Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SKKN phương pháp giảng dạy môn ngữ văn lớp 9 phục vụ cho việc thi tuyển sinh vào các trường THPT phần nghị luận văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.64 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
Phần

Phần I. Mở
đầu

Phần II.
Nội dung

Phần III.
Kết luận
Phần IV.

Nội dung

Trang

Mục lục

1

Quy ước viết tắt

1

1. Mục đích của đề tài
2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến
3. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Chương I: Thực trạng vấn đề mà SK đề cập đến.
Chương II: Những giải pháp (biện pháp) mang tính khả
thi


Chương III: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của
sáng kiến

2
3
4
5

1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập của SK
2. Hiệu quả thiết thực của SK......
3. Kiến nghị.
Tài liệu tham khảo

25
25
26
27

7
24

Phụ lục

QUY ƯỚC VIẾT TẮT
1. THPT : Trung học phổ thông
2. THCS: Trung học cơ sở
3. SGK: Sách giáo khoa
4. SGV: Sách giáo viên
5. SK: Sáng kiến


1


PHẦN I : MỞ ĐẦU
1. Mục đích của sáng kiến:
Từ xưa đến nay, Văn học ln có vai trị hết sức quan trọng trong đời
sống và trong sự phát triển nhân cách của con người, bởi: “Văn học là nhân
học”. Trong trường phổ thông, môn Ngữ văn cũng đã được các cấp, các ngành
hết qức quan tâm. Nó chiếm thời lượng đáng kể so với các mơn học khác. Đó là
mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội , có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm, nhân cách học sinh. Nó khơng những
tạo tiền đề cho học sinh có kĩ năng nghe- nói- đọc- viết mà cịn rèn cho các em
có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu giúp các em có
năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Văn học đồng thời cũng là mơn cơng
cụ có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ môn khác. Do vậy học tốt môn Văn sẽ
giúp các em khám phá, tiếp nhận các môn khoa học khác một cách tốt hơn.
Môn Ngữ văn trong trường THCS gồm ba phân môn: Văn học, Tiếng
Việt và Tập làm văn. Trong thực tế học sinh luôn coi môn Ngữ văn là mơn khó
nhất, dài nhất. Theo kết quả điều tra bằng phiếu vào đầu năm học trước nữa ,
nhiều em chưa thực sự u thích mơn học ý nghĩa và bổ ích này và càng khơng
thích phần nghị luận văn học.
Để học tốt mơn này thì đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đã được
đề cập bàn luận và thực hiện trong nhiều năm qua, đặc biệt trong mấy năm gần
đây, với việc thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa mới thì đổi
mới phương pháp dạy học càng được thúc đẩy và phát huy một cách có hiệu
quả.
Đứng trước tình trạng đó, tơi và nhiều đồng nghiệp khác đã không khỏi
băn khoăn. Trong q trình giảng dạy, tơi đã cố gắng tìm tịi, học hỏi, tìm biện
pháp để giúp các em có kĩ năng làm văn nhất là văn nghị luận. Chính vì vậy tôi
đã chọn đề tài: “Phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 9 phục vụ cho việc

thi tuyển sinh vào các trường THPT phần Nghị luận văn học”.
Thực tế ở lớp dưới các em đã được học về các kiểu văn bản cụ thể.
2


