Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Công cụ kinh tế quản lý chất thải rắn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.41 KB, 7 trang )

Công cụ kinh tế quản lý chất thải rẵn
Chất thải rắn đô thị (MSW- Municipal Solid Waste) là một loại chất thải rắn tổng
hợp ở khu vực đô thị, bao gồm có chất thải sinh hoạt của các hộ gia đình thải ra,
chất thải rắn của các hoạt động thương mại và dịch vụ, chất thải của các hoạt động
công nghiệp, chất thải rắn từ hoạt động xây dựng, chất thải rắn bệnh viện vv…
chúng có một đặc thù riêng và đang trở thành vấn đề quan tâm đặc biệt của nhiều
quốc gia trên thế giới trong việc thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng và chôn
lấp. Và vấn đề ô nhiễm do chất thải rắn gây ra cần có những công cụ kinh tế hiệu
quả giải quyết.
Phương pháp kinh tế áp dụng cho các chính sách về môi trường ngày nay đang
được áp dụng rộng rãi trong hầu hết các quốc gia công nghiệp hoá. Phương pháp
này nhấn mạnh sự ích lợi của các công cụ kinh tế (EI) được dùng để thay đổi thái
độ của con người thông qua cơ chế về giá cả. Các công cụ kinh tế được đưa vào
nền kinh tế để sữa chữa các sai lầm của thị trường và nó thích ứng tốt với phương
pháp chi phí và lợi ích về nguyên lý quản lý. Tuy nhiên các EI không thể làm giảm
nhẹ khó khăn về mặt sai lạc thông tin và đòi hỏi sự triển khai cẩn thận, chú ý đến
hiệu quả của hệ thống và nhu cầu quản lý tổng hợp. Một loạt các công cụ kinh tế
khác nhau để quản lý chất thải rắn được áp dụng trên thế giới là: thuế và phí môi
trường; giấy phép chất thải có thể mua bán hay “cota ô nhiễm” ; ký quỹ môi
trường; trợ cấp môi trường; nhãn sinh thái.
1
1. Thuế và phí môi trường
1.1 Thuế ô nhiễm môi trường:
Về mặt lý thuyết, thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân
và pháp nhân cho nhà Nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định,
nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Thuế ô nhiễm môi trường là loại thuế thu
được từ các hoạt động sản xất kinh doanh gây ra ô nhiễm môi trường. Loại
công cụ này được sử dụng nhằm: một mặt tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước, mặt khác hạn chế hoặc ngăn chặn tác nhân gây ô nhiễm môi trường tại các
đô thị và khu công nghiệp và đảm bảo công bằng xã hội. Đây là công cụ hữu hiệu
có tác dụng điều hoà trực tiếp các quan hệ lợi ích giữa xã hội và doanh nghiệp. Từ


đó làm lành mạnh các quan hệ xã hội, đồng thời khuyến khích ý thức tiết kiệm,
giảm bớt sự lãng phí trong quá trình khai thác sử dụng nguồn tài nguyên thiên
nhiên và tăng cường biện pháp bảo vệ môi trường. Để phát huy tối đa công cụ tính
thuế chúng ta cần coi trọng hai hình thức thu gián tiếp và thu trực tiếp. Việc tính
thuế phải dựa trên cơ sở xác định các yếu tố đầu vào hoặc dựa trên các yếu tố đầu
ra. Xác định các yếu tố đầu vào của sản xuất hoặc dịch vụ, nguyên nhân có thể gây
ô nhiễm môi trường để tính thuế có tác dụng điều chỉnh các hoạt động sản xuất
kinh doanh theo hướng tích cực, tạo ra sự hài hoà giữa lợi ích của xã hội và các
doanh nghiệp.
Cho tới nay trên thế giới đã xuất hiện một số loại thuế ô nhiễm môi trường
hoặc các loại thuế liên quan đến bảo vệ môi trường. Loại thuế đầu tiên là thuế
Pigou đưa ra năm 1920. Với mục đích của việc thu thuế là nhằm thu hẹp khoảng
cách giữa chi phí cá nhân (MC) biên và chi phí xã hội (MSC) biên. Phương pháp
chủ yếu là đánh thuế vào từng đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm môi trường.
Gọi T là mức thuế đánh vào 1 đơn vị chất thải rắn
T=MSC-MC
Theo Pigou, mức thuế ô nhiễm môi trường phải được xác định theo sản lượng hàng
hoá, nó có liên quan đến quy mô sản xuất và lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp. Do
vậy, để đảm bảo tối đa hoá lợi ích xã hội, doanh nghiệp phải điều chỉnh quy mô
sản xuất ở mức tối đạt sản lượng tối ưu (doanh nghiệp phải tính tới chi phí môi
2
trường). Nếu một doanh nghiệp nào đó sản xuất ra một sản lượng sản phẩm hảng
hoá nhỏ hơn mức sản lượng tối ưu, thì doanh nghiệp không thu được lợi nhuận tối
đa. Ngược lại nếu mức sản lượng của doanh nghiệp lớn hơn mức tối ưu, khi đó lợi
nhuận của cận biên mà hãng thu được do việc sản xuất thêm đó sẽ nhỏ hơn mức
thuế t
*
mà doanh nghiệp phải trả cho đơn vị sản phẩm thêm đó và việc này làm cho
lợi nhuận doanh nghiệp giảm xuống. Do đó để tối đa hoá lợi ích, doanh nghiệp
phải tự điều chỉnh tới quy mô sản lượng ở mức sản xuất tối ưu.

