Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Vận dụng quan điểm của triết học mac lenin vào việc phát huy nguồn nhân lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyên nam đông tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.55 KB, 76 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Vấn đề con người là vấn đề trung tâm và quan trọng trong lịch sử triết
học. Đó là vấn đề mà các nhà triết học từ thời cổ đại, từ đông sang tây luôn
quan tâm và đề cập đến. Với tính cách là một khoa học chung nhất, triết
học Mác - Lênin nghiên cứu con người một cách toàn diện trong tính hệ
thống của nó, đồng thời cũng làm rõ bản chất con người một cách toàn diện
và triệt để. Triết học Mác - Lênin luôn khẳng định vai trò và sức mạnh của
con người trong sự phát triển và tiến bộ xã hội. Con người là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử, con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội.
Trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử thì con người vẫn luôn là nguồn lực
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ( CNH, HĐH ) đất nước hiện
nay đòi hỏi phải có sự huy động tổng hợp các nguồn lực. Trong đó yếu tố
quan trọng hàng đầu giữ vai trò quyết định đó chính là nguồn lực con
người. Phát triển con người là chìa khóa thành công trong giai đoạn mới.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới của đất nước cho thấy: Nguồn lực con người
là yếu tố quan trọng của sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững. Việc phát
huy nhân tố con người, khơi dậy tiềm năng vô tận của con người là nhân tố
quyết định thắng lợi trên con đường xây dựng xã hội theo mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH đất nước với mục tiêu đi tắt
đón đầu về khoa học, công nghệ thì cần phải phát triển nguồn lực con người.
Việc phát triển nguồn lực con người được đặt ra như là một trong những
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vừa cấp bách vừa lâu dài. Như lời nhận
định trong nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt
Nam: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn lực to lớn của
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của quá trình CNH, HĐH.
1
Nam Đông là một huyện của tỉnh thừa thiên huế cùng với cả nước
trong tiến trình CNH, HĐH, huyện đã tiến hành CNH, HĐH nhằm trang bị


cơ sở kĩ thật cho sự phát triển của huyện nhà. Trong những năm qua, huyện
đã đạt được một số thành tựu khả quan về kinh tế, chính trị và xã hội. Bên
cạnh đó, huyện còn tồn tại nhiều bất cập chưa tương xứng với yêu cầu và
tiềm năng phát trển của huyện. Một trong những khó khăn của huyện là
nguồn lực con người còn bị hạn chế so với sự phát triển kinh tế - xã hội
của huyện nhà. Thực tế nguồn lực con người ở huyện Nam Đông chưa
được phát huy và sử dụng có hiệu quả như: Tình trạng thất nghiệp, thiếu
việc làm, việc làm không thường xuyên…còn khá phổ biến. Hơn nữa tiềm
năng quan trọng của nguồn lực trí tuệ, văn hóa truyền thống vẫn chưa được
phát huy đầy đủ. Đây được xem là vấn đề cấp bách và lâu dài đồng thời
cũng vừa là vấn đề nhạy cảm của huyện nhà.
Vì vậy, việc nghiên cứu nguồn lực con người và vai trò của nó đối với
sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước nói chung và của huyện Nam Đông nói
riêng có ý nghĩa cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với các lý do như
trên tôi đã chọn đề tài “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người
và sự vận dụng trong việc phát huy nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên
Huế”.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong những năm trở lại đây có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài
con người và vận dụng trong việc phát huy nguồn lực con người trong quá
trình CNH, HĐH. Trong số đó có các công trình tiêu biểu sau:
PGS Mai Quốc Chánh – PTS Phan Công Nghĩa (2000): Nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất nước; Nxb Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), về phát triển con người CNH,
HĐH, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
2
Vũ Bá Thể (2005), phát huy nguồn lực con người CNH, HĐH, Nxb
Lao động - xã hội, Hà Nội.

TS Lưu Bích Ngọc (2001): Nguồn nhân lực con người cho thời kì
CNH, HĐH ở Việt Nam; Tạp chí kinh tế và phát triển số 47.
Phạm Công Nhân ( 2008): Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế; Tạp chí cộng sản số 786.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành
như: Tạp chí triết học, tạp chí nghiên cứu con người, tạp chí lý luận - chính
trị, tạp chí cộng sản cũng đề cập đến vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu, những bài viết trên có giá trị khoa học cao,
phân tích một cách sâu sắc, khái quát từng khía cạnh về con người cũng
như nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào
nghiên cứu và vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin trong việc
phát huy nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở huyện Nam
Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích:
Đề tài làm rõ quan điểm về con người trong triết học Mác - Lênin.
Đánh giá việc vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin trong
việc phát huy nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở huyện
Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nhiệm vụ:
Làm rõ khái niệm nguồn lực con người, những nhân tố tác động đến
sự phát triển kinh tế - xã hội đối với CNH, HĐH ở huyện Nam Đông - Tỉnh
Thừa Thiên Huế.
Phân tích, đánh giá thực trạng, những nguyên nhân, khuyết điểm của
huyện để đưa ra những giải pháp thích hợp và cụ thể.
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
3
Đề tài này dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp

quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam, những chính sách của
nhà nước về việc phát huy nguồn lực con người trong quá trình CNH,
HĐH.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài vận dụng các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật với
những nguyên tắc khách quan, toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm
lịch sử cụ thể. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp: Diễn giải, phân tích
tổng hợp, logic - lịch sử.
5.Đóng góp của khóa luận.
Khóa luận làm rõ việc phát huy nguồn lực con người vào quá trình
CNH, HĐH ở huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đề tài là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Đề tài là những gợi ý góp phần trong việc vận dụng quan điểm của
triết học Mác - Lênin trong việc phát huy nguồn lực con người trong quá
trình CNH, HĐH ở huyện Nam Đông - Tỉnh Thừa Thiên Huế.
6.Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo thì nội dung của khóa
luận gồm có 2 chương, 6 tiết với 74 trang.
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1.Các quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước Mác.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, triết học có nhiều quan điểm về
vấn đề con người. Trước Mác các nhà triết học đã chú ý nghiên cứu về bản
chất con người. Song trong quan niệm của họ, kể cả duy tâm và duy vật
đều có những sai lầm và khiếm quyết, không đầy đủ, không nhận thức đúng
bản chất con người.
Trong quá trình phát triển của của các quốc gia phương đông đã hình
thành nên những hệ thống triết học với những quan điểm và lập trường

khác nhau. Với đặc trưng là “ hướng nội ” nên những vấn đề con người, xã
hội loài người là những vấn đề được các nhà triết học, các trường phái triết
học quan tâm, hướng sự chú ý nhiều hơn cả.
Quan điểm về con người trong triết học phương đông đã hình thành
rất sớm và được thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ VI trước công
nguyên (TCN). Với tính đa dạng, phong phú của mình, quan niệm về con
người được phân tích, nghiên cứu một cách sâu sắc trong triết học Ấn Độ
và Trung Quốc mà tiêu biểu là các quan niệm của phật giáo và nho giáo.
Trong triết học phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc
(vật chất và tinh thần). Đời sống con người ở trần gian chỉ là ảo giác hư vô.
Vì vậy, cuộc đời con người là phải hướng tới cõi niết bàn. Trong quá trình
tồn tại, người nào cũng có tính trần tục và phật tính. Trần tục chính là tham,
sân, si, là vô minh, ái dục. Phật tính là tính giác ngộ về cõi niết bàn, về cõi
chân như.
Đây chính là điểm khác nhau cơ bản giữa người và vạn vật. Với quan
niệm trên, phật giáo thừa nhận bản tính con người vốn có cái ác và cái
5
thiện. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi niết bàn, nơi tinh thần con
người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Theo quan điểm của triết học phật giáo, cũng như trong quá trình tồn
tại, cuộc đời con người thì chính bản thân con người quyết định qua quá
trình tạo nghiệp. Tạo nghiệp thiện chính là từng bước xóa bỏ tham, sân, si,
từng bước xóa bỏ vô minh, loại trừ ái dục.
Triết học nho giáo chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng Kinh Dịch.
Theo tư tưởng này, lúc âm - dương phân định, thanh khí làm trời, trọng khí
làm đất, con người và vạn vật đều chịu sự chi phối của mệnh trời, nhưng
con người có thể cải thiện nó qua hoạt động tu dưỡng của mình trong cuộc
sống. Hiểu mệnh trời, sống theo mệnh trời và tự tu dưỡng mình chính là
đạo làm người. Khổng Tử cho rằng: bản chất con người là do “thiên mệnh”
chi phối quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của con người, đặc

biệt là người quân tử. Mạnh Tử cho rằng bản tính vốn có của con người là
thiện “nhân chi sơ, tính bản thiện”, nhưng do ảnh hưởng của phong tục tập
quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt. Tuân Tử lại cho
rằng: Bản chất con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể cải biến được, phải
chống lại cái ác thì con người mới tốt được.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại triết học phương đông đã rất quan tâm
nghiên cứu đến vấn đề con người. Ở đây con người được xem xét, tiếp cận
ở phương diện đạo đức, chính trị - xã hội mà ít bàn đến phương diện nhận
thức luận.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học
phương đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú về vấn đề con người
trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học
phương đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất
phát ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Cơ bản các học
thuyết triết học đã lấy đạo đức làm nền tảng để giải quyết những vấn đề về
con người trong tính đa dạng và phong phú. Các học thuyết triết học
6
phương đông giải quyết vấn đề con người trên mặt đạo đức và chính trị,
chưa nhìn nhận con người một cách thật cụ thể với những tính năng của
một thực thể xã hội.
Một trong những đặc điểm quan trọng của triết học phương tây là giải
thích thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, để nghiên cứu và giải thích thế giới
bên ngoài thì trước hết và cần thiết phải nghiên cứu con người, do đó ở đây
con người được tập trung nghiên cứu khá toàn diện. Có thể nói rằng, triết
học phương tây trước Mác có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề con
người và bản chất con người.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là khởi đầu của tư
duy triết học. Về vấn đề con người, triết học Hy Lạp cổ đại cũng bộc lộ rõ
cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật, vô thần và chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo. Các nhà triết học duy vật đầu tiên đã coi con người như một bộ phận

