Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TRUNG TÂM TÀI CHÍNH NGÂN HÀNGNEW YORK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.22 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
TRUNG TÂM TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
NEW YORK
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS. Nguyễn Quang Thông
Nhóm thực hiện : Nhóm 4
Lớp : Ngân Hàng Ngày 2
Khóa : 21
Hệ : Sau Đại Học
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4 - LỚP NGÂN HÀNG NGÀY 2 – K21
1. PHAN THỊ LAN ANH
2. LÊ VŨ HÀ
3. NGUYỄN PHẠM KIM YẾN
4. NGUYỄN SONG THÀNH TRUNG
5. NGUYỄN THỊ GIANG
6. NGUYỄN THỊ HẢI THƯ
7. HỒ KIM DUYÊN
8. VÕ VĂN HIẾU
9. TRẦN THỊ THẮM
10.NGUYỄN THỊ ANH THƯ
11. NGUYỄN HÀ TRUNG
12.NGUYỄN THỊ LỆ THU
13.MAI THỊ THƯƠNG HIỀN
14.NGUYỄN THỊ KIM CÚC
15.TRẦN THỴ HỒNG NGỌC
16.NGUYỄN HOÀN CẨM LAN
17.LƯU THỊ HẠNH DUNG
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LƯỢC SỬ VỀ TRUNG TÂM TÀI CHÍNH THẾ GIỚI 1
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRUNG TÂM TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG NEW YORK 5
Trung tâm tài chính – Ngân hàng New York là một trung tâm toàn cầu về thương mại và


giao dịch quốc tế, theo bảng xếp hạng 10 trung tâm tài chính hấp dẫn nhất thế giới mà
PricewaterhouseCoopers vừa công bố 2012 cho thấy mặc dù kinh tế toàn cầu suy giảm
cùng cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu khiến nhiều trung tâm tài chính thế giới lao
đao nhưng một lần nữa nước Mỹ vẫn chứng tỏ được vai trò đầu tàu kinh tế và New York
vẫn là trung tâm tài chính số 1 thế giới 5
3.Đặc điểm và quy mô hoạt động 5
4.Hoạt động của trung tâm tài chính NewYork 6
5.Tình hình tài chính thế giới 7
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 10
1.Thực trạng kinh tế tài chính Thành phố Hồ Chí Minh 10
2.Bài học kinh nghiệm và kiến nghị xây dựng thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm
tài chính 11
2.1.Xây dựng khung pháp lý 11
Việt Nam cần phải xây dựng hệ thống pháp lý chặt chẽ, rõ ràng, đảm bảo sự công khai,
minh bạch của thị trường cũng như quản lý được các rủi ro nhằm thu hút các nguồn
vốn nước ngoài. Sắp tới, để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế, đòi hỏi Việt Nam
phải nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động mua bán, hợp nhất,
sáp nhập, thị trường sản phẩm phái sinh, thành lập các công ty mua bán nợ xấu, các
tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường chứng khoán … Đây được xem là các hoạt
động tất yếu trong tiến trình phát triển thị trường tài chính tại Việt Nam. Bên cạnh đó,
Hiệp Hội Thị trường trái phiếu cũng cần sớm hoàn thiện trung tâm thông tin trái phiếu
doanh nghiệp, xây dựng cẩm nang tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp để hổ trợ
thành viên thị trường trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp 11
2.2.Lành mạnh hóa hoạt động các định chế tài chính 11
CHƯƠNG 1: LƯỢC SỬ VỀ TRUNG TÂM TÀI CHÍNH THẾ GIỚI
1. Trung tâm tài chính ngân hàng
1.1. Khái niệm trung tâm tài chính:
Trung tâm tài chính là một phần của đô thị nơi có các định chế tài chính tập trung Thông
thường, sự hình thành và phát triển của một trung tâm tài chính là một quá trình dần dần trong
đó các hoạt động tài chính được mở rộng do sự tăng trưởng của lĩnh vực kinh doanh và ngược

lại.
Các trung tâm tài chính quốc tế phát triển là kết quả của việc mở rộng các trung tâm tài
chính quốc gia. Các trung tâm tài chính quốc gia này chính là các trung tâm có ưu thế hơn
trong cung cấp các dịch vụ tài chính có chất lượng cao, có vị trí địa lý thuận lợi, dịch vụ viễn
thông quốc tế có nhiều tiện ích nhất.
1.2. Đặc điểm của trung tâm tài chính:
o Là nơi tập trung một số lượng lớn các định chế tài chính, có các định chế tài chính phát
triển trong đó có các ngân hàng mạnh về vốn, uy tín cao.
o Là nơi tập trung các chuyên gia tài chính giỏi, có trình độ để phát triển được những kỹ
năng nghiệp vụ.
o Là nơi có các thị trường tài chính chính thức như thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường trái phiếu
o Có khối lượng giao dịch tài chính chiếm tỷ trọng chi phối trong toàn hệ thống tài chính -
ngân hàng.
o Các điều kiện về vị trí địa lý thuận lợi, mức độ phát triển về kinh tế, hạ tầng kỹ thuật,
công nghệ hơn hẳn so với các khu vực khác.
1.3. Vai trò của trung tâm tài chính đối với nền kinh tế thế giới
Các ngân hàng có thể cung cấp dịch vụ tới các khách hàng tại các quốc gia khác nhau
và đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư quốc tế một cách hiệu quả.
Một trung tâm tài chính quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động giao dịch
thường xuyên giữa các ngân hàng và các chuyên gia tài chính khác để thực hiện mục tiêu đồng
tài trợ vốn, chia sẻ rủi ro và tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư và cấp vốn.
Các trung tâm tài chính lớn ảnh hưởng và tác động tới các lĩnh vực chính trị, công
nghiệp, tiền tệ và thương mại trên thế giới.
1.4. Lịch sử phát triển của các trung tâm tài chính thế giới
1.4.1. Amsterdam
o Trong thế kỷ 16, người Hà Lan thống lãnh việc vận tải thương mại tại khu vực Baltic và
thực hiện các biến đổi sâu sắc trong tài chính vào đầu thế kỷ 17.
o Năm 1602, người Hà Lan cho thành lập các khu chợ có tổ chức dành cho việc trao đổi
các công cụ tài chính.

