khởi động cơ sở,
năm 1973 là thời kỳ xác lập nền tảng cho việc hệ thống hóa phong trào làng mới.
Năm 1971, chính phủ lợi dụng mùa nông nhàn của nông dân và đưa ra thử nghiệm
10 chương trình dự án gồm: trồng cây gây rừng, mở rộng đường xá, làm cầu cống, nhà vệ
sinh, nạo vét kênh mương, xây dựng khu giặt giũ và giếng nước công cộng, diệt chuột…
Chính phủ hỗ trợ 335 bao xi măng cho 33,267 làng 2 trên toàn quốc, toàn bộ dự án do
chính làng đó quản lý. Mỗi làng tiến cử một người có năng lực, không phân biệt nam nữ
giữ vai trò lãnh đạo cùng mọi người lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, mọi người tự
nguyện tham gia đông đủ.
13
Năm 1972, Chính phủ xúc tiến thực hiện phong trào làng mới thực tế hơn, đó là đưa
ra chính sách cạnh tranh với việc chọn ra 16,600 làng có thành tích xuất sắc trong năm
1971, hỗ trợ cho mỗi làng 500 bao xi măng và 1 tấn sắt theo phương châm hỗ trợ những
làng biết vượt lên khó khăn. Ngoài những làng được Chính phủ hỗ trợ trong năm thứ 2
này, còn có 6,108 làng tự nguyện tham gia phong trào thi đua, nâng tổng số làng tham gia
phong trào lên 22,708 làng (chiếm 68%). Sau 1 năm thực hiện phong trào, Chính phủ
nhận ra vai trò quan trọng của người lãnh đạo, làng nào có người lãnh đạo tâm huyết thì
làng đó thực hiện các dự án rất thành công. Chính vì vậy, trong năm 1972 Chính phủ đã
thành lập Học viện bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo phong trào làng mới, mỗi làng được cử một
người tham gia khóa đào tạo, họ sẽ là những người lãnh đạo và hướng dẫn cho dân làng
sau này.
Sang năm 1973, Chính phủ thực hiện phân loại các làng theo 3 tiêu chuẩn: cơ sở, tự
lực, tự lập nhằm khuyến khích các làng phát huy tinh thần tự lực, làm chủ, thi đua nhau
thực hiện tốt dự án và có kế hoạch hỗ trợ phù hợp. Toàn quốc có 34,665 làng tham gia
phong trào thi đua, kết quả có 18,415 làng đạt danh hiệu làng cơ sở, 13,943 làng tự lực và
2,307 làng tự lập. Cũng trong năm này, Chính phủ thành lập 170 “nhà máy làng mới”
nhằm tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
b. Giai đoạn thứ hai - Giai đoạn phát triển tự lực (1974-1976)
Phong trào làng mới ở giai đoạn này là phong trào toàn dân, bởi lẽ, hoạt động và ý
chí của phong trào làng mới đã bắt đầu lan rộng từ nông thôn đến thành thị. Trong giai
đoạn này, 3 chương trình cải tạo môi trường sống, tăng thu nhập và cải tổ ý thức của
người dân vẫn tiếp tục được thực hiện. Chương trình gia tăng thu nhập cho người dân
được chú trọng hơn cả.
Cụ thể, năm 1974, Chính phủ tập trung thực hiện chương trình gia tăng thu nhập cho
người dân qua việc phát triển hệ thống thủy lợi, thực hiện phương pháp canh tác tổng hợp
thay cho tập quán trồng lúa và lúa mạch trước đây, thành lập các khu liên hiệp sản xuất
vừa gia tăng thu nhập vừa khuyến khích người dân giúp đỡ lẫn nhau. Chương trình cải tạo
môi trường sống của người dân ở nông thôn tiếp tục mở rộng với việc ngói hóa, bê tông
hóa tường xây, sửa sang xây mới nơi ăn chốn ở, lắp đặt hệ thống nước, xây dựng trung
tâm giải trí của làng.
Đến năm 1976 trên địa bàn nông thôn, Chính phủ tăng cường giáo dục về làng mới
nhằm nuôi dưỡng năng lực và khí chất của người lãnh đạo làng mới, mặt khác, mở rộng
14
cơ hội được đào tạo cho mọi tầng lớp từ các công chức nhà nước, các tầng lớp lãnh đạo
trong xã hội tới dân thường giúp họ có nhận thức đúng đắn về phong trào làng mới và tích
cực tham gia phong trào.
c. Giai đoạn thứ ba - Giai đoạn hoàn thành tự lập (1977-1979)
Giai đoạn hoàn thành tự lập được coi là thời kỳ phát triển “chiều sâu” của phong trào
làng mới theo xu hướng mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh tế của các dự án. Các dự
án trọng điểm của phong trào làng mới ở giai đoạn này không chỉ dừng lại ở nông thôn mà
còn lan sang khu vực thành thị.