cấu thành thế giới. Prôtago, đã tuyên bố “Con người - thước đo của vạn
vật”. Arixtốt, xem con người là một sinh vật xã hội. Bản tính con người là
sống cộng đồng. Ông cho rằng con người được cấu thành từ linh hồn và cả
thể xác tựa như mỗi sự vật được tạo thành từ hình dạng và vật chất. Theo
Arixtốt, chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, năng khiếu nghệ thuật là làm cho
con người nổi bật lên, con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại đã bắt đầu có sự hiểu biết về con
người với tính cách là sản phẩm của tự nhiên, đồng thời cũng có sự phân
biệt con người với tự nhiên. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật thô sơ mộc mạc và
quan điểm biện chứng tự phát về tự nhiên, về con người thì cũng đã nảy
sinh mặt đối lập với nó là chủ nghĩa duy tâm, mà đại biểu là Platon,
Arixtốt.
Tuy nhiên, con người trong triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn nhiều hạn
chế. Con người chỉ được nhìn nhận với tính cách cá thể. Gía trị con người
chỉ được bàn ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận. Hoạt động
thực tiễn của con người hầu như không được bàn đến.
7
Thời trung cổ là thời kì mà hệ tư tưởng cơ đốc giáo giữ vai trò thống
trị, nên quan điểm về con người bị chi phối bởi tư tưởng tôn giáo. Họ xem
con người là sản phẩm do thượng đế tạo ra. Các nhà triết học thời kì này
cho rằng, chúa trời là lực lượng siêu nhiên, có quyền lực thần thánh tối cao
sáng tạo ra con người, đồng thời quyết định số phận của con người. Giới tự
nhiên và con người do chúa trời sáng tao từ hư vô, con người chỉ là hình
ảnh của chúa và linh hồn bất tử là bản chất của nó, vai trò, số phận, vị trí và
đẳng cấp của con người đều do chúa trời định đoạt.
Có thể nói rằng, con người trong triết học Trung cổ đã bị tước đoạt hết
tính tự nhiên, năng lượng và sức mạnh. Hình ảnh con người trở nên nhỏ bé,
yếu đuối, vật vờ tạm bợ trong thế gới hữu hình dưới quyền lực vô biên của
đấng sáng tạo. Hệ tư tưởng của thời Trung cổ đã bóp chết ý muốn vươn lên
tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tư tưởng cổ đại đã

đề cập đến.
Sang thời kì phục hưng và cận đại, do yêu cầu của xã hội các nhà tư
tưởng thời kì này đã vùng lên đấu tranh chống lại sự chuyên chế về tinh
thần của giáo hội và bóc trần những học thuyết hoang đường, phê phán
thần học và mở đường cho khoa học phát triển. Triết học thời kì này đặc
biệt đề cao trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có
trí tuệ. Đối lập với triết học tôn giáo thời kì Trung cổ các nhà triết học thời
kì này đã xuất phát từ điều kiện sống của đời sống hiện thực để giải thích
về con người trên cơ sở hiện thực. Tuy nhiên đó mới chỉ là tự do cá nhân,
giải phóng con người tư sản chứ chưa phải là giải phóng con người lao
động. Ph.Bêcơn, coi thể xác con người là sản phẩm của tự nhiên, là thực
thể vật chất, còn tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc con người.
Rútxô, quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử nhân loại không
tuân theo bất kỳ thế lực nào mà đó chính là kết quả hoạt động của con
người. Xpinôda, cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại theo
chính mình, con người là sản phẩm của tự nhiên. Triết học thời kì này
8
muốn giải phóng con người thoát khỏi gông cùm chật hẹp mà chủ nghĩa
thần học thời Trung cổ đã áp đặt cho con người. Tuy nhiên để nhận thức
đầy đủ bản chất con người cả về mặt sinh học và mặt xã hội thì chưa có
trường phái nào đạt được. Con người chỉ mới nhấn mạnh về mặt cá thể mà
xem nhẹ mặt xã hội.
Nét nổi bật trong triết học thời kì này là sự phủ nhận quyền lực của
đấng sáng tạo, đề cao sức manh của con người, đề cao vai trò của lý trí, đề
cao các giá trị và đề cao tư tưởng con người. Những tư tưởng triết học thời
kì này không chỉ ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của triết học sau này
mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều cuộc cách mạng nổ ra ở Tây Âu.
Một trong những tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác đó chính là
triết học cổ điển Đức. Sự ra đời của triết học cổ điển Đức đánh dấu sự phát
triển các quan điểm về con người trong triết học phương tây, đặc biệt là đề

cao vai trò tích cực của hoạt động con người, ở đây con người hiện diện
như là chủ thể, đồng thời lại như là sản phẩm của quá trình hoạt động của
chính mình.
Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự
vận động của “ Ý niệm tuyệt đối ” đã cho rằng con người là hiện thân của”
ý niệm tuyệt đối”. Hêghen cũng là người trình bày một cách có hệ thống về
các quy luật của quá trình tư của duy con người, làm rõ cơ chế tinh thần cá
nhân trong mọi hoạt động của con người.
Đến giữa thế kỉ XIX Phoiơbách phát triển chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa vô thần lên đỉnh cao mới. Theo ông, con người là một bộ phận của
giới tự nhiên, là một sinh vật có hình thể vật chất ở trong không gian và
thời gian. Không phải thượng đế đã sáng tạo ra con người mà do giới tự
nhiên đem lại. Con người là kết quả của tự nhiên, con người và tự nhiên là
thống nhất, không thể tách rời. Phoiơbách đề cao vai trò tí tuệ con người.
Nhưng với quan niệm nhân bản đã làm cho ông nhìn nhận con người phiến
diện, không đánh giá đúng bản chất con người. Ở Phoiơbách con người chỉ
9
là một sinh vật có thân thể có cảm giác chứ không phải là một sinh vật xã
hội có tính lịch sử cụ thể của nó, đó là con người chung chung trừu tượng
có tính tộc loại tổng hợp những tính chất sinh lý và đạo đức nhất định, con
người phi lịch sử.
Như vây, triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò tích cực của
hoạt động con người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử triết học phương
tây từ chỗ bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận…đến chỗ coi
con người như một chủ thể hoạt động là nền tảng và điểm xuất phát của
mọi vấn đề triết học. Họ đều khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là
kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến
trình của lịch sử nhân loại, cũng như toàn bộ mối quan hệ “con người tự
nhiên” như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy nhiên, triết học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí tuệ và hoạt