o Ngân hàng Ngoại tệ Amsterdam (Amsterdam Exchange Bank) được thành lập năm
1609.
o Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam (Amsterdam Stock Exchange) mở cửa năm
1611. Để làm nền móng cho các phát triển trên, người Hà Lan đã phát triển một hệ
1
thống ngân hàng vững mạnh và thống lĩnh hệ thống tài chính quốc tế trong suốt thế kỷ
17.
o Ngày nay, trung tâm tài chính quốc tế Amsterdam vẫn là một trong những trung tâm tài
chính hàng đầu của thế giới, được xếp hạng 9 vào năm 2012.
1.4.2. London
o Vào thế kỷ 18, City of London là một khu thương mại được chia ra thành các khu buôn
bán với nhiều nước trên thế giới, từ đó đã nảy sinh việc đầu cơ vốn của ngành tài chính.
o Năm 1566 một thương gia Anh đã xây dựng trung tâm thương mại đầu tiên tại khu “Một
dặm vuông”. Chính nữ hoàng Elizabeth đệ tam đã đặt tên cho trung tâm giao dịch đầu
tiên này là Royal Exchange và mau chóng giúp cho London ngày đó trở thành trung tâm
thương mại lớn nhất thế giới.
o Sau hơn 200 năm phát triển, Khu tài chính London hiện có quy mô lớn nhất và quốc tế
nhất thế giới, cung cấp những sản phẩm tài chính chất lượng cao, là nơi tập trung đông
đảo các chuyên gia tài chính giàu kinh nghiệm với hơn 400 ngân hàng nước ngoài.
Ngành công nghiệp lớn nhất của London là tài chính và thu nhập từ xuất khẩu tài chính
đã đóng góp không nhỏ cho cán cân thanh toán của Anh quốc.
o Năm 2012, Khu tài chính London được xếp thứ 3 trong số những trung tâm tài chính
hàng đầu thế giới.
1.4.3. Paris
o Thủ đô Paris của Pháp là nơi tập trung các dịch vụ tài chính của châu Âu và thế giới.
Đây cũng là nơi nhiều công ty lớn chọn đặt trụ sở, văn phòng.
o Sở giao dịch chứng khoán Paris với gần 400 ngân hàng và công ty cùng những hoạt
động đa dạng về tài chính, kinh doanh, chính trị và du lịch đã khiến Paris trở thành một
trong những trung tâm tài chính lớn nhất trên thế giới.
1.4.4. Berlin

o Kể từ khi thống nhất vào năm 1871,tốc độ công nghiệp hóa và tăng trưởng nhanh của
nước Đức đòi hỏi cần thiết phải có một trung tâm tài chính với quy mô tương ứng. Berlin
nổi bật với những ngân hàng lớn như Deustche Bank, ngân hàng Dresdner, ngân hàng
Disconto-Gesellschaft và ngân hàng Darmstadter. Cũng như London, Berlin có các ngân
hàng ở nước ngoài để tài trợ cho thương mại Đức ở nước ngoài.
1.4.5. Tokyo
Thị trường chứng khoán Tokyo mở cửa vào năm 1878. Đến những năm 80, nhiều
chuyên gia dự đoán Tokyo có thể chiếm vị trí trung tâm tài chính hàng đầu của New York. Tuy
nhiên, do khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 mà Tokyo chỉ trở thành trung tâm tài chính
thứ 2 trên thế giới. Ngày nay, Tokyo là trung tâm tài chính quốc tế, là nơi đặt trụ sở chính của
nhiều ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm lớn trên thế giới, đóng vai trò đầu mối của Nhật
Bản về giao thông, công nghiệp xuất bản và phát thanh truyền hình.
1.4.6. Hong Kong và Singapore
• Hong Kong:
2
Đặc khu kinh tế Hong Kong được Vương quốc Anh trao trả cho Trung Quốc từ năm
1997 cũng là một trong những trung tâm kinh tế, tài chính hàng đầu thế giới nhờ chính sách
kinh tế phát triển tự do không có sự can thiệp của chính quyền. Kinh tế Hong Kong chủ yếu là
dịch vụ. Tỷ trọng của khu vực này trong GDP của Hong Kong lên đến 90%.
• Singapore:
Singapore là thành phố nhỏ nhất khu vực Đông Nam Á nhưng lại là nơi có dịch vụ ngân
hàng đẳng cấp quốc tế và cơ sở hạ tầng hàng đầu thế giới. Tốc độ phát triển nhanh, mức thuế
thấp và môi trường ngân hàng thân thiện là những nhân tố khiến Singapore trở thành điểm đến
hấp dẫn đối với hàng nghìn tập đoàn đa quốc gia trong mọi lĩnh vực từ khắp nơi trên thế giới.
Theo các nhà phân tích, Singapore sẽ trở thành các trung tâm tài chính hàng đầu vào 2022.
Hơn nữa, theo dự báo, Singapore sẽ tiếp tục duy trì vị trí quốc gia giàu nhất thế giới về thu
nhập bình quân đầu người cho tới năm 2050 nhờ các nhân tố lực lượng lao động tay nghề cao,
môi trường kinh doanh, sự mở cửa đối với thương mại, vốn lưu động và đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
1.5. Điều kiện hình thành trung tâm tài chính

o Trung tâm tài chính yêu cầu có một lượng vốn dư thừa (cung) nhằm đáp ứng cho nhu
cầu tài chính (cầu), các trung gian tài chính và các hoạt động dịch vụ.
o Các hoạt động môi giới tài chính cũng là một hoạt động rất cần thiết để đáp ứng cầu.
o Cần có sự hợp tác nhịp nhàng và chặt chẽ giữa các ngân hàng trong việc đồng tài trợ
cấp vốn và các giao dịch tín dụng khác.
o Phải có những chuyên gia có kinh nghiệm (người tham gia và người môi giới) và các
lãnh đạo ngân hàng được tin cậy để điều hành.
o Điều kiện về công nghệ thông tin tốt là một yêu cầu tiên quyết.
o Các điều kiện về mặt pháp lý, cũng như yêu cầu về sự ổn định kinh tế chính trị trong
nước là điều kiện cơ bản cần thiết.
o Trung tâm tài chính quốc tế cũng cần phải mở, hội nhập về khía cạnh văn hoá và cạnh
tranh.
2. Lịch sử phát triển của trung tâm tài chính – Ngân hàng New York
2.1. Lịch sử hình thành New York
o Năm 1524, Giovanni da Verrazzano khám phá ra vùng đất mà sau này được gọi là New
York.
o Năm 1626, người Hà Lan đã mua đảo Manhattan của thổ dân da đỏ chỉ với một số tiền
rất rẻ, khoảng 60 guilder Hà Lan – tương đương khoảng 1.000 đô la Mỹ vào năm
2006 .Người Hà Lan đã lấy eo đất gần cửa sông Hudson làm trạm thương nghiệp gọi là
"Tân Amsterdam".
o Năm 1664 bị người Anh xâm chiếm, đổi tên là NewYork theo tên Công tước York và
Albany của Anh (sau là vua James II của Anh), nó được mở rộng địa giới sang các vùng
lân cận và các đảo dài, với nhiều cảng sông, cảng biển.
o Năm 1686 thành phố được xây dựng và trở thành thủ đô tạm thời của nước Mỹ vào
năm 1789.
3
o Đến năm 1796, New York chứng kiến lễ nhậm chức của vị tổng thống đầu tiên của nước
Mỹ là Tổng thống Washington. Hiện New York là một trong những thành phố lớn nhất
nước Mỹ, là một trung tâm tài chính, thương mại, văn hóa, kỹ thuật nổi tiếng thế giới.
2.2. Vai trò trung tâm tài chính đối với nền kinh tế của Mỹ