Ở khu vực nông thôn, để gia tăng thu nhập cho người dân, chính sách của Chính phủ
chủ trương hướng dẫn người dân thực hiện canh tác tổng hợp và chăn nuôi gia súc bên
cạnh việc xây dựng thêm các nhà máy làng mới và các khu liên hợp công nông.
Ở thành thị, phong trào làng mới bắt đầu với việc thực hiện ba chiến dịch là chiến
dịch tinh thần, chiến dịch hành động, chiến dịch môi trường. Chiến dịch tinh thần nhấn
mạnh đến việc tôn trọng người lớn, sống căn cơ tiết kiệm và biết giúp đỡ lẫn nhau. Chiến
dịch hành động nhấn mạnh đến việc giữ trật tự giao thông, hành xử có đạo đức nơi công
cộng, kinh doanh buôn bán đứng đắn. Chiến dịch môi trường nhấn mạnh đến việc giữ vệ
sinh môi trường sống, giữ gìn môi trường đường phố và bảo vệ môi trường. Phong trào
làng mới nơi công sở, nhà máy được triển khai rất mạnh mẽ với mục tiêu nâng cao năng
suất sản xuất, tiết kiệm vật tư, cách ứng xử lành mạnh giữa chủ và thợ. Đặc biệt, để nâng
cao năng suất sản xuất và cải thiện mối quan hệ giữa chủ và thợ, hàng loạt dự án đã được
thực hiện như mở trường học công nghiệp, mở rộng hệ thống phúc lợi trong nhà máy, cải
thiện phúc lợi xã hội cho người lao động…
d. Giai đoạn thứ tư (1980 - 1989)
Điểm đáng lưu ý trong giai đoạn này là sự qua đời của Tổng thống Park Chung Hee.
Điều này dẫn đến thực trạng là đất nước Hàn Quốc rơi vào giai đoạn bất ổn. Đối với
phong trào làng mới, nếu như những giai đoạn trước, phong trào được dẫn dắt bởi chính
phủ thì trong giai đoạn này phong trào được chuyển sang cho khu vực tư nhân. Ngày 13
tháng 12 năm 1980, đạo luật thúc đẩy tổ chức làng mới có hiệu lực đã hướng đến mục
đích hỗ trợ thúc đẩy các tổ chức làng mới tự nguyện được hình thành bởi khu vực tư nhân.
Một điểm cần đề cập đến trong giai đoạn này là phong trào gặp phải tai tiếng liên
quan đến việc quản lý tài chính. Tuy vậy, phong trào đã nỗ lực vượt qua những tác động
15
tiêu cực này và tiếp tục thực hiện các dự án làm đường, dự án đào tạo về nông nghiệp phối
hợp, cải thiện việc phân bố và hoạt động của liên minh tín dụng Saemaul
e. Giai đoạn thứ năm (1990 - 1998)
Đây là giai đoạn phát triển tự chủ, chú trọng vào củng cố nền tảng của sự tự quản và
tự lực, đáp ứng nhu cầu của tự do hóa và địa phương hóa, nỗ lực vượt qua khủng hoảng
kinh tế. Giai đoạn này cũng chú trọng khuyến khích công dân chuyển tình yêu cộng đồng
láng giềng thành thực tế đi liền với việc phục vụ người khác, đồng thời với việc thúc đẩy
quan niệm về việc chia sẻ vận mệnh chung và phục hồi đạo đức trong cộng đồng
2.3.1.4.