Thu phí là việc thu lại khoản chi phí mà xã hội phải bỏ ra để khắc phục các hậu
quả về môi trường do chi phí ngoại ứng biên gây ra sẽ có tác dụng không chỉ tăng
thu cho ngân sách mà còn kích thích các doanh nghiệp tìm kiếm các giải pháp hạn
chế tối đa các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.
Vấn đề đặt ra đối với việc xác định mức thuế ô nhiễm là: một mặt cần khuyến
khích các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, không ngừng tăng lợi nhuận; mặt khác
phải thực hiện các giải pháp về bảo vệ mội trường. Trong thực tế, việc thực hiện
thu thuế gặp rất nhiều khó khăn do việc lựa chọn các chỉ tiêu thích ứng với từng
loại sản phẩm của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Tính thuế gây ô nhiễm dựa trên các nguyên tắc sau:
Tính thuế theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả
Tính thuế dựa vào khối lượng tiêu thụ các nguyên, nhiên vật liệu đầu vào
Tính thuế dựa vào lợi nhuận của doanh nghiệp
Tính dựa vào khối lượng sản phẩm được sản xuất ra
Tính thuế theo mức độ gây ô nhiễm môi trường
Tính thuế theo công thức tổng quát
Vấn đề đặt ra là nhà nước phải chọn được phương pháp tính sao cho hợp lý đem lại
lợi ích tối đa cho xã hội.
1.2 Phí ô nhiễm môi trường:
Phí là khoản thu của nhà nước, để bù đắp một phần các chi phí cho công tác bảo
vệ và quản lý môi trường, đảm bao cho cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người nộp
phí. Như vậy, khác với thuế ô nhiễm môi trường, phần lớn nguồn thu từ phí sẽ
3
được sử dụng cho công tác bảo vệ môi trường và quản lý môi trường, giải quyết
một phần các vấn đề môi trường do những người đóng phí gây ra.
Phí xả thải là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế của người sản xuất. Đây là
một dạng thuế pigou. Để xác định mức phí tính trên mỗi đơn vị chất thải rắn, người
ta phải căn cư vào chi phí cần thiết để làm giảm đơn vị ô nhiễm đó. Khi áp dụng
phí xả thải, người gây ô nhiễm sẽ có phản ứng phù hợp để nhằm tối thiểu hoá chi
phí của mình. Để đạt một mức thải xác định nào đó, thì Nhà nước cần quy định