o Năm 2012, GDP của Mỹ là 15,6 nghìn tỷ USD, duy trì vị thế dẫn đầu của mình trên bảng
xếp hạng 10 nền kinh tế mạnh nhất thế giới kể từ năm 2000 đến nay. Trong khi đó,
Trung quốc đứng thứ 2 với 8,2 nghìn tỷ USD, Anh đứng thứ 6 với 2,6 nghìn tỷ USD.
Theo dự báo của CEBR, Mỹ sẽ vẫn tiếp tục giữ vững vị trí này đến năm 2022, tức 10
năm nữa.
o Hiện ở Mỹ, các ngành không trực tiếp sản xuất ra hàng hóa gồm thương mại, giao thông
vận tải, tài chính, ngân hàng đã tạo ra đến 70% GDP, trong khi tỷ trọng của các ngành
như nông nghiệp còn khoảng 3%; các ngành công nghiệp chế tạo truyền thống như dệt
may suy giảm từ những năm 1970.
o Đặc trưng của kinh tế Mỹ là có một thị trường vốn rất phát triển. Thị trường chứng
khoán Mỹ có tổng giá trị lên đến 45,4 ngàn tỉ đô la, tức gấp gần ba lần GDP của một
năm. Riêng giá trị của thị trường chứng khoán New York đã là 20.000 tỉ đô la, với hơn
2.000 công ty niêm yết, giao dịch có ngày lên đến hơn 2,5 tỉ cổ phiếu. Hơn một nửa dân
số Mỹ tham gia đầu tư tại các thị trường chứng khoán, trong khi đó sự hiện diện của các
nhà đầu tư nước ngoài cũng ngày càng tăng. Tính đến tháng 4-2005, các nhà đầu tư
ngoại quốc sở hữu 38% trái phiếu chính phủ Mỹ, 23% trái phiếu của các công ty Mỹ và
11% trái phiếu của các tổ chức, các quỹ của Mỹ.
o Các Trung tâm tài chính của Mỹ có thể kể đến như Philadelphia , Chicago, và nổi bật
trong những số đó là New York.
2.3. Vài nét về trung tâm tài chính – Ngân hàng New York
o New York là một trung tâm toàn cầu về thương mại và giao dịch quốc tế, cũng là một
trong ba "trung tâm tập quyền" kinh tế thế giới cùng với London và Tokyo. Theo Cinco
Dias, New York kiểm soát 40% tài chính thế giới tính đến cuối năm 2008, khiến nó trở
thành trung tâm tài chính lớn nhất thế giới.
o Nhiều công ty chính đã đặt tổng hành dinh tại Thành phố New York trong đó có 43 công
ty được xếp trong Fortune 500. New York cũng là nơi đặc biệt trong các thành phố Mỹ vì
có số lượng lớn các đại công ty nước ngoài.
o Thị trường Chứng khoán New York nằm trên phố Wall và NASDAQ. Hai trung tâm thị
trường chứng khoán này đại diện cho thị trường chứng khoán lớn thứ nhất và thứ hai
thế giới theo thứ tự vừa kể khi được tính theo số lần giao dịch trung bình hàng ngày và

tổng giá trị tư bản. Có Wall Street, New York City đã cạnh tranh với thành phố Luân Đôn
để trở thành trung tâm tài chính lớn nhất thế giới. Và nay NYSE đã làm được điều này
khi trở thành thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới nếu tính theo giá trị vốn hoá của
các công ty niêm yết. Nhiều giao dịch chứng khoán và tài chính quan trọng của Mỹ vẫn
tập trung tại Wall Street nói riêng và Financial District nói chung.
4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRUNG TÂM TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG NEW YORK
1. Cơ chế vận hành - một số cơ quan chính
Trung tâm tài chính – Ngân hàng New York vận hành theo chủ trương của Hoa Kỳ là tự
do hóa thương mại, đặt hệ thống thương mại đa phương vào trung tâm của các quan hệ
thương mại quốc tế của mình. Chính phủ không sử dụng các biện pháp can thiệp mang tính
mệnh lệnh, hành chính vào sự vận động của các dòng vốn tài chính để tạo ra những lực cản
cho sự vận động đó, nếu có sự can thiệp cũng phải bằng phương pháp kinh tế và thông qua
tương tác lợi ích của các lực lượng tham gia thị trường. Một số cơ quan chính của trung tâm tài
chính – Ngân hàng New York:
- Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED): Trong vai trò là Ngân hàng trung ương của nước
Mỹ, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được
xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và
ổn định hơn.
- Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC): cơ quan thuộc chính phủ Hoa Kỳ, có nhiệm vụ cơ
bản cưỡng chế thi hành luật chứng khoán liên bang và quản lí thị trường chứng khoán, ngành
công nghiệp chứng khoán. SEC có nhiệm vụ bảo vệ nhà đầu tư; duy trì thị trường công bằng,
trật tự, và hiệu quả; và đạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tạo vốn.
2. Vai trò của trung tâm tài chính – Ngân hàng New York
2.1. Đối với Mỹ
New York là nền kinh tế vùng lớn nhất Hoa Kỳ. Trong đó, trung tâm tài chính – Ngân
hàng New York với nhiều công ty đặt trụ sở chính tại đây trong đó có khoảng 43 công ty được
xếp trong Fortune 500, đây cũng là một nơi đặc biệt trong các thành phố Mỹ vì có số lượng lớn
các đại công ty ngoại quốc. Khu vực tài chính Lower Manhattan là nơi hội tụ của các cơ quan
quan trọng như ngân hàng Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ, các công ty môi giới, tài chính, Thị