Kết quả
a. Thành tựu
Về mặt kinh tế: Phong trào làng mới đã hiện đại hóa nông thôn Hàn Quốc. Lần đầu
tiên trong lịch sử Hàn Quốc, thu nhập trung bình của hộ gia đình sống ở khu vực nông
thôn cao hơn thu nhập trung bình của hộ gia đình sống ở khu vực đô thị. Cụ thể là năm
1974, ba năm sau khi thực hiện phong trào làng mới, thu nhập bình quân của hộ gia đình
sống ở khu vực nông thôn là 674.000 KRW, trong khi đó thu nhập bình quân của hộ gia
[8]
đình sống ở khu vực đô thị chỉ là 644.000 . Cuối thập kỷ 1970, Hàn Quốc không còn
phải đối mặt với thiếu hụt lương thực do nguyên nhân nguồn cung trong nước. Điều đặc
biệt quan trọng cần phải nhấn mạnh ở đây là phong trào làng mới đã tạo nên sự phát triển
mạnh cơ sở hạ tầng ở nông thôn Hàn Quốc như đường sá, cầu cống, hệ thống cung cấp
nước, lưới điện, v.v…
Về mặt xã hội. Cơ hội giáo dục và hưởng thụ văn hóa của người dân Hàn Quốc được
nâng cao nhờ vào phong trào làng mới. Chẳng hạn, trong lĩnh vực giáo dục, nếu giai đoạn
1969-1979 chỉ có khoảng 12% đến 13% chủ hộ gia đình nông thôn có học vấn trung học
hoặc cao hơn thì đến năm 1979 con số này tăng lên 30%. Lối sống nông thôn cũng được
hiện đại hóa với nhiều hộ gia đình có thiết bị điện tử, máy móc nông nghiệp. Điều đáng
lưu ý ở đây là dân chủ hóa đời sống xã hội được thúc đẩy và vị thế của phụ nữ được gia
[9]
tăng .
Về mặt tư tưởng, phong trào đã tạo nên sự thay đổi tinh thần, thái độ của người dân
theo hướng tích cực, chuyển tinh thần, tư tưởng “chủ bại” kéo dài trong người dân Hàn
[8] The National Council of Saemaul Undong Movement, 1997, Saemaul Undong in Korea, Nhà xuất bản Seoul,
Hàn Quốc, trang 48
[9] The National Council of Saemaul Undong Movement, 1997, Saemaul Undong in Korea, Nhà xuất bản Seoul,
Hàn Quốc, trang 50-51
16
Quốc sang tinh thần “có thể làm” với hy vọng mới, tầm nhìn chung, lòng nhiệt tình và tự
nguyện để xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Kết quả nghiên cứu năm 1970 với 52,0% số
người được khảo sát có suy nghĩ tích cực về “tự lực”, “nỗ lực của bản thân”. Năm 1975,
kết quả khảo sát chỉ ra rằng 82,0% những người được hỏi thể hiện mong muốn làm việc
chăm chỉ hơn để có những kết quả tốt hơn. Thêm nữa, nếu như năm 1970 chỉ có 48,9% số
người được hỏi nói những người xung quanh họ và bản thân họ sẵn lòng chấp nhận cách
nghĩ mới, công nghệ mới, và phương pháp mới thì con số này tăng lên 80,5% vào năm
[10]
1975
.
b. Hạn chế
Thứ nhất, phong trào làng mới được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã gây
nên tâm lý dựa dẫm, thụ động cho người dân, làm giảm tính sáng tạo, tính chủ động của
họ.
Thứ hai, sự hỗ trợ của chính phủ tuy là nhân tố thành công song khi ngừng viện trợ
chắc chắn các dự án cũng sẽ bị dừng thực hiện.
Thứ ba, khi triển khai phong trào làng mới Chính phủ chỉ tập trung vào số lượng,
không có tính kế hoạch, thiếu khoa học kỹ thuật bởi vậy, không tránh khỏi sự lãng phí, sự
sai sót trong quá trình thực hiện.
2.3.2. Phát triển công nghiệp định hướng xuất khẩu
2.3.2.1. Giai đoạn 1950-1960
a. Nguyên nhân
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 và đặc biệt sau chiến tranh Nam – Bắc Triều Tiên
kết thúc năm 1953, Hàn Quốc bị tàn phá nặng nề và là một trong các quốc gia nghèo nhất
trên thế giới. Hiểu rõ chính sách phát triển kinh tế đối với quốc gia là sống còn, Tổng
thống Park Chung Hee trao toàn quyền quyết định cho một nhóm các chuyên gia hoạch
định kinh tế, tùy theo mục tiêu từng thời kỳ để ưu tiên, thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế theo
hướng xuất khẩu, tập trung cho sản xuất.
b. Nội dung
Chính sách công nghiệp của Hàn Quốc được đặc trưng bởi chính sách thay thế nhập
khẩu tập trung chủ yếu vào các mặt hàng tiêu dùng. Chính phủ sử dụng triệt để các hàng
rào thuế quan và hạn chế nhập khẩu tới mức tối đa nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp
trong nước và thúc đẩy sản xuất trong nước.