mức phí thải đúng bằng với chi phí giảm thải cận biên và bằng với chi phí thiệt hại
cận biên theo công thức sau:
F=MAC=MDC
Tuy nhiên trên thực tế áp dụng công thức này, cũng giống như chuẩn mức thải hay
công cụ thuế, do không có đủ thông tin vể MAC và MDC nên mức phí quy định có
thể cao hơn hoặc thấp hơn phí F và vì thế mà mức thải cuối cùng không chùng với
mức tối ưu.
2. Trợ cấp môi trường
Trợ cấp thường đựơc sử dụng trong những trường hợp ở những khu vực mà ở đó
khó khăn đáng kể về kinh tế. Trợ cấp của nhà nước để xử lý ô nhiễm môi trường
do chất thải rắn. Nguyên nhân là trong các hoạt động này lợi ích cá nhân thường
thấp hơn lợi ích xã hội, do đó chi phí mà các cá nhân chấp nhân bỏ ra để tiến hành
các hoạt động trên không đạt mức cần thiết đối với xã hội. Nhà nước có thể điều
chỉnh mức độ hoạt động của cá nhân về đến mức hiệu quả xã hội thông qua mức
trợ cấp được xác đính đúng bằng chênh lệch giữa lợi ích cận biên xã hội và lợi ích
cận biên cá nhân
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cụ thể, trợ cấp của Nhà nước không đạt mức
hiệu quả mong muốn, nhất là đối với các hoạt động mà lợi ích cá nhân mâu thuẫn
với lợi ích xã hội. Trong các doanh nghiệp nếu không có sự dám sát chặt chẽ của
các cơ quan chức năng thì hạch toán sẽ không được hạch toán vào toàn bộ chi phí
giảm ô nhiễm, mà một phần sẽ được dùng để hạ thấp chi phí cá nhân trong sản
xuất nhằm tăng lợi nhuận. Kết quả là trợ cấp không làm giảm ô nhiễm đến mức tối
4
ưu của xã hội mà lại kích thích tăng số lượng doanh nghiệp gây ô nhiễm và tổng
mức ô nhiễm có thể tăng lên.
3. Hệ thống đặt cọc- hoàn trả và việc tái sử dụng rác thải rắn
Đặt cọc hoàn trả là người tiêu dùng phải trả một khoản tiền cho chủ cửa hàng khi
mua sản phẩm mà sau đó có thể tái chế, tái sử dụng (như bia, nước ngọt đựng trong
trai thuỷ tinh, ắc quy ô tô…) khoản tiền này sẽ được hoàn lại nếu sau đó, người
tiêu dùng đem trả lại đồ thuỷ tinh, ác quy ôtô… cho cửa hàng hoặc một điểm thu

gom nào đó để tái chế, tái sử dụng.
Việc phải đặt cọc và có thể nhận lại tiền đã tạo ra chi phí cá nhân bổ sung của việc
vứt rác, đó là chi phí cơ hội của việc không lấy lại được tiền. Mức tiền có thể được
hoàn lại cho mỗi đơn vị thải là dành đã làm cho chi phí vứt rác tăng lên một khoản
là d. Và như vậy, với chi phí thải rác cao hơn, các cá nhân sẽ giảm mức thải và
tăng mức tái sử dụng đến mức tối ưu xã hội.
Hệ thống đặt cọc hoàn trả còn tạo ra một thị trường tái sử dụng. Ở nhiều nơi, Nhà
nước và tư nhân cũng như rất nhiều lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức
chuyên môn hoá vào hoạt động thu gom, mua bán và vận chuyển vật liệu có thể tái
sử dụng. khi thị trường này lớn hơn và hiệu quả hơn thì cầu về vầt liệu tái sử dụng
sẽ tăng lên so với cầu về vật liệu nguyên chất, vì thế sẽ làm tăng tác động tích cực
đối với môi trường.
4. Ký quỹ bảo vệ môi trường
Ký quỹ bảo vệ môi trường là việc cá nhân hay tổ chức trước khi tiến hành hoạt
động sản xuất hay kinh doanh được xác định là gây ra những thiệt hại cho môi
trường phải có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quí họăc các giấy
tờ trị giá được bằng tiền vào tài khoản phong toả tại một tổ chức tín dụng nào đó
đảm bảo nghĩa vụ phục hồi môi trường do hoạt động sản xuất hay kinh doanh gây
ra theo quy định của pháp luật. Số tiền ký quỹ phải lớn hơn hoặc xấp xỉ với kinh
phí cần để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái
môi trường. Trong quá trình hoạt động đầu tư sản xuất, nếu cơ sở có các biện pháp
chủ động khắc phục, không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái ra môi trường đúng
như cam kết, thì số tiền ký quỹ sẽ được hoàn trả lại cho doanh nghiệp. Nếu doanh
5

×