Chẳng hạn lớp 7 đã học về văn biểu cảm, về văn nghi luận (trong đó có phép
lập luận chứng minh và phép lập luận giải thích). Lớp 8 học tiếp khá kĩ về văn
bản nghị luận, về cách nói và viết bài văn nghị luận có sử dụng các yếu tố biểu
cảm, tự sự và miêu tả. Vì thế các tiết dạy- học phần nghị luận về tác phẩm
truyện (hoặc đoạn trích), nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ở lớp 9 phải kế
thừa, nâng cao kiến thức đã cung cấp, kĩ năng đã rèn luyện ở các lớp trước. Sự
kế thừa, nâng cao này cần tăng cường hoạt động thực hành của học sinh. Thật
ra, trong một bài nghị luận văn học, người viết thường vận dụng nhiều thao tác,
kĩ năng (giải thích, chứng minh, phân tích, bình giảng.....) và nhiều khi khó có
thể tách bạch một cách rạch ròi các thao tác kĩ năng. Trong thao tác nghị luận
này đã có hoặc đang sử dụng thao tác nghị luận kia. Nhưng thực tế tại trường
THCS của chúng tơi thì học sinh cịn yếu ở các kĩ năng, thao tác, vì vậy bài văn
nghị luận chưa mang tính thuyết phục cao. Do vậy mục đích của bài viết nhằm
đưa ra một phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh, để
nâng kĩ năng làm văn nghị luận đồng thời dần nâng cao điểm thi vào THPT.
2. Tính mới và ưu điểm nổi bật của sáng kiến :
- Tính mới của sáng kiến: rèn cho học sinh kĩ năng học và làm văn nghị
luận cần phải đi từ những cái căn bản nhất, phát huy tính tích cực và khả năng
sáng tạo của học sinh.
- Sáng kiến với các giải pháp ( biện pháp) được trình bày khác, mới so
với giải pháp ( biện pháp) cũ trước đây là:
Trước đây, các giải pháp đưa ra đã chú ý tới đối tượng học sinh, phát huy
tính tích cực của học sinh. Giáo viên cũng đã chú ý tới rèn kĩ năng tìm hiểu đề,
tìm ý, kĩ năng viết đoạn và làm bài của học sinh; khi giảng dạy đã có chú ý tới
tính tích hợp giữa các phân mơn. Tuy nhiên, qua q trình ơn tập cho học sinh

tơi nhận thấy ngồi những giải pháp đã thực hiện trên thì giáo viên cần phải chú
ý cả việc rèn cho học sinh kĩ năng trình bày khoa học, ngắn gọn, rõ ràng, mạch
lạc và sáng tạo. Trong quá trình học và làm văn nghị luận các em cần kết hợp
linh hoạt nhuần nhuyễn, tự nhiên giữa phân tích, chứng minh cụ thể với nhận
3


xét, đánh giá khái quát, giữa lý lẽ với dẫn chứng, bình vừa là phương pháp tư
duy, vừa là kỹ năng làm bài mà giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh. Khi
ôn tập kiểu bài nghị luận văn học, giáo viên cũng thực hiện qua 4 bước: Tìm
hiểu đề và tìm ý, lập dàn ý, viết văn, sửa lỗi. Có như vậy học sinh mới có kỹ
năng làm một bài văn thành thạo. Với các giải pháp mới sẽ phát huy tối đa tính
tích cực, sáng tạo của học sinh, chủ yếu là học sinh hoạt động giáo viên chỉ là
người hướng dẫn, gợi mở.
- Ưu điểm nổi bật của sáng kiến được áp dụng vào thực tiễn tại đơn
vị:
Khi tôi vận dụng phương pháp dạy học như vậy trong q trình dạy và ơn
thi đối với học sinh lớp 9 thì tơi nhận thấy các em đã nắm tương đối chắc được
phương pháp làm văn nghị luận. Các em đã biết vận dụng lí thuyết vào thực
hành điều đó được thể hiện rõ trong các kì thi vào lớp 10 hai năm gần đây đã có
những tiến bộ .
3. Đóng góp của sáng kiến để nâng cao chất lượng quản lý, dạy và học:
Phần nghị luận văn học được giảng dạy ở học kì II của lớp 9 với thời lượng
cho phần giảng dạy lí thuyết không nhiều song yêu cầu về kĩ năng rất cao.
Trong khi đó mỗi tác phẩm truyện hoặc đoạn trích hay đoạn thơ, bài thơ lại có
cách cảm khác nhau. Để giúp các em có được kĩ năng tốt nhất trong bài viết
này căn cứ vào kinh nghiệm cùng với sự hiểu biết của bản thân tơi cố gắng đi
tìm một phương pháp hay nhất để giúp các em làm được những bài văn nghị
luận có sức thuyết phục người đọc, người nghe, với hy vọng nó sẽ có tác dụng
ít nhiều cho sự tìm tịi sáng tạo của đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy phần

nghị luận văn học để giúp học sinh thi vào THPT đạt kết quả cao nhất.
- Giúp giáo viên nhận thấy việc hướng dẫn học sinh nhận diện đề và
phương pháp làm bài văn nghị luận là hợp lý và cần thiết.
- Giúp học sinh nhận diện được đề và có phương pháp làm bài văn nghị
luận có hiệu quả cao và ngày càng thấy yêu môn học.