[10] Asian Development Bank, 2012, Saemaul Undong Movement in the Republic of Korea:
Sharing Knowledge on Community-Driven Development, Nhà xuất bản Mandaluyong City, trang 88
17
c. Kết quả
Chiến lược này mặc dù đã phát huy được tính độc lập tự chủ của Hàn Quốc, giảm sự
lệ thuộc vào bên ngoài, song lại mang lại hiệu quả không cao. Tăng trưởng GDP bình
quân từ năm 1953 đến năm 1962 chỉ đạt 3,7%.
2.3.2.2. Giai đoạn đầu những năm 1960
a. Nguyên nhân
Chiến lược thay thế nhập khẩu ngày càng tỏ ra có nhiều bất lợi, khả năng cạnh tranh
quốc tế của Hàn Quốc cũng yếu đi trong những ngành mà nước này có lợi thế so sánh.
Thêm vào đó, do nhu cầu nhập khẩu thực phẩm và các nguyên liệu đầu vào gia tăng trong
khi viện trợ nước ngoài giảm mạnh, Hàn Quốc buộc phải xuất khẩu hàng chế tạo để thu về
ngoại hối. Trước tình hình đó, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc phải thay đổi.
b. Nội dung
Năm 1964, chính sách định hướng xuất khẩu ra đời với khẩu hiệu “xuất khẩu là
trước hết”. Kể từ đó, chính phủ tập trung mọi nỗ lực để thúc đẩy xuất khẩu, coi xuất khẩu
là vấn đề mang tầm quốc gia.
Chính phủ gia tăng trợ cấp trực tiếp cho các ngành xuất khẩu, đặc biệt là những
ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động – là những ngành Hàn Quốc có lợi thế
cạnh tranh. Năm 1965, chính phủ Hàn “nhắm tới” 13 loại ngành hàng mà họ xem là
“những nhân tố chiến thắng”, trong đó có dệt may, sản xuất tơ tằm, vải sợi, cao su và máy
thu thanh - những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh đặc biệt nhờ vào lực lượng lao động
dồi dào, chăm chỉ và có giá rẻ. Các công ty hoạt động trong những lĩnh vực này được
hưởng nhiều đặc quyền từ phía chính phủ: được vay vốn với lãi suất thấp, được miễn giảm
thuế đối với sản phẩm nhập khẩu đầu vào cần thiết.
Ngoài ra, chính phủ Hàn Quốc còn thực hiện tự do hóa thị trường ngoại hối và phá
giá đồng nội tệ. Bắt đầu vào năm 1964, chính phủ đánh bạo đưa ra hàng loạt chính sách
nhằm mục đích mở rộng xuất khẩu, trong số đó có việc phá giá rồi sau đó là thả nổi đồng
Won, tự do hóa cơ chế xuất khẩu nghiêm ngặt của Hàn Quốc để tạo điều kiện cho các
công ty Hàn Quốc dễ dàng hơn trong việc đưa vào nước các loại máy móc, nguyên liệu
thô và những bộ phận cấu thành cần thiết để sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Ngoài các biện pháp trên, chính phủ còn cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho phát
triển kinh tế, ví như việc xây dựng các khu công nghiệp và khuyến khích các hãng gia
nhập các tổ hợp này. Chính phủ cũng thành lập các tổ chức để thúc đẩy xuất khẩu như: Cơ
18
quan xúc tiến thương mại đầu tư Hàn Quốc (KOTRA) và Hiệp hội Thương mại quốc tế
Hàn Quốc (KITA) nhằm hỗ trợ hoạt động marketing cho các công ty Hàn Quốc, kết nối
doanh nghiệp và nghiên cứu thị trường.
c. Kết quả
Theo số liệu thống kê từ World Bank hạn ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng lên
từ sau năm 1964:
Bảng 4: Hạn ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc giai đoạn 1962-1968
Năm
Xuất khẩu (triệu
USD)
Tỉ lệ tăng trưởng
(%/năm)
1962
1963
1964
1965
1966
1967
1968
109.00
157.38
171.66
222.48
331.69
442.52
620.64
15.7
14.5
29.0
36.5
42.9
30.0
38.0
Nguồn: World Bank(2000)
2.3.2.3. Bước sang những năm 1970
a. Nguyên nhân
Chính phủ nhận thấy rằng nếu họ tiếp tục phát triển công nghiệp nhẹ, mức lương
tăng sẽ làm giảm tính cạnh tranh về giá của những ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó,
chính sách công nghiệp của Hàn Quốc chuyển hướng từ các ngành công nghiệp nhẹ sang
phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất (HCI) có giá trị gia tăng cao.
b. Nội dung
Năm 1973, chính phủ đã ban hành kế hoạch phát triển công nghiệp nặng và hóa chất.