trường chứng khoán New York – nơi phản ánh tình hình kinh tế Mỹ nằm trên phố
Wall và NASDAQ. Hai trung tâm thị trường chứng khoán này đại diện cho 2 thị trường chứng
khoán lớn của thế giới.
2.2. Đối với thị trường tài chính thế giới
Trung tâm tài chính – Ngân hàng New York là một trung tâm toàn cầu về thương mại và
giao dịch quốc tế, theo bảng xếp hạng 10 trung tâm tài chính hấp dẫn nhất thế giới mà
PricewaterhouseCoopers vừa công bố 2012 cho thấy mặc dù kinh tế toàn cầu suy giảm
cùng cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu khiến nhiều trung tâm tài chính thế giới lao đao
nhưng một lần nữa nước Mỹ vẫn chứng tỏ được vai trò đầu tàu kinh tế và New York vẫn là
trung tâm tài chính số 1 thế giới.
3. Đặc điểm và quy mô hoạt động
New York là một trung tâm toàn cầu về thương mại và giao dịch quốc tế, cũng là một
trong ba "trung tâm tập quyền" kinh tế thế giới cùng với London và Tokyo. Đây là một trung tâm
5
chính về tài chính, bảo hiểm, địa ốc và nghệ thuật tại Hoa Kỳ. Vùng đô thị New York có tổng sản
phẩm vùng đô thị được ước tính là 1,13 ngàn tỉ đô la Mỹ trong năm 2005, khiến nó trở thành
nền kinh tế vùng lớn nhất Hoa Kỳ và theo tuần báo IT Week, nền kinh tế thành phố lớn thứ hai
trên thế giới. Theo Cinco Dias, New York kiểm soát 40% tài chính thế giới tính đến cuối năm
2008, khiến nó trở thành trung tâm tài chính lớn nhất thế giới.
Nhiều công ty chính đã đặt tổng hành dinh tại Thành phố New York trong đó có 43 công ty được
xếp trong Fortune 500. New York cũng là nơi đặc biệt trong các thành phố Mỹ vì có số lượng
lớn các đại công ty ngoại quốc. Một trong mười việc làm thuộc lãnh vực tư nhân của thành phố
là với một công ty ngoại quốc.
Thị trường Chứng khoán New York nằm trên phố Wall là trung tâm thị trường chứng khoán đại
diện cho thị trường chứng khoán lớn thứ nhất thế giới theo số lần giao dịch trung bình hàng
ngày và tổng giá trị tư bản. Dịch vụ tài chính cung cấp khoảng trên 35% lợi tức từ việc làm của
thành phố. Địa ốc là một lực lượng chính trong nền kinh tế thành phố vì tổng giá trị của tất cả
các bất động sản của thành phố là 802,4 tỉ đô la Mỹ năm 2006. Trung tâm Time Warner là bất
động sản có giá trị thị trường được liệt kê là cao nhất trong thành phố với giá là 1,1 tỉ đô la Mỹ
năm 2006.

4. Hoạt động của trung tâm tài chính NewYork
4.1. Hệ thống ngân hàng
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) và Ngân hàng dự trữ liên bang New York là hai bộ phận đáng
chú ý nhất của hệ thống ngân hàng New York
FED là ngân hàng trung ương Mỹ có nhiệm vụ thực thi chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách
tác động các điều kiện tiền tệ và tín dụng với mục đích tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều
hòa lãi suất dài hạn, thời giám sát các ngân hàng và duy trì sự ổn định của nền kinh tế, kiềm
chế các rủi ro hệ thống có thể phát sinh trên thị trường tài chính.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York là một trong 12 ngân hàng khu vực của Cục Dự trữ Liên
bang Hoa Kỳ.Đây là ngân hàng khu vực quyền lực nhất của Cục dự trữ Liên bang.
Ngoài ra New York cũng là nơi đặt trụ sở hoặc có địa điểm hoạt động của nhiều ngân hàng lớn
và uy tín nhất trên thế giới, cả thuộc về Mỹ và nước ngoài.
4.2. Thị trường chứng khoán
Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE) là sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất
thế giới tính theo giá trị giao dịch và đứng thứ hai tính theo số lượng công ty niêm yết.
Ngày nay NYSE chiếm vị trí độc tôn lớn nhất thế giới với khoảng 2,800 công ty trị giá tổng
cộng trên $16 ngàn tỉ ($16 trillion) thời giá năm 2003.
Các vụ giao dịch trên NYSE được thực hiện theo phương thức đấu giá liên tục. Mỗi loại cổ
phiếu có một địa điểm giao dịch nhất định trên sàn. Phương thức đấu giá mở này đem lại hiệu
6
quả cao nhất, đồng thời giúp các nhà đầu tư có được mức giá công bằng nhất. Chính đặc điểm
xuất hiện sự tương tác trực tiếp giữa các nhà môi giới và sử dụng nhận định của các chuyên
gia trong việc đặt lệnh đã làm cho NYSE khác hẳn với các sàn giao dịch chứng khoán điện tử
khác.
4.3. Thị trường chứng khoán
Ngân hàng Dự trữ liên bang New York có trách nhiệm tiến hành các giao dịch trên thị
trường, mua và bán trái phiếu liên bang Hoa Kỳ dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thị trường của Cục
dự trữ liên bang ( Fed). Còn trách nhiệm phát hành trái phiếu liên bang là của Cơ quan quản lý
công nợ Hoa Kỳ.
4.4. Thị trường bảo hiểm

Ngành bảo hiểm Mỹ đã phát triển rất tinh vi, sản sinh ra nhiều loại mạng lưới phục vụ và
đa dạng hóa dịch vụ để phát triển hài hòa với một quốc gia đang ngày càng phức tạp, mà nổi
bật trong đó là thị trường New York. Giá trị bảo hiểm sức khỏe của người Mỹ hiện vượt mức
2.700 tỷ đô la, trong khi bảo hiểm cho nhà cửa tại Mỹ vượt mức 80.000 tỷ đô la.
(Bussinessinsurance.com). Có thể thấy tầm quan trọng của thị trường bảo hiểm New York đối
với nền kinh tế Mỹ nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung có sức ảnh hưởng lớn thế nào
qua những con số thống kê trên.
5. Tình hình tài chính thế giới
Tính đến tháng 8/2012, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu đã tròn 5 năm kể
từ “cột mốc đánh dấu thời điểm thay đổi thế giới” ngày 09/08/2007, nhưng tình hình tài chính-
kinh tế thế giới vẫn trong tình trạng phục hồi yếu ớt, bức tranh tổng thể vẫn khá u ám với những
điểm sáng mờ nhạt, Mỹ và các nước khu vực euro tiếp tục phải đối mặt với khó khăn tài chính,
trong khi đây được xem là 2 đầu tàu vực dậy nền kinh tế hậu khủng hoảng: Kể từ khi khủng
hoảng diễn ra, xu hướng toàn cầu hóa ngành tài chính- một trong những ngành thể hiện rõ nhất
xu hướng này, đã bị đảo ngược: cho vay xuyên quốc gia giảm mạnh trong khi tham vọng vươn
lên toàn cầu của các ngân hàng châu Âu và Mỹ bị thu hẹp. Nhìn lại 25 năm trước khi khủng
hoảng tài chính diễn ra, thế giới đã chứng kiến xu hướng toàn cầu hóa tăng lên mạnh mẽ.
Luồng vốn chu chuyển giữa biên giới các quốc gia tăng lên chóng mặt. Các nhà đầu tư Mỹ háo
hức rót tiền vào Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác trong khi các quỹ tài sản ở châu Á
và Trung Đông ồ ạt thâu tóm tài sản. Trong đó, mảng tăng trưởng mạnh nhất chính là hoạt động
cho vay xuyên quốc gia của các ngân hàng. Citibank thể hiện rõ tham vọng từ Manhattan cho
tới Manama, HSBC tự hào nhận họ là “ngân hàng toàn cầu am hiểu địa phương”. Tuy nhiên, kể
từ khi khủng hoảng diễn ra, xu hướng này bị đảo ngược: cho vay xuyên quốc gia giảm mạnh
trong khi tham vọng của các ngân hàng châu Âu và Mỹ bị thu hẹp. HSBC đã rút khỏi một số
nước trong khi Citibank bị vướng vào những vấn đề rắc rối khác, các ngân hàng lớn của châu
Âu phải chật vật tăng vốn theo Basel III. Các nhà làm luật ở Mỹ cũng đang gây sức ép buộc các
ngân hàng nước ngoài đang hoạt động ở đây phải thành lập các chi nhánh ở địa phương với
nguồn vốn riêng rẽ. Kể cả ở Liên minh châu Âu, nơi các ngân hàng được phép tự do hoạt động
ở các nước còn lại trong khối, họ bắt buộc phải thành lập chi nhánh.
6. Sự cạnh tranh của các trung tâm tài chính thế giới