động con người tới mức cực đoan. Họ thần thánh hóa con người tới mức
coi con người là chúa tể của tự nhiên, bản thân giới tự nhiên cũng chỉ là kết
quả hoạt động của con người.
Có thể nói rằng, ngay từ thời cổ đại vấn đề con người đã được đặt ra
trong triết học như là một đối tượng trung tâm để xem xét lý giải cả ở
Phương Đông và Phương Tây. Tuy nhiên, họ đã tìm thấy bản chất con
người ở cái gì đó có tính siêu nghiệm, con người chung chung trừu tượng,
số phận của con người do lực lượng siêu nhiên hay thần bí nào đó điều
khiển và chi phối.
Nhìn chung các quan điểm về con người trong lịch sử triết học trước
Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hay
duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Các quan
niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt
tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên sinh học mà
không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được những thành tựu
10
trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị
nhân bản để hướng con người tới tự do.
Các quan niệm triết học trước Mác đã đi đến những cách thức lý luận
xem xét con người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối
hóa phần hồn thành con người trừu tượng tự ý thức.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, với sự phát
hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã tiếp thu thành tựu,
lý luận một cách có phê phán khái quát lịch sử phát triển của xã hội để xây
dựng học thuyết cách mạng khoa học - học thuyết về con người.
1.2.Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.
1.2.1.Con người là một thực thể thống nhất giữa các mặt sinh vật
với xã hội.
* Vị trí vấn đề con người trong triết học Mác.

Lịch sử quá trình hình thành triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác
nói chung đã chứng tỏ một cách rõ rằng: Con người là điểm xuất phát điểm
các vấn đề triết học và xã hội.
Tác phẩm: Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, đánh dấu một giai
đoạn mới trong học thuyết chủ nghĩa Mác, giai đoạn Mác chuyển từ lập
trường duy tâm, dân chủ cách mạng sang lập trường duy vật và chủ nghĩa
cộng sản. Tác phẩm thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và khát khao giải phóng
con người. Kể từ đây vấn đề con người được Mác xem xét một cách toàn
diện và triệt để.
Có thể nói rằng bằng quan điểm duy vật biện chứng, tác phẩm đã xem
xét đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình nghiên cứu. Mác đã đưa
ra những luận chứng về vai trò triết học và về vai trò của con người trong
hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo thế giới tự nhiên và thay đổi bộ mặt xã
hội. Đồng thời, Mác đã đề ra phương pháp cách mạng cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động toàn thế giới tự đấu tranh giải phong mình và phát
triển mình.
11
Triết học Mác xuất phát từ con người, nhưng Mác đã vượt qua quan
niệm trừu tượng về con người để nhận thức con người hiện thực. Theo Mác
con người có đời sống hiện thực và biến đổi cùng với sự biến đổi đời sống
hiện thực của nó. Như vậy triết học Mác nói chung, chủ nghĩa duy vật lịch
sử nói riêng cần được hiểu như sự phát triển quan điểm nhân văn của Mác
và nhờ đó mà làm cho chủ nghĩa nhân đạo được phát triển đáp ứng yêu cầu
trong thời đại mới.
Tóm lại, không tuyên bố “ triết học con người ” nhưng triết học Mác
-Lênin lại quan tâm con người nhiều hơn cả và đi sâu giải quyết vấn đề con
người một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa nhân đạo Mác - Lênin là sản phẩm
của công cuộc nghiên cứu về cội nguồn con người và xã hội loài người,
nghiên cứu các động lực của lịch sử khẳng định lý tưởng con người trong
sự thống nhất hài hòa của mặt sinh vật - xã hội của con người, gắn với con

đường thực hiện lý tưởng ấy. Con người trong triết học Mác - Lênin là con
người lịch sử cụ thể hình thành và phát triển của nó, trong bản chất và tồn
tại của nó với tính cách là một cá thể tộc loài, hoặc cá nhân thuộc tập đoàn,
một giai cấp, một xã hội nhất định. Chỉ có thể giải quyết được các vấn đề
của con người khi gắn những vấn đề ấy với cuộc cách mạng xã hội rộng
lớn và triệt để nhất của lịch sử loài người - cuộc cách mạng vô sản.
Khác với các nhà tư tưởng khác, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác
không xem xét vấn đề bản chất con người một cách chung chung, trừu
tượng mà bằng cách tiếp cận con người hiện thực. Triết học Mác chỉ ra
rằng: con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội,
là thực thể sinh vật - xã hội.
Trước tiên Mác thừa nhận con người là động vật cao cấp nhất, là sản
phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật như tiến hóa luận của Đác-
Uyn đã khẳng định. Như mọi động vật khác, con người là bộ phận của
thiên nhiên, tìm thức ăn nước uống ở trong thiên nhiên. Nó cũng phải đấu
tranh để “ tồn tại ”, sinh con đẻ cái…Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự
12
tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là
con người mang tất cả bản tính sinh học, tính giới, tính loài. Yếu tố sinh
học trong con người là điều kiện quy định sự tồn tại của con người. Là
động vật cấp cao nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của
quá trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Trải qua hàng chục
vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người qua các giai đoạn
mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển, đến mất
đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người.
Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong
cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ
của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá
trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh
học của cá nhân con người.