Theo đó, chính phủ chọn ra sáu ngành công nghiệp chiến lược, bao gồm: thép, đóng tàu,
máy công cụ, điện tử, kim loại, và công nghiệp hóa dầu. Sự lựa chọn này dựa trên những
tiêu chuẩn như tính liên kết ngược và xuôi giữa các ngành, đóng góp tới tăng trưởng kinh
tế và lãi tỷ giá hối đoái. Gắn liền với chính sách này là sự gia tăng của các tập đoàn công
nghiệp lớn. Chính phủ thúc đẩy phát triển các ngành HCI thông qua các chính sách như:
cung cấp các khoản vay ưu đãi, bảo hộ có chọn lựa, các quy định đầu vào và miễn, giảm
thuế…
19
c. Kết quả
Với sự giúp đỡ về nhiều mặt của chính phủ như trên, tỷ trọng các ngành công nghiệp
nặng ở Hàn Quốc gia tăng nhanh chóng từ 38% năm 1973 lên tới 54,4% năm 1980 và
chiếm tới 50% tổng giá trị xuất khẩu năm 1980.
Có thể thấy tỷ trọng ngành công nghiệp đóng góp cho GDP Hàn Quốc tăng ổn định
qua các năm:
Bảng 5: Tỷ trọng ngành công nghiệp Hàn Quốc giai đoạn 1962-1968
Năm
Tỷ trọng
ngành công
nghiệp trong GDP(%)
Năm
Tỷ trọng
ngành công
nghiệp trong GDP(%)
1962
1963
1964
1965
1966
1967
1968
17.61
17.86
19.16
23.04
22.81
23.07
23.78
1971
1972
1973
1974
1975
1976
1977
23.05
24.59
27.32
26.32
26.37
27.28
28.08
Nguồn: World Bank(2000)
2.3.2.4. Trong những năm 1980 và 1990
a. Nguyên nhân
Nền kinh tế bắt đầu xuất hiện sự trì trệ do ảnh hưởng của khủng hoảng dầu mỏ và
kinh tế giai đoạn 1973-1975 gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu công nghiệp và giảm sức
cạnh tranh. Chính vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc buộc phải thực hiện sự điều chỉnh chính
sách công nghiệp.
b. Nội dung
Chính sách công nghiệp của Hàn Quốc được điều chỉnh theo hướng tăng cường tự
do hóa thị trường, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho khu vực tư nhân và phát triển các
ngành công nghiệp kỹ thuật cao như công nghiệp bán dẫn, ô tô, đóng tàu, hàng không.
Ngoài ra, sớm nhận thấy những hạn chế trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ
từ các nước phát triển, trong những năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc xác định việc nâng
cao năng lực kỹ thuật, công nghệ tự chủ trở thành vấn đề then chốt cho phát triển trong
giai đoạn mới. Do vậy, Hàn Quốc đã tập trung vào hai nhiệm vụ: thúc đẩy các hoạt động
nghiên cứu từ khu vực tư nhân và đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ các nhà khoa học công nghệ.
20
Hàng loạt viện nghiên cứu khoa học ra đời, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cho
nghiên cứu khoa học - công nghệ chiếm tới 80,6% vào năm 1990. Cùng thời gian này,
Hàn Quốc thành lập Đại học Khoa học - công nghệ Hàn Quốc; hợp nhất Viện Khoa học
Hàn Quốc với Viện Nghiên cứu khoa học - công nghệ Hàn Quốc thành Viện Khoa học công nghệ Hàn Quốc nhằm tăng sức mạnh kết nối khoa học công nghệ với thực tiễn sản
xuất, cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các viện nghiên cứu tư nhân và
chính phủ.
c. Kết quả
Nhờ vào việc chú trọng đến đầu tư cho khoa học, công nghệ giai đoạn này, Hàn
Quốc đã tạo được sự bứt phá lớn, nhanh chóng trở thành nước có thu nhập cao, bước vào
đội ngũ các nước phát triển.