7
New York không chỉ là quê hương của nhiều ngân hàng lớn, thị trường chứng khoán,
các công ty bảo hiểm mà còn là nơi nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài chọn làm địa điểm
hoạt động. Mặc dù kinh tế toàn cầu suy giảm cùng cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu khiến
nhiều trung tâm tài chính thế giới lao đao nhưng một lần nữa nước Mỹ vẫn chứng tỏ được vai
trò đầu tàu kinh tế và New York vẫn là trung tâm tài chính số 1 thế giới.
Thành phố New York, Mỹ đã trụ được qua cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong bảy thập
niên vừa qua để giữ vững vị trí trung tâm tài chính đứng đầu thế giới. Trong số các nhà đầu tư,
thương nhân và chuyên gia phân tích được thăm dò ý kiến có 29% đã bỏ phiếu chọn New York
là nơi tốt nhất trên thế giới về các dịch vụ tài chính trong vòng 2 năm tới.
Điểm vượt trội của New York hiện nay so với London là có khả năng giám sát tài chính
chặt chẽ hơn. Các nhà lập pháp của cả Mỹ và Anh đều đang tiến hành thiết kế lại hàng loạt quy
định về tài chính và tăng thuế sau khi cuộc khủng hoảng tín dụng và đợt suy thoái kinh tế đã
gây thiệt hại cho các hộ gia đình hàng ngàn tỉ đô la Mỹ và làm mất đi 10 triệu việc làm. Tuy
nhiên, các nhà đầu tư hy vọng chính quyền Mỹ dười thời Tổng thống Barack Obama sẽ chặt
chẽ hơn trong việc giám sát rủi ro so với chính quyền Anh dưới thời Thủ tướng Gordon
Brown.nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận sự kiểm soát chặt hơn để đổi lấy tính ổn định và thanh
khoản của thị trường.
Tuy nhiên vị trí số 1 của thị trường tài chính New York đang bị cạnh tranh mãnh mẽ bởi
các thị trường tài chính khác trên thế giới, điển hình là thị trường tài chính London, Tokyo, Hong
Kong và Singapo.
Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của trung tâm New York là thị trường London. Là một trung
tâm tài chính lớn và lâu đời trên thế giới, London có những lợi thế rất lớn trong cuộc cạnh tranh
này. Đầu tiên, trung tâm tài chính London là nơi nắm giữ lãi suất Libor, một lãi suất được sử
dụng rộng rãi nhất trên thị trường tài chính thế giới. Ngoài ra, London con có lợi thế về múi giờ
khi so sánh với New York trong mối quan hệ với các thị trường tài chính Châu Á. London chỉ
cách các nước Châu Á từ 4 đến 8 giờ, trong khi múi giờ Mỹ cách gần nửa ngày so với các
nước Châu Á.
Ngoài trung tâm London, các trung tâm tài chính lớn của Châu Á dần phát triển và đóng
vai trò quan trọng trên thế giới, cạnh tranh rất nhiều về thu hút các giao dịch tài chính trên toàn

thế giới, đặc biệt là tại thị trường Châu Á, nơi chiếm hơn 2/3 dân số thế giới.
7. Các chính sách của chính phủ Mỹ và ảnh hưởng đối với trung tâm tài chính New
York
Với những hoạt động tài chính nội địa và xuyên quốc gia sôi động, New York từ lâu đã
được mệnh danh là Trung tâm tài chính thế giới, là quê hương của nhiều ngân hàng lớn, thị
trường chứng khoán, các công ty bảo hiểm, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thăng trầm của
Trung tâm này cũng gắn liền với những đạo luật và chính sách tài chính Mỹ. Sau khủng hoảng
tài chính 2007, giới tài chính Mỹ quan tâm nhiều đến cụm từ “too big to fail” khi mà Chính phủ
Mỹ đã phê duyệt những chính sách tài chính chủ đạo với một loạt những quy định được đưa ra
nhằm đảm bảo những ngân hàng lớn bị cản trở về cả mục tiêu tăng trưởng và lợi nhuận, như
những quy định về phí, yêu cầu về vốn và quy định thương mại. Sự sụp đổ của những ông lớn
8
như Bear Stearns, Lehman Brothers, AIG, Fannie Mae, Countrywide Financial và các tổ chức
khác đã tạo ấn tượng xấu, các tổ chức tài chính hiện tại đang dần chuyển hoạt động của mình
ra khỏi New York và thậm chí ra khỏi nước Mỹ. Bằng chứng là Bank of America, Citigroup,
Goldman Sachs, JPMorgan Chase và Morgan Stanley đã phải đóng cửa chi nhánh, phân cấp
và tiến hành một số công việc khác để chuyển hoạt động ra nước ngoài. Trong khi đó BNY
Mellon, State Street và Northern Trust đã di chuyển các trung tâm giao dịch ra khỏi New York.
Hoạt động chuyển một số bộ phận sang các khu vực giá thấp sẽ phù hợp với chiến lược giữ
trung tâm đầu não ở Mỹ và chuyển sản xuất ra bên nước ngoài. Tuy nhiên, các ngân hàng Mỹ
đang làm nhiều hơn thế. Họ chuyển công việc ra nước ngoài. Trung tâm chăm sóc khách hàng
có thể chuyển sang Bangalore, London hay Hồng Kông.
Chính phủ Mỹ hiện đang ngày càng siết chặt các hoạt động tài chính của quốc gia này,
nhằm hạn chế các rủi ro tài chính có thể diễn ra.
Những thực trạng nêu trên đã hạn chế rất nhiều hoạt động của thị trường tài chính Mỹ,
trong đó quan trọng nhất là New York New York sẽ sớm để mất vị thế trung tâm tài chính hàng
đầu thế giới do các chính sách khá khắt khe của chính phủ Mỹ.
9
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1. Thực trạng kinh tế tài chính Thành phố Hồ Chí Minh