4


PHẦN II. NỘI DUNG
Chương I
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ MÀ SÁNG KIẾN ĐỀ CẬP ĐẾN
Thứ nhất: Theo đánh giá của nhiều giáo viên có kinh nghiệm khi giảng
dạy phần kiến thức này khó khăn lớn nhất từ phía học sinh là tư duy lập luận
logic của các em chưa được định hình. Điều này cũng có lý do vì chương trình
lớp dưới chủ yếu là văn miêu tả, trần thuật, kể chuyện... nên thói quen của các
em vẫn chỉ là tư duy hình ảnh theo phản ánh một chiều đối với hiện thực khách
quan. Nguyễn Đình Thi đã từng viết: “ Tác phẩm nghệ thuật nào cũng được xây
dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại
cái đã có rồi mà cịn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một
lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống
chung quanh”. Để cảm nhận được “cái mới mẻ” đó thì học sinh phải cảm thụ
được tác phẩm để làm rõ vấn đề. Đấy là điều mà văn nghị luận đòi hỏi yêu cầu
cao hơn về tính khoa học, tính logic, tính biện chứng. Từ đó mà sự tiếp nhận
kiến thức mới đối với các em rất hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến sự lắng đọng
kiến thức mà giáo viên muốn truyền thụ đến các em. Kiểu bài nghị luận đối với
học sinh bậc THCS là kiểu bài khó, với nghị luận văn học lại càng phức tạp
hơn. Trong thực tế giảng dạy SGK và SGV hướng dẫn còn chung chung nhiều
phần chưa bám sát vào yêu cầu của tiết dạy để làm nổi bật vấn đề, một tiết dạy
lượng kiến thức nhiều, giáo viên khó định liệu, lựa chọn kiến thức để truyền tải

đến học sinh. Hơn nữa giờ luyện nói lại càng khó hơn, có tiết luyện nói yêu cầu
giải quyết 4 đề bài, trong khi đó học sinh lại khơng thích học văn, trên lớp chưa
chịu tập trung học và làm bài khi giáo viên yêu cầu, vì chúng vừa dài vừa trừu
tượng, cho nên nhiều tiết dạy tập làm văn học sinh chưa hiểu bản chất của vấn
đề. Do đó học ơn thi vào THPT là việc làm cần thiết để rèn luyện kĩ năng làm
văn cho học sinh. Bên cạnh đó những giờ dạy phụ đạo học sinh ôn tập cho thi
vào THPT tất cả đều tuỳ thuộc vào giáo viên dạy, mỗi giáo viên có một cách
dạy khác nhau, nhưng cũng đã đảm bảo kiến thức cho học sinh khi thi. Song
5


việc rèn kĩ năng trong các giờ dạy đó lại chưa nhiều. Khi đi thi học sinh thường
hay trông chờ vào tài liệu, vào những bài cô đã làm mà chưa biết dựa vào dàn
ý, độc lập suy nghĩ để đưa ra những bài làm sâu sắc thực sự là văn của mình.
Thứ hai: Thực trạng học sinh hiện nay đa phần rất lười suy nghĩ, lười
viết. Bài viết thường rất ngắn, có khi lại viết chưa vào trọng tâm của vấn đề,
chỉ nói lan man chưa xác định được yêu cầu của đề bài là gì ? Vì vậy sự cảm
thụ văn chương trong học sinh còn hạn chế nhiều, đã vậy chữ viết văn sai chính
tả, viết tắt, viết hoa chưa đúng chỗ ( đặc biệt là các em nam) mà bài văn nghị
luận văn chương cần trau chuốt về từ ngữ, từ ngữ cần có sức gợi, tả cao, và đây
cũng chính là nguyên nhân làm cho điểm thi vào các trường THPT còn thấp.
Thứ ba: Khi đi thi đa phần các em chưa biết phân bố thời gian hợp lí. Hầu
hết các em dành thời gian cho phần làm văn cịn q ít cho nên các bài thi còn
dở dang, chưa nêu cảm nhận, đánh giá hết những nội dung tiêu biểu và nghệ
thuật đặc sắc trong đoạn thơ, bài thơ hay trong tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
Thực trạng của vấn đề như đã nêu trên đã có nhiều thày cơ quan tâm đưa ra
những phương pháp giảng dạy phù hợp. Nhưng theo xu thế chung hiện nay học
sinh khơng ham thích học văn. Làm thế nào để các em thấy ngày một u thích
mơn học, yêu thích những tác phẩm văn học đã học và muốn tìm đọc những tác
phẩm hay của Việt Nam cũng như của thế giới đó là việc làm của tất cả những