2.3.3. Phát triển nhân lực
2.3.3.1.
Nội dung phong trào
Sau khi chiến tranh Nam-Bắc triều kết thúc, cơ sở hạ tầng của Hàn Quốc bị tàn phá
nặng nề, nghiêm trọng: các trường học bị tàn phá, mọi người phải ngồi học ở đình chùa,
bên các bức vách, sách vở thì rách nát, thiếu thốn.
Phát triển giáo dục cơ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Bởi, giáo
dục tiểu học cung cấp nhân lực cho ngành công nghiệp nhẹ trong những thập niên 1960s
và 1970s, trong khi đó, giáo dục trung học đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các ngành công
nghiệp cao hơn và nặng như hóa học vào thập niên 1970s và 1980s. Nhận thấy việc phát
triển nguồn nhân lực là vô cùng thiết yếu, chính phủ Hàn Quốc luôn chú trọng phát triển
giáo dục. Hàn Quốc đầu tư 7,6% GDP cho giáo dục, trong khi ở các nước khác của tổ
chức OECD là 5,6%. Do đó, giáo dục Hàn Quốc phát triển nhanh chóng. Năm 1960, theo
thống kê của Bộ Giáo dục, tổng số học sinh ở cả ba cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung
học phổ thông đã tăng gấp đôi so với năm 1950. Số trường đại học cũng tăng gấp 1,85 lần
so với năm 1948.
Vì tỷ lệ người mù chữ của người trưởng thành ở Hàn Quốc lúc này rất cao, chỉ
khoảng 10% người dân biết chữ. Trong tình hình này, Chính phủ khó triển khai các chính
sách về chính trị, kinh tế, văn hóa. Vì vậy vấn đề cần ưu tiên giải quyết lúc này chính là
dạy chữ Hàn cho những người mù chữ để họ có thể đọc sách, báo. Hơn nữa, thông qua
21
việc học chữ, người dân có thể được tiếp thu thêm kiến thức về lịch sử dân tộc, cũng như
tăng cường vốn hiểu biết về thế giới bên ngoài.
2.3.3.2.
Kết quả
Hệ thống giáo dục của Hàn Quốc phát triển rất ấn tượng, đặc biệt là giáo dục bậc đại
học. Nếu như sau giải phóng, số trường trung học không quá 165 trường, ngày nay số
lượng trường đã tăng gấp 10 lần, khoảng 1657 trường. Năm 1998 tỉ lệ ghi danh đại học đã
98%, cao nhất trong các nước thuộc khối OECD.
Công cuộc đẩy lùi nạn mù chữ đã đạt được thành công rực rỡ.Tại nước này, tỷ lệ xóa
nạn mù chữ hiện nay là 97,8% (22% vào năm 1945); 71% thanh niên học đại học trong
khi tỷ lệ này là 56% tại các quốc gia khác thuộc khối OECD. Vào năm 1953, tỷ lệ người
mù chữ là 35,1%, và đến năm 1960, tỷ lệ này chỉ còn dưới 28%.
2.4. Các nhân tố dẫn đến thành công của Hàn Quốc
2.4.1. Sự can thiệp hiệu quả và linh hoạt của chính phủ
Một trong những nhân tố quan trọng giúp Hàn Quốc thoát bẫy thu nhập trung bình
thành công là vai trò điều tiết linh hoạt, nhất quán và hiệu quả của chính phủ.
Chính phủ Hàn Quốc được biết đến là chính phủ khá thành công trong việc kết hợp
một cách linh hoạt giữa thị trường và kế hoạch. Khi thị trường chưa có khả năng tự vận
hành để đạt được các mục tiêu đặt ra, chính phủ sẽ áp dụng các biện pháp can thiệp mạnh
mẽ nhằm đảm bảo mục tiêu kế hoạch. Ngược lại, khi thị trường có thể vận hành hiệu quả,
chính phủ sẽ giảm sự can thiệp của mình, thậm chí thực hiện tư nhân hoá các đơn vị nhà
nước.
Ngoài những đặc điểm trên, sự phát triển kinh tế rực rỡ của Hàn Quốc còn nhờ vào
những quyết định đúng đắn của Chính phủ Hàn Quốc, điển hình là chính quyền của Tổng
thống Park Chung Hee (1961-1979) khi lựa chọn và theo đuổi đến cùng chiến lược hướng
ngoại dựa vào xuất khẩu công nghiệp hay chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất
khẩu.