Năm 2012, dù phải đối diện bao thử thách khó khăn do chịu tác động chung của kinh tế
thế giới, TPHCM vẫn nỗ lực phát triển bằng nhiều biện pháp đồng bộ, hiệu quả, vẫn phát huy
vai trò đầu tàu, duy trì GDP gấp 1,8 lần so với cả nước. Mặc dù bị tác động và ảnh hưởng xấu
của tình hình kinh tế thế giới và những khó khăn trong nước, kinh tế thành phố năm 2012 tiếp
tục gặp nhiều khó khăn, thử thách, sức mua của thị trường giảm, hàng tồn kho tăng cao,
doanh nghiệp khó có điều kiện tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị
trường bất động sản hoạt động cầm chừng, trì trệ… đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đời sống nhân dân và kết quả thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội và thu chi ngân sách thành phố năm 2012.
1.1. Thực trạng các doanh nghiệp:
Chương trình bình ổn giá các mặt hàng thiết yếu chính là một trong những công cụ điều
tiết giá một cách hữu hiệu. Bên cạnh phát triển hệ thống phân phối, để giải quyết hàng tồn
kho, hỗ trợ cho doanh nghiệp rất nhiều hình thức với những khuyến mãi giảm giá, kích thích
tiêu dùng, những phiên chợ về nông thôn; bên cạnh đó, chúng tôi đẩy mạnh hàng hóa đưa vào
khu công nghiệp Hepza để góp phần đảm bảo an sinh xã hội, phục vụ cho công nhân lao động
nghèo. Tập trung tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh;
đảm bảo cân đối thu chi ngân sách, tập trung nguồn vốn cho các dự án quan trọng; giải quyết
việc làm là những việc TPHCM đã thực hiện tốt trong năm 2012. Tuy vậy, chúng ta cũng thấy
rõ rằng năm 2012 là một năm khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, doanh nghiệp bất động sản.
1.2. Thực trạng các ngân hàng:
Không chỉ có doanh nghiệp, lĩnh vực ngân hàng cũng phải đương đầu với nhiều khó
khăn và thách thức trong năm qua. Nổi bật là tình trạng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu khoảng 6,22%,
tăng 1,92 điểm phần trăm so với cuối năm 2011. Thị trường bất động sản và lĩnh vực sản xuất
kinh doanh gặp nhiều khó khăn là nguyên nhân cơ bản làm cho nợ xấu phát sinh và có xu
hướng gia tăng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình mở rộng và tăng trưởng tín dụng trên
địa bàn thành phố. Tuy nhiên, việc huy động vốn cũng đã lấy lại được đà tăng trưởng trong
những tháng cuối năm, tạo điều kiện chủ động trong việc khơi thông dòng vốn tín dụng đưa vào
sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thanh khoản của các ngân hàng. Trong đó hệ thống cơ chế
chính sách về tiền tệ, tín dụng và lãi suất, đặc biệt là chính sách tín dụng đối với 4 lĩnh vực ưu

tiên đã được thành phố triển khai bằng chương trình kết nối ngân hàng - DN trên địa bàn.
Kết thúc năm 2012 mặc dù những khó khăn cơ bản vẫn còn, nợ xấu, hàng tồn kho, khó
khăn từ thị trường hàng hóa, thị trường bất động sản và tính ổn định của nền kinh tế vĩ mô
chưa bền vững. Song với kết quả lạm phát dưới 7%, tăng trưởng GDP 5,03%, thị trường
ngoại tệ ổn định, xuất siêu, thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, lãi
suất giảm và dần ổn định, hoạt động tín dụng đang có dấu hiệu tăng trưởng trở lại.
10
2. Bài học kinh nghiệm và kiến nghị xây dựng thành phố Hồ Chí Minh thành trung
tâm tài chính
2.1. Xây dựng khung pháp lý
Việt Nam cần phải xây dựng hệ thống pháp lý chặt chẽ, rõ ràng, đảm bảo sự công khai,
minh bạch của thị trường cũng như quản lý được các rủi ro nhằm thu hút các nguồn vốn nước
ngoài. Sắp tới, để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế, đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng
hoàn thiện khung pháp lý cho các hoạt động mua bán, hợp nhất, sáp nhập, thị trường sản
phẩm phái sinh, thành lập các công ty mua bán nợ xấu, các tổ chức định mức tín nhiệm trên thị
trường chứng khoán … Đây được xem là các hoạt động tất yếu trong tiến trình phát triển thị
trường tài chính tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Hiệp Hội Thị trường trái phiếu cũng cần sớm hoàn
thiện trung tâm thông tin trái phiếu doanh nghiệp, xây dựng cẩm nang tư vấn phát hành trái
phiếu doanh nghiệp để hổ trợ thành viên thị trường trong việc phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
2.2. Lành mạnh hóa hoạt động các định chế tài chính
2.2.1. Ngân hàng thương mại
Tại Việt Nam, trong điều kiện hiện nay thì hệ thống các ngân hàng đang đóng vai trò
quan trọng, là động lực chủ yếu của quá trình tự do hoá tài chính. Hệ thống ngân hàng sẽ giữ
vai trò khơi thông, thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng thời là nhân tố chủ
chốt trong thị trường dịch vụ tài chính. Vì thế, muốn hình thành và phát triển một trung tâm tài
chính tại TP.HCM thì việc lành mạnh hoá các ngân hàng thương mại được đặt lên hàng đầu.
Trước mắt, các Ngân hàng cần tăng năng lực tài chính, đặc biệt là vốn chủ sở hữu đảm
bảo đạt tỷ lệ an toàn trên vốn là 9% theo quy định của Luật các Tổ chức Tín dụng và theo thông
lệ quốc tế thông qua phát hành trái phiếu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để tăng tích luỹ ngân