Tuy vậy, triết học Mác không hiểu mặt tự nhiên của con người một
cách thuần túy sinh vật - con người thực hiện đời sống sinh vật theo cách
riêng của mình, con người thực hiện cấc nhu cầu sinh lý một cách có ý
thức, có văn hóa, có tổ chức với đạo đức ngày càng cao. Như vậy, khi xem
xét về con người triết học Mác không phủ nhận mặt tự nhiên sinh học của
con người mà xem giới tự nhiên là “ thân thể vô cơ của con người…Vì con
người là một bộ phận của giới tự nhiên ” [ 9,117 ].
Điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất
quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Con người là bộ phận của giới tự
nhiên, nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con người hoàn toàn khác với
con vật. Tồn tại của con vật là tồn tại thuần túy bản năng, còn bản năng của
con người là bản năng được ý thức. Tồn tại của con người là tồn tại mang
tính xã hội. Trong quá trình sống cả con người và con vật đều phải quan hệ
với môi trường, con người ngoài việc khai thác tự nhiên, còn sáng tạo thêm
những cái mà tự nhiên không có. Nhờ có hoạt động thực tiễn, con người
13
quan hệ với tự nhiên cũng có nghĩa là con người quan hệ với chính bản
thân mình, bởi tự nhiên là “ thân thể vô cơ của con người ”. Mác kết luận
rằng: “ Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất
ra toàn bộ giới tự nhiên ” [ 9,137 ].
Tuy là sản phẩm của giới tự nhiên, nhưng cấu tạo của con người
không hoàn toàn giống với con vật. Con người là một động vật đặc biệt.
Đặc điểm sinh học của con người chính là con người đã chuẩn bị về một
chương trình di truyền sinh học để tiếp thu hình thái xã hội của sự vận động
vật chất, đặc biệt là cấu tạo của bộ óc. Khác con vật, con người ngoài
chương trình di truyền còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng
con đường giáo dục và bằng con đường truyền đạt kinh nghiệm của thế hệ
trước cho thế hệ sau.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức về con

người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Triết học Mác,
xem xét con người trong tính hiện thực của nó, trong quá trình phát triển
nó. Khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình,
đó là lúc con người tách mình ra khỏi thế giới động vật. Mác - Ăngghen đã
phân tích vai trò của lao động sản xuất ở con người như sau: “ Có thể phân
biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất
cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - Đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người
quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình ” [ 9,29 ].
Tính xã hội của con người biểu hiện trong chính hoạt động sản xuất
vật chất của con người. Trong hoạt động sản xuất vật chất con người không
thể tách rời khỏi tính xã hội. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu
trực tiếp của nó, còn hoạt động của con người luôn gắn liền với xã hội và
phục vụ cho xã hội, xã hội cùng với điều kiện tự nhiên là điều kiện tồn tại
14
của con người. Hoạt động của con người không phải tuân theo bản năng
như là động vật mà là hoạt động có ý thức. Tư duy của con người phát triển
trong hoạt động và giao tiếp xã hội trước hết là hoạt động lao động sản
xuất. Bằng lao động có ý thức, con người không ngừng cải biến thế giới tự
nhiên thành những sản phẩm, sự biến đổi và tái tạo tự nhiên nhằm tạo ra
đối tượng mới và hoàn cảnh mới cho mình. Thông qua hoạt động lao động
sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời
sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan
hệ xã hội. Đặc biệt con người ngày càng tạo ra nhiều mối quan hệ xã hội
phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành
bản chất con người, song không có nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin xem
nhẹ mặt tự nhiên của con người, bởi lẽ con người là thuộc về giới tự nhiên.

Con người là một bộ phận của tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội, là sự
thống nhất giữa thể chất và mặt tinh thần, giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
Con người vừa chịu sự tác động của quy luật tự nhiên, vừa chịu sự tác động
của quy luật xã hội. Mặt sinh học trong con người là những quy luật sinh
học chung của con người và những động vật bậc cao khác như: những đặc
điểm về cơ cấu và chức năng của cơ thể, ảnh hưởng của môi trường với
hoạt động của cơ thể, đặc tính di truyền, một số nét tâm lý biểu hiện đặc
tính phản ánh cấp thấp. Nhưng chính mặt xã hội trong con người đã làm
cho mặt sinh học trong con người phát triển cao hơn những động vật khác.
Bằng hoạt động lao động sáng tạo, con người đã vượt lên trên các động vật
khác. Không chỉ ở trong các mối quan hệ xã hội mà ở cả trong mối quan hệ
sinh học. Thậm chí mặt sinh học trong con người cũng không tồn tại bên
cạnh, mà tồn tại ngay trong mặt xã hội. Bởi vì ở trong con người cũng khó
phân biệt được đâu là mặt sinh học, đâu là mặt xã hội, chỉ có trong nhận
thức chúng ta mới dễ dàng tách biệt chúng ra mà thôi.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
15
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa…
quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm
lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học như hình thành tình
cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định
quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu
sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc,
ở, nhu cầu sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng
thụ các giá trị tinh thần.

Thực tế chỉ ra rằng, qua hoạt động sản xuất của cải vật chất, con người
tạo ra các mối quan hệ xã hội và cùng thông qua các mối quan hệ xã hội
đó,con người tự khẳng định mình.qua nhiều “mối dây ràng buộc” con nười
gắn với nhau trong mối quan hệ xã hội. Thực tế cuộc sống của con người
rất phong phú, từ khi ra đời đến khi già cả và chết, tất cả đều gắn chặt với
các mối quan hệ xã hôi.
Trong lĩnh vực quan hệ sản xuất, hình thức cơ bản về mối quan hệ
giữa người với người xuất hiện bao gồm: sự phân công lao động xã hội và
sự trao đổi lao động như các hoạt động xã hội, phương thức phân phối
những phương tiện thiết yếu đối với đời sống con người.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt
sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc
trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải
được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người và đến lượt nó, nhu
cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt
16
trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau tạo thành con người tự nhiên
- xã hội.
Nói chung, con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm
của xã hội. Vì vậy con người chính là một thực thể sinh học - xã hội gọi là
thực thể sinh học vì nó là một cơ thể sống, gọi là một thực thể xã hội vì nó
mang bản chất xã hội. Tự nhiên và xã hội trong con người có mối quan hệ
biện chứng với nhau, là sản phảm của tự nhiên, đồng thời con người sáng
tạo ra lịch sử xã hội.
1.2.2 Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội.
Như chúng ta đã biết, con người vốn có bản chất tự do, có tính loài và
có ý thức, sản xuất không chỉ vì nhu cầu bản thân mà còn muốn tạo ra một
thế giới loài người theo quy luật của cái đẹp. Đồng thời con người cũng