2.4.2. Chính sách công nghiệp hóa năng động
Đối với Hàn Quốc, chính sách công nghiệp là trọng tâm của các chính sách phát
triển, giúp đất nước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
22
Tất cả các công cụ chính sách về tiền tệ, tài chính đều được sử dụng để hỗ trợ cho các
ngành công nghiệp then chốt như xi măng, phân bón hay công nghiệp lọc hóa dầu.
Chính sách công nghiệp của Hàn Quốc đã có sự chuyển đổi hợp lý khi đi từ công
nghiệp nhẹ đến công nghiệp nặng, và sau đó chuyển sang công nghiệp kỹ thuật cao, dựa
trên tiềm lực kinh tế sẵn có và bối cảnh kinh tế thế giới theo từng thời kỳ. Hàn Quốc cũng
cho thấy sự sáng suốt khi thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng tới xuất khẩu từ rất
sớm và dành sự ưu tiên tuyệt đối cho phát triển các ngành này.
2.4.3. Nguồn nhân lực chất lượng cao
Ngay từ đầu Chính phủ Hàn Quốc đã đề cao vai trò của giáo dục, coi giáo dục như
một ưu tiên chiến lược hàng đầu, là nền tảng để xây dựng đất nước. Năm 1960, có khoảng
56% dân số trưởng thành ở Hàn Quốc tiếp cận với giáo dục tiểu học và 20% đạt được giáo
dục trung học, cao hơn nhiều so với con số của các nước đang phát triển lúc bấy giờ (lần
lượt là 26% và 5%). Kể từ đầu những năm 1980, chính phủ lại hướng sự tập trung vào
phát triển giáo dục phổ thông và đại học thay vì trung học cơ sở như trước đó, với mục
đích tạo ra một đội ngũ lao động chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành
công nghiệp kỹ thuật cao. Theo số liệu của Viện phát triển giáo dục Hàn Quốc, tỷ lệ chi
tiêu công cho giáo dục đại học trong GDP tăng từ 1% năm 1970 lên tới 1,9% (năm 2000);
trong khi đó, con số dành cho giáo dục tiểu và trung học giảm từ 4,3% xuống còn 3,9%
trong cùng kỳ.
Lực lượng lao động có trình độ cao là nhân tố chính dẫn tới năng suất lao động tăng
nhanh ở Hàn Quốc. Nếu như giữa những năm 1970, Hàn Quốc chỉ mới đạt khoảng 40%
năng suất lao động trong ngành sản xuất chế tạo của Nhật Bản và 20% của Mỹ, thì đến
khoảng năm 1996, năng suất lao động của Hàn Quốc đã đạt 70% của Nhật Bản và gần
50% của Mỹ.
2.4.4. Chú trọng đến phát triển công nghệ và không ngừng đổi mới
Ở Hàn Quốc, vai trò của khoa học và công nghệ đã được chú ý từ đầu những năm
1960. Chính phủ chú trọng đến xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển công nghệ trong giai
đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa và chuyển hướng sang phát triển những công
nghệ mũi nhọn về sau này.
Đầu những năm 1960, hai cơ quan được thành lập, bao gồm cơ quan nghiên cứu
Viện Khoa học – Kỹ thuật Hàn Quốc (KIST) (1966) và Bộ Khoa học và Công nghệ
23
(MOST) (1967) đã mở đường cho công cuộc phát triển khoa học công nghệ ở Hàn Quốc.
Năm 1982, chương trình R&D quốc gia ra đời. Kể từ đó, các hoạt động khoa học và công
nghệ ở Hàn Quốc bắt đầu nở rộ. Nếu như năm 1963 chi tiêu cho R&D chỉ chiếm 0,25%
GDP thì đến năm 1991 con số này đã tăng lên tới 1,74% và tiếp tục gia tăng trong những
năm sau đó. Đến năm 1996, chi tiêu cho R&D chiếm tới 2,26% GDP, cao hơn so với mức
trung bình của các nước OECD (2,01%).