hàng thương mại cổ phần cần thúc đẩy huy động, sát nhập để tăng quy mô và tính chuyên
nghiệp đáp ứng yêu cầu cạnh tranh hội nhập.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng cần nhanh chóng thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại nợ, giải
quyết những khoản nợ tồn đọng, ngăn chặn nợ xấu phát sinh, nỗ lực thay đổi mục tiêu hoạt
động theo hướng Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế trong đó doanh thu dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ
yếu thông qua tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nhằm đa dạng hoá các sản phẩm, hình
thức huy động vốn, đổi mới công nghệ thanh toán như Internet banking, phone banking , từng
bước xây dựng mô hình tổ chức ngân hàng thương mại hiện đại, quản lý theo nhóm khách
hàng và loại dịch vụ của một ngân hàng đa năng.
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thiết lập và hoàn thiện các quy chuẩn về chỉ số an
toàn vốn, tích cực triển khai mô hình cung cấp và dự báo thông tin dựa trên những chuẩn mực
quốc tế. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ an toàn tín dụng, như tăng cường chất lượng dịch vụ
của Trung tâm thông tin tín dụng, thực hiện đánh giá tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, xây
dựng hệ thống cảnh báo sớm, đổi mới thủ tục theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng
cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2.2.2. Công ty chứng khoán
11
Trong điều kiện thị trường suy giảm như hiện nay, các công ty chứng khoán tăng năng
lực tài chính, ứng dụng công nghệ đảm bảo an toàn giao dịch, triển khai các sản phẩm mới như
chứng khoán phái sinh, thành lập các quỹ đầu tư … nhằm tăng tính thanh khoản của chứng
khoán, đồng thời tạo ra sự an toàn và ổn định cho thị trường. Uỷ ban chứng khoán cần đóng
vai trò tích cực giúp bình ổn thị trường chứng khoán.
2.2.3. Công ty bảo hiểm
Cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo
hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết
bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Phát triển nhiều sản
phẩm mới ngoài những sản phẩm truyền thống, phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm
qua đại lý và môi giới bảo hiểm, cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục bán bảo hiểm, giám
định tổn thất và bồi thường nhanh gọn chính xác.
2.3. Tiến hành tự do hóa hoạt động tài chính

- Tự do hoá dựa trên cơ sở tăng tiềm lực cạnh tranh của nền kinh tế và các chủ thể, cần
có sự phối hợp chặt chẽ, hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất, phù hợp với
thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục
chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, có sự quản lý để đảm bảo sự ổn định của tỷ giá hối đoái,
góp phần phát triển kinh tế.Chính sách lãi suất cần được linh hoạt để phản ánh trung thực hơn
quan hệ cung cầu, không nên quá nôn nóng muốn kiềm chế lạm phát mà thắt chặt quá mức
chính sách tiền tệ, đưa ra các quy định mang tính hành chính đối với các hoạt động của Ngân
hàng thương mại, gây khó khăn cho khả năng thanh khoản và rủi ro cho hệ thống này.Với thực
tế tại Việt Nam, nguyên tắc an toàn cần ưu tiên hàng đầu, sau mới đến nguyên tắc đảm bảo
khả năng sẵn sàng thanh toán và sinh lời. Vì vậy Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần có dự trữ
ngoại tệ đủ mạnh đểtạo được niềm tin cho dân chúng và nhà đầu tư. Việc tăng dự trữ cần song
song với tăng hiệu quả quản lý.
Tự do hoá cần tiến hành theo lộ trình: Quá trình phát triển của trung tâm tài chính New
York cũng bao gồm các cuộc khủng hoảng, trong đó có nhiều cuộc khủng hoảng có nguồn gốc
từ tác động từ bên ngoài do những mặt tráicủa quá trình hội nhập quốc tế ngày càng cao. Hiện
nay, Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, thị trường tài chính còn đang ở giai đoạn sơ
khai, khả năng đối phó còn hạn chế chế, kinh nghiệm điều hành của các nhà quản lý còn thiếu,
sức cạnh tranh của các chủ thể trên thị trường còn kém. Nếu mở cửa quá nhanh, đột ngột, các
chủ thể kém phát triển phải đối mặt với sức ép cạnh tranh khốc liệt. Vì thế, trong giai đoạn hiện
nay, tự do hoá tài chính phải tiến hành theo lộ trình, bước đi chủ động, thận trọng và hiệu quả,
duy trì và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế bền vững.
Tự do hoá trên cơ sở quản lý thông tin, có điều hành của Chính quyền: Sau các cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, quá trình tự do hoá tài chính đã được tiến hành thận
trọng hơn. Diễn biến nóng lạnh trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua, cũng đã
cảnh báo cần phải có những giải pháp thận trọng trong quá trình tự do hóa tài khoản vãng lai
đến tự do hóa tài khoản vốn. Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu quản lý thông tin, thống kê cả đầu
vào và đầu ra. Từ đó, đánh giá tác động của dòng vốn đó đối với cung cầu vốn và ngoại tệ ở thị
trường trong nước, dự báo xu thế để có các giải pháp kịp thời trước những biến động lớn. Có
12
hệ thống giám sát tài chính hiệu quả, nhằm ngăn chặn những khoản đầu tư quá nhiều rủi

ro.Trong giai đoạn đầu hình thành của thị trường chứng khoán, các chính sách, biện pháp quản
lý không được tùy tiện nhưng cũng không nên cứng nhắc trong cả giai đoạn dài.Uỷ ban chứng
khoán cần nâng cao năng lực giám sát thông qua việc thành lập một ban giám sát riêng để xử
lý các hoạt động tuân thủ bên cạnh chức năng giám sát của các ban chuyên môn; đầu tư hệ
thống giám sát; tập trung đào tạo cán bộ giám sát. Trong thời gian tới, Uỷ ban chứng khoán cần
sớm hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối tượng tham gia thị trường…
2.4. Bảo đảm công bằng
2.4.1. Thông tin công khai, minh bạch:
Tự do hoá là bước đi cần thiết để hội nhập với kinh tế thế giới, tuy nhiên, trong quốc gia
có hệ thống tài chính chưa phát triển, năng lực cạnh tranh của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài
chính rất thấp, tự do hoá tài chính đồng nghĩa với việc dỡ bỏ những bảo hộ, những ưu đãi vốn
có cho các chủ thể cung cấp dịch vụ trong nước. Sự chênh lệch về trình độ giữa các chủ thể
trong và ngoài nước quá lớn thì tự do hoá tài chính sẽ là một thảm hoạ đối với hệ thống tài
chính và nền kinh tế quốc gia. Tuy không tự tạo ra khủng hoảng nhưng tự do hoá vạch ra, làm
nổi rõ những yếu kém vốn có của hệ thống này tài chính như: năng lực cạnh tranh kém của các
chủ thể tham gia, sự hạn chế về năng lực của chính phủ trong điều hành nền kinh tế thị trường,
sự thiếu hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật. Điều này có thể dẫn đến khủng hoảng. Vì thế, các
chính sách và việc thực hiện chúng phải đảm bảo sự bảo vệ nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư
nhỏ nhưng không làm cản trở, hạn chế hoạt động của các định chế tài chính. Hay nói cách
khác, các chính sách cần hướng tới các chủ thể yếu thế trên thị trường trong quá trình thúc đẩy
sự phát triển chung, tạo ra sự công bằng trên thị trường. Về công tác phát triển các nhà đầu tư,
Uỷ ban chứng khoán nên hướng các quy định vào việc bảo vệ nhà đầu tư nhỏ- một lực lượng
đông đảo nhưng dễ bị tổn thương trứơc những biến động của thị trường. Trong lĩnh vực ngân
hàng, độ mở của thị trường tài chính rất cao khi không có sự quản lý ngoại hối, có một cơ chế
tự do với ngân hàng nước ngoài và quyền sở hữu tài sản.
2.4.2. Hệ thống thuế rõ ràng, đơn giản:
Hiện nay, Việt Nam đang có một hệ thống ưu đãi thuế vô cùng phức tạp với mục tiêu
thúc đẩy đầu tư nói chung và tại các khu vực, các lĩnh vực và các hoạt động khuyến khích đầu
tư nói riêng. Điều này gây khó khăn trong quản lý thuế cũng như tạo điều kiện cho những tiêu
cực. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần cải thiện hệ thống thuế cho phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát

triển của thị trường tài chính. Cụ thể, cần tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải
cách hệ thống hiện hành nhằm làm cho cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh
tranh; rút ngắn và đơn giản hóa một số ưu đãi thuế và chỉ duy trì một số ít các loại hình ưu đãi
nhằm phục vụ một vài mục đích cụ thể. Các hình thức ưu đãi chỉ nên hạn chế trong một số hình
thức như giảm tạm thời thuế thu nhập doanh nghiệp cho một số vùng đặc biệt khó khăn và một
số lĩnh vực mang tính chiến lược. Đơn giản hoá hệ thống thuế là giảm gánh nặng hành chính
đối với các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý thuế.
Riêng trong lĩnh vực chứng khoán, thuế cần tập trung điều chỉnh đối với hoạt động giao
dịch chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu theo nguyên tắc: Khuyến khích
đầu tư dài hạn hơn ngắn hạn, khuyến khích các giao dịch trên thị trường chính thức hơn là các
13
giao dịch trên thị trường OTC. Đối tượng chịu điều chỉnh của chính sách thuế cần không phân
biệt nhà đầu tư là tổ chức hay cá nhân, nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, nhà đầu tư có
hiện diện hay không hiện diện tại Việt Nam, nhằm góp phần kiểm soát dòng vốn, hướng tới
công khai minh bạch, tạo thuận lợi và khuyến khích phát triển thị trường chính thức, thu hẹp thị
trường không chính thức.
2.5. Các chủ thể kinh tế chủ động hội nhập
2.5.1. Chủ động áp dụng các tập quán, thông lệ quốc tế, quy định được thừa nhận
rộng rãi
Một trung tâm tài chính không thể thiếu các doanh nghiệp mạnh- nơi tạo ra hàng hoá là
các công cụ tài chính và tạo ra nguồn vốn đầu tư cho trung tâm tài chính ấy. Vì vậy, Việt Nam
nên ban hành thêm luật hoạt động ngân hàng, kế toán, kiểm toán theo chuẩn quốc tế để có thể
hội nhập và hợp tác tốt hơn với các thị trường tài chính trên thế giới.
2.5.2. Các chủ thể trên thị trường chủ động gắn kết, hội nhập với thị trường và thế giới
Đây là điều kiện thuận lợi để mọi chủ thể trên thị trường tài chính giao lưu, hợp tác, liên
kết với các đối tác nước ngoài. Việt Nam nên thành lập và phát triển các mối quan hệ gần gũi
với thị trường toàn cầu, quốc tế hóa sâu sắc hơn rất nhiều so với nhiều trung tâm tài chính lớn
nhất là khu vực Đông Nam Á, rồi sau đó là Châu Âu và Mỹ. Thành phố Hồ Chí Minh nên
khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng cạnh tranh “thắng- thắng”- kiểu cạnh tranh kết hợp với
hợp tác, cả hai đều có thể cùng tồn tại, mạnh lên và đều thu được lợi ích riêng phù hợp với

mục tiêu phát triển của mình. Sự liên kết kinh tế liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, có thể
thực hiện theo hai hướng: Giữa các doanh nghiệp cùng ngành với nhau; Giữa các doanh
nghiệp với các doanh nghiệp ngành khác. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc phát triển đồng bộ
lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, thuế… nhằm tránh sự đỗ vỡ hệ thống, ảnh hưởng xấu đến
thị trường tài chính.
2.5.3. Đơn giản và giảm thời gian làm thủ tục liên quan tới hoạt động đầu tư:
Thời gian cấp phép đầu tư ở Việt Nam đã giảm xuống 5 ngày (từ ngày 15/02/2008 theo
quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư), tuy vậy, các thủ tục và giấy phép, bước đăng ký còn
rườm rà. Kinh nghiệm của Ấn Độ, Thái Lan có thể là những giải pháp hay. Việc xin phép đầu tư
ở Ấn Độ rất đơn giản nhờ hệ thống đăng ký điện tử (trực tuyến) còn chính quyền Thái Lan trao
thẩm quyền cấp phép đầu tư cho một số văn phòng xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Nhà đầu tư
sau khi tiếp xúc với văn phòng xúc tiến của Thái Lan gần nhất để tìm hiểu thông tin và cơ hội
kinh doanh, nếu có nguyện vọng có thể làm thủ tục tại ngay nơi đó. Thành phố Hồ Chí Minh có
thể áp dụng phương pháp đăng ký trực tuyến cho việc đăng ký giấy phép kinh doanh, thay đổi
thủ tục pháp lý của doanh nghiệp.
2.5.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh cũng cần đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt phát triển hạ tầng các
khu công nghiệp chế xuất (đường xá, hệ thống điện, cấp thoát và xử lý nước ) và hạ tầng
công nghệ thông tin và truyền thông. Vốn đầu tư có thể từ phát hành trái phiếu chính quyền địa
14
phương, trái phiếu công trình trên cơ sở đảm bảo hiệu quả, cân đối thu chi để huy động vốn
trung, dài hạn và bước đầu tạo hàng hóa cho thị trường vốn của thành phố.
Đồng thời, chính quyền thành phố cần có cơ chế thu hút đầu tư vốn, công nghệ vào
ngành thương mại, dịch vụ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương. Hội nhập không
thể tách rời khỏi công tác đào tạo nhân lực. Vì vậy, chính quyền thành phố cần khuyến khích,
thúc đẩy phong trào học ngoại ngữ. Đây không chỉ tạo cơ sở cho việc xây dựng Hồ Chí Minh
thành trung tâm tài chính mà còn giúp tăng khả năng thu hút, hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài
bởi ngoại ngữ hiện nay vẫn là điểm yếu lớn của lao động Việt Nam. Cần đẩy mạnh phát triển
nguồn nhân lực cho thị trường vốn; thu hút, tập trung được nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân
lực trình độ cao hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng thông qua các chính sách ưu

đãi. Bên cạnh đó, cũng cần tự đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao thông qua phát triển
các cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, thông qua đào tạo nhân lực để chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao sang thương mại, dịch vụ chiếm đa
số.
15

×