sáng tạo ra những quan hệ giữa người với người ( quan hệ kinh tế, quan hệ
chính trị…) - quan hệ bản chất bao trùm tất cả các mối quan hệ khác.
Như vậy con người khác với con vật ở ba mặt: quan hệ với tự nhiên,
quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả ba quan hệ đó đều mang tính
xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất
nhất, bao quát nhất trong mọi hoạt động của con người. Trong khi phê phán
Phoiơbách, Các Mác đã khẳng định tính loài của con người. Nó có tính loài
xã hội và loài người chính là xã hội loài người. Con người có tính xã hội
bởi trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động mang
tính xã hội. Khi khẳng định tính loài trong bản chất con người Mác đã
khẳng định: “ chỉ có thể được hiểu là loài, là tính phổ biến nội tại, thì nên
gắn bó một cách tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau ’’.
Theo Mác và Ăngghen con người chỉ tồn tại với tư cách là người trong
quan hệ với người, với cộng đồng, với thế giới xung quanh nó. Hệ thống các
mối quan hệ xã hội, được hình thành trong quá trình con người tham gia vào
hoạt động thực tiễn, tham gia vào đời sống xã hội. Do vậy, trong luận cương
17
Phoiơbách 1845, Mác khẳng định: “ bản chất con người không phải là một
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó
con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội ” [ 9,390 ].
Luận đề trên khẳng định rằng: không có con người trừu tượng, thoát
ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định trong một thời gian nhất
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả
thể lực và tu duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó ( như
quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá
nhân,gia đình,xã hội…) Con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của
mình.
Đây là luận điểm nổi tiếng, tiêu biểu nhất của triết học Mác về bản

chất con người, tạo nên bước ngoặt căn bản trong việc nhận thức con
người, là cơ sở lý luận khoa học cho chủ nghĩa Mác - Lênin và khoa học
khác khi nghiên cứu và giải quyết các vấn đề về con người. Mác đã phê
phán quan điểm duy tâm khách quan của Hêghen khi ông cho rằng con
người là hiện thân của “ ý niệm tuyệt đối “. Mác chỉ rõ tính chất siêu hình
trong quan niệm của Phoiơbách khi ông đồng nhất tính sinh học và bản
chất của con người, tách con người ra khỏi đời sống xã hội, hòa tan bản
chất con người và bản chất tôn giáo. Do đó không thấy được hoạt động
đích thực của con người là hoạt động thực tiễn. Mác chỉ rõ rằng: “ đời sống
xã hội thực chất là có tính thực tiễn, tất cả sự thần bí đưa lý luận đến chủ
nghĩa thần bí đều được giải đáp một cách hợp lý trong đời sống thực tiễn
của con người và trong hiểu biết thực tiễn ấy .
Như vậy bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là cái tự nhiên mà là lịch sử, không phải cái vốn có trong mỗi
cá nhân riêng biệt mà là tổng hòa của toàn bộ các mối quan hệ xã hội. Tư
tưởng đó là sự vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật vào lý luận con người,
18
tồn tại cá nhân quyết định ý thức cá nhân. Như thế có nghĩa là các mối
quan hệ trong một hệ thống xã hội nhất định sẽ quyết định những nhu cầu
của các mối quan hệ đó.
Qua luận điểm trên của Mác cho ta thấy :
Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện
thực. Đấy là những con người cụ thể sống trong những điều kiên cụ thể mà
ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc lộ ở
những mức độ cụ thể.
Tất cả những mối quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản
chất của con người. Các quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép
tính cộng mà chúng tổng hòa, nghĩa là chúng có vị trí, vai trò khác nhau
nhưng chúng không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập
lẫn nhau.

Mọi người đều biết rằng, con người sở dĩ trở thành người là nhờ vào
lao động. Trong thực tế giới tự nhiên không thỏa mãn con người, vì vậy
muốn tồn tại và phát triển được con người phải lao động sản xuất. Chính
trong quá trình lao động sản xuất, con người bộc lộ hai loại quan hệ cơ bản
mang tính khách quan: quan hệ của con người với giới tự nhiên được thể
hiện ở lực lượng sản xuất và quan hệ giữa con người với con người được
thể hiện ở quan hệ sản xuất. Hơn nữa, mỗi con người, mỗi thế hệ người khi
ra đời không thể tự chọn cho mình những quan hệ theo sở thích mà phải gia
nhập ngay vào quan hệ đã có, và dù muốn dù không phải và tất yếu phải trở
thành “ cái mang những mối quan hệ xã hội ấy ”.
Luận điểm trên đã phản ánh đúng bản chất của con người là “ tổng
hòa tất cả các quan hệ xã hội ”, chứ không phải của riêng một quan hệ
nào. Vì vậy, nó là tiêu chuẩn để phân biệt con người khác với tất cả các sự
vật khác trong thế ( con người tách khỏi đời sống xã hội thì không còn là
con người ). Không hiểu đúng thực chất luận điểm này, có người đã vội
cho rằng chủ nghĩa Mác chỉ nhấn mạnh mặt xã hội ( quan hệ sở hữu, quan
19
hệ giai cấp…) của con người, mà coi nhẹ mặt tự nhiên và tinh thần của
nó.
Lịch sử nhân loại đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau,
mà mỗi hình thái đều có những mối quan hệ của nó. Con người vừa cất
tiếng khóc chào đời đã phải gia nhập vào những mối quan hệ xã hội ấy.
Chính vì lẽ đó trong đời sống của mình, con người không biểu hiện ra
là một thực thể sinh học mà là một thực thể xã hội. Khác với mối quan hệ
tự nhiên, đặc điểm chủ yếu của các mối quan hệ xã hội là phụ thuộc vào
hoạt động sản xuất của con người. Địa vị con người không phải được tính
từ các điều kiện tự nhiên, mà ở chổ nó thuộc về giai cấp nào, quan hệ của
nó đối với hoạt động sản xuất ra sao, vị trí và vai trò của nó trong quá trình
sản xuất và tổ chức lao động, sản phẩm xã hội mà nó được phân phối. Các
quan hệ xã hội cùng với các điều kiện tự nhiên đã tạo ra hoàn cảnh sinh