Hàn Quốc đã cho thấy sự đúng đắn khi sớm đầu tư cho phát triển khoa học công
nghệ bởi đến một thời điểm nào đó, khi các nhân tố đầu vào như lao động và vốn không
còn là lợi thế so sánh của quốc gia đó nữa thì sự tiến bộ khoa học và kỹ thuật hay năng
suất các nhân tố tổng hợp sẽ chính là yếu tố góp phần thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1. Việt Nam và thực trạng sập bẫy thu nhập trung bình
3.1.1. Tốc độ tăng trưởng chậm lại
Sau khi khắc phục các tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính Châu Á giai
đoạn 1997 - 1998, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu tăng trưởng mạnh mẽ từ khoảng năm
2000. Tăng trưởng dần dần tăng tốc từ năm 2001 và đạt mức cao nhất 7,55% trong năm
2005. Nhịp độ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong nước khá cao và Chính phủ hài
lòng với mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ này. Tuy nhiên, sự tăng trưởng này chủ yếu do
bong bóng bất động sản và chứng khoán chứ không phải do tăng năng suất hay năng lực
cạnh tranh tạo ra.
Sau năm 2006, tăng trưởng có xu hướng đi xuống với nhiều biến động. Tâm trạng
toàn xã hội trở nên ảm đạm, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với nhiều thách
thức vì tốc độ tăng trưởng được dự kiến là 7 - 8%, giảm xuống chỉ còn 5 - 6%. Tăng
trưởng dưới 5 - 6% cũng cần được xem như một cuộc khủng hoảng xã hội. Nếu tăng
trưởng giảm sâu hơn nữa, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số, gánh nặng
an sinh xã hội và các vấn đề xã hội khác và sẽ không bao giờ đạt mức thu nhập cao.
Những vấn đề dài hạn này thực sự rất khó giải quyết, ngay cả đối với những xã hội tiên
tiến chứ không chỉ với các quốc gia có thu nhập trung bình như Việt Nam.
24
Biểu đồ 4: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa thực tế của Việt Nam
Nguồn:Tổng cục thống kê(2016)
3.1.2. Năng suất lao động thấp
TFP là thước đo hiệu quả tổng thể được tính như tăng trưởng thặng dư sau khi tăng
yếu tố đầu vào như lao động và vốn. Trong khi đó, chỉ số ICOR (hệ số sử dụng vốn, hay
hệ số đầu tư tăng trưởng) là một cách tính hiệu quả vốn như tỷ lệ của tỷ suất đầu tư (tỷ lệ
phần trăm đầu tư của GDP) với tốc độ tăng trưởng của GDP thực tế. Điều đó cũng cho
thấy bao nhiêu vốn vật chất đã được đầu tư để tạo ra thêm một phần trăm tăng trưởng.
Biểu đồ 5 trình bày sự biến động của hai chỉ số này kể từ năm 1990.
Biểu đồ 5: Hệ số ICOR và TFP Việt Nam giai đoạn 1990-2012
Nguồn: Tổng cục Thống kê(2014)
Đến giữa những năm 1990, hệ số ICOR tương đối thấp và sự đóng góp của TFP vào
tăng trưởng ở mức cao cho thấy tăng trưởng đạt được thông qua cải thiện hiệu quả mà
25
không cần nhiều đầu tư. Sau đó, hệ số ICOR tăng và đóng góp của TFP vào tăng trưởng
giảm. Đây là một dấu hiệu rõ ràng của sự tăng trưởng dựa trên đầu tư với hiệu quả sử
dụng vốn thấp.
3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm lại
Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP trong những năm gần đây,
cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành nông
nghiệp đã giảm, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ được cải thiện.
Đến nay, đóng góp vào tăng trưởng của 2 ngành Công nghiệp và Dịch vụ chiếm
khoảng 90% tăng trưởng toàn ngành kinh tế, cao hơn giai đoạn 2006-2010. Năm 2016,
ngành Dịch vụ đóng góp gần 50% vào tăng trưởng theo ngành và cao hơn nhiều so với
giai đoạn 2006-2010 với mức đóng góp 40%.
Điều này chứng tỏ xu thế tiến bộ, phù hợp với hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm góp phần nâng cao chất lượng tăng
trưởng và củng cố tiềm lực kinh tế đất nước.
Bảng 6: Cơ cấu GDP theo ngành qua các năm ở Việt Nam
Cơ cấu GDP (%)
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
2001
23.24
38.13
38.63
2010
20.30
41.10
38.60
2011
19.57
32.24
36.74
2012
19.22
33.55
37.27
2013
17.96
33.20
38.74
2014
17.70
33.22
39.40
2015
17.00
33.25
39.73
2016
16.32
32.72
40.92
Nguồn: Tổng cục Thống kê(2017)