sống của con người. Thừa nhận tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tồn
tại cá nhân quyết định ý thức cá nhân tức cũng là thừa nhận hoàn cảnh là
nguồn gốc trực tiếp của tư tưởng, tri thức, kinh nghiệm. Bởi thế nếu không
xuất phát từ hệ thống là những quan hệ xã hội nhất định thì không thể hiểu
được. Những ưu điểm, nhược điểm của một con người, của một thời đại,
một giai cấp là gì? Hay nói một cách khác, thông qua ưu điểm, nhược điểm
của các cá nhân trong xã hội, người ta cũng có thể hiểu được bản chất của
xã hội.
Khi nói đến bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
cũng có nghĩa là tất cả các mối quan hệ xã hội đều góp phần vào việc hình
thành nên bản chất con người, chứ không riêng một quan hệ nào nhưng có
ý nghĩa quyết định nhất là các quan hệ sản xuất. Tất cả các quan hệ khác
đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quyết định của quan hệ này. Đó là điều
mà các nhà xã hội học tư sản trước kia và hiện nay không bao giờ thừa
nhận. Họ thường chỉ nhấn mạnh tới quan hệ tuổi tác, nghề nghiệp…Chính
quan hệ chính hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã quyết định sự phân chia
20
các thành viên trong xã hội thành những giai cấp khác nhau. Trong xã hội
có giai cấp thì bản chất con người không thoát khỏi bản chất giai cấp công
nhân. Bản chất này in đậm dấu ấn vào ý thức của từng cá nhân, vì thế nói
đến bản chất con người trong xã hội có giai cấp là nói tới bản chất giai cấp
của nó.
Ánh sáng di truyền học hiện đại đã bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng
những yếu tố văn hóa, đạo đức, tinh thần của con người cũng được ghi lại
trong gen di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những đặc điểm di
truyền của từng người vừa bảo đảm những thuộc tính sinh học của mình,
vừa đảm bảo để con người tiếp thu chương trình xã hội. Từ đó có thể, quyết
định sự tiến bộ của xã hội loài người không phải là nguyên nhân sinh học
mà là nguyên nhân xã hội, là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của các
cuộc cách mạng xã hội. Chương trình di truyền chỉ là cơ sở, là khả năng

cho sự phát triển các năng lực và phẩm chất của con người. Chỉ có bằng
con đường rèn luyện và giáo dục làm cho mọi người có điều kiện tiếp thu
tất cả những thành tựu của nền văn hóa vật chất và tinh thần đã được gắn
chặt trong chương trình xã hội.
Có nhiều cách để tiếp cận tìm hiểu về tổng hòa những mối quan hệ xã
hội. Nếu xét theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, hiện tại và
quan hệ tương lai, trong đó suy cho cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai
trò quyết định. Nếu xét theo các loại quan hệ thì đó là quan hệ vật chất và
quan hệ tinh thần, trong đó quan hệ vật chất giữ vai trò quyết định. Nếu xét
theo tính chất đó là những quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên, ngẫu
nhiên, ổn định, không ổn định…Trong đó suy đến cùng thì những quan hệ
trực tiếp, tất nhiên, ổn định giữ vai trò quyết định.
Nếu cụ thể hóa các quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức…)
Thì con người có bao nhiêu quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình
thành nên bản chất của con người, trong đó suy cho đến cùng thì các quan
21
hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trò quyết định. Trong quan hệ
kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trong hơn cả. Khi các
quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng có
sự thay đổi.
Như vậy, bản chất của con người không được sinh ra mà được sinh
thành, nó hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi các quan hệ
xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực
kinh tế.
Nói tóm lại, bản chất con người là một thể thống nhất là hai mặt là
sinh học và xã hội. Hai mặt này có mối quan hệ với nhau, điều đó để phân
biệt con người với con vật. Tuy vậy, yếu tố xã hội giữ vai trò quyết định.
1.2.3.Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại

con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Song điều quan trong hơn cả là con người luôn luôn
là chủ thể của lịch sử. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử
xã hội loài người do chính hoạt động của con người làm nên chứ không
phải do sự sáng tạo của một lực lượng siêu nhiên nào. Đó là quá trình con
người đấu tranh cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân
mình. Mác đã khẳng định: “ cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục…cái học thuyết ấy quên
rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân giáo dục cũng
cần được giáo dục ” [ 1,391 ].
Trong tác phẩm: biện chứng tự nhiên, Ăngghen cũng cho rằng: “ thú
vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử
phát triển dần dần cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì đều có thể diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con
22
vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự
mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu ”. Lịch sử
chẳng qua chỉ là hoạt động có ý thức của chính bản thân con người.
Hoạt động của con người làm ra lịch sử, nên để có lịch sử trước hết
phải có con người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những cá
nhân con người song. Vì vậy, hành động của lịch sử đầu tiên là hành động
lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật. Con người tách khỏi
động vật như thế nào thì họ bước vào lịch sử như thế ấy.
Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, trên cơ sở phê phán
Hêghen đã không hiểu mối liên hệ qua lại biện chứng giữa chủ thể - khách
thể, con người - tự nhiên. Mác đã đưa ra quan niệm rằng: chủ thể - con
người ngay từ đầu là thực thể tự nhiên và điều đó có nghĩa là con người
thực thể hóa theo hai cách: nó được phú cho sức mạnh tự nhiên đến mức

nào thì những vật thể tồn tại bên ngoài nó được đồng hóa chiếm lĩnh đến
chừng ấy và nếu không có nó thì không thể tồn tại được. Mác - Ăngghen
cho rằng: Trong hoạt động thực tiễn con người phải sử dụng các phương
tiện, các công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự
nhiên - xã hội để cải tạo chúng phù hợp với nhu cầu con người. Hoạt động
sản xuất ra của cải vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên. Mác - Ăngghen viết:
“ hành vi lịch sử đầu tiên là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để thỏa mãn nhu
cầu, việc sản xuất ra đời sống vật chất, đó chính là hành vi lịch sử, một điều
kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng nghìn năm về
trước, người ta phải thực hiện hàng ngày hàng giờ nhằm duy trì đời sống
con người ” [ 9,40 ].
Con người thông qua hoạt động thực tiễn - đó là dùng lao động để sản
xuất vật chất, đã biến đổi tự nhiên nhằm phục vụ những nhu cầu của bản
thân mình và cải tạo xã hội. Mác - Ăngghen đã khẳng định “ lao động còn
là một cái gì đó lớn lao hơn thế nữa. Bằng việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt
của mình con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của
23
mình ” [ 1,388 ]. Chính lao động đã sáng tạo ra bản thân con người và xã
hội loài người, Mác đã viết “ Nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì
và phát triển của mình,con người đồng thời sáng tạo ra đời sống vật chất và
tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó ” [ 1,432 ].
Mác - Ăngghen đã lấy sản xuất vật chất làm điểm xuất phát để nghiên
cứu xã hội và lịch sử, tổng kết thành nguyên lý rằng: xã hội loài người bắt
đầu tồn tại của mình khi mà con người sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho đời sống của con người. Hoạt động sản xuất vật chất của mình
con người đã tạo nên hàng loạt mối dây liên hệ giữa cá nhân cũng như giữa
dân tộc này với dân tộc khác trong suốt lịch sử nhân loại.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự
vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều

kiện có sẵn của tự nhiên, con người thì trái lại thông qua hoạt động thực
tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự
nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là
điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi
đời sống bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con
người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển
từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội
và do đó không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Con người là chủ thể của lịch sử phải là con người làm nên lịch sử của
mình và của xã hội mà đỉnh cao là cách mạng. Công lao bất hủ của Mác
chính là ở chổ đã làm cho mọi người thấy “ sự phù hợp giữa biến đổi của
hoàn cảnh và hoạt động của con người chỉ có thể xem xét và hiểu cách hợp
24
lý như là thực tiễn cách mạng ” [ 19,193 ]. Mác cho rằng cần phải coi lịch
sử như là quá trình tự sinh của con người, do con người thực hiện trong qua
trình thực tiễn cải tạo thế giới. Đối với Mác giáo dục không phải là sự tác
động từ bên ngoài vào sự hình thành những phẩm chất nào đó của con
người, mà là quá trình tự biến đổi của con người. Quá trình đó được thực
hiện trong tiến trình hoạt động của chính con người. Vì thế, thực tiễn cách
mạng không chỉ là quá trình con người biến đổi ngay chính bản thân mình,
sự nghiệp cách mạng mà giai cấp vô sản tiến hành, không chỉ nhằm biến
đổi hoàn cảnh mà còn nhằm biến đổi cả con người. “ Cách mạng là cần
thiết không những vì chỉ có cách mạng mới có thể lật đổ được giai cấp
thống trị, mà vì chỉ có trong cách mạng thì giai cấp lật đổ mới có thể vất bỏ
được sự thối nát của xã hội cũ và trở thành khả năng sáng tạo ra cơ sở mới
của xã hội ”. [ 25,99-100 ].

Con người làm ra lịch sử song không phải làm theo ý muốn tùy tiện
của mình, trong những điều kiện mình có quyền lựa chọn mà là trong
những điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi
người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong
những hoàn cảnh mới, một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để
biến đổi hoàn cảnh cũ.
Có thể khẳng định rằng, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con
người theo đuổi mục đích của mình. Vì vậy, con người với tính cách là chủ
thể đã tạo nên một nền sản xuất xuyên suốt tiến trình lịch sử loài người, đưa
loài người đi từ phương thức sản xuất này đến phương thức sản xuất khác tiến
bộ hơn bằng cách mạng xã hội, ở mỗi giai đoạn lịch sử xã hội khác nhau thì
phương thức sản xuất cũng khác nhau mà nhìn vào đó ta có thể phân biệt chế
độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Mà trong tiến trình phát triển của các
phương thức sản xuất, của lịch sử xã hội thì con người vừa là sản phẩm của
quá trình đó và cũng là chủ thể của tiến trình lịch sử nhân loại.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi
25

×