thày cô đang giảng dạy môn Văn.

6


Chương II
NHỮNG GIẢI PHÁP ( BIỆN PHÁP) MANG TÍNH KHẢ THI

1. Một số vấn đề chung khi giảng dạy phần nghị luận văn học trong
chương trình mơn ngữ văn lớp 9.
Nghị luận văn học thuộc phân môn tập làm văn được giảng dạy trong
chương trình tập làm văn học kỳ II. Nghị luận bao gồm 2 kiểu bài chủ yếu:
Nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Trong đó phần nghị luận văn học lại
được chia thành 2 dạng bài cụ thể: “ Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn
trích” và “Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ” . Việc phân chia này dựa theo
thể loại và đó cũng là các đối tượng, vấn đề phổ biến quen thuộc nhất mà học
sinh thường gặp trong làm văn. Khi giảng dạy kiểu bài này phải phát huy tinh
thần đổi mới theo phương châm tích hợp, cụ thể là:
Trước hết cần thật sự thấm nhuần tư tưởng chủ đạo, yêu cầu bao quát của
việc giảng dạy và học tập văn nghị luận hiện nay, trong đó có nghị luận văn
học. Tại sao không gọi như trước đây là giải thích, chứng minh hay phân tích,
bình luận, bình giảng văn học? Thực tế, hầu như khơng có bài văn nào mà từ
đầu đến cuối chỉ tuân theo một yêu cầu, vận dụng một thao tác. Đó là các phép
lập luận, các thao tác thường được kết hợp, vận dụng khi giải quyết một vấn đề
nghị luận. Trong một bài nghị luận văn học, người viết phải kết hợp nhiều thao
tác, kỹ năng có khi khó tách bạch một cách rạch rịi, giải thích, chứng minh,
phân tích hay bình luận. Vậy là, khi giảng dạy phần nghị luận văn học cần chú
ý dến tính tổng hợp của tri thức, kỹ năng. Các tiết dạy học, nghị luận về tác
phẩm truyện hoặc đoạn trích và nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ ở lớp 9 phải
có sự kế thừa, nâng cao kiến thức đã cung cấp, kỹ năng đã rèn luyện ở các lớp

dưới ( phần nghị luận được dạy từ lớp 7 ). Đó chính là thể hiện của tinh thần
tích hợp dọc trong nội bộ phân mơn tập làm văn ở chương trình bậc THCS.
Giáo viên cần giúp học sinh rèn luyện kỹ năng, kết hợp đồng thời và linh hoạt
nhiều phép lập luận ( giải thích, chứng minh, phân tích...) để làm sáng tỏ vấn
đề, trình bày một cách thuyết phục, hấp dẫn các ý kiến, nhận định của mình về
7


một vấn đề văn học. Hơn nữa, đối tượng nghị luận của phần nghị luận văn học
lại chính là các văn bản, tác phẩm văn học mà học sinh đã được học trong phân
mơn văn học, vì thế khi vận dụng vào làm bài nghị luận văn học, các em cần sử
dụng tốt những gì đã nhận thức được khi học phần văn học để làm bài. Ngoài
ra, để làm tốt bài nghị luận văn học, học sinh cần hiểu rõ về các biện pháp tu từ,
các tín hiệu nghệ thuật mà nhà văn , nhà thơ đã sử dụng trong các tác phẩm văn
học. Muốn có được điều này các em phải nắm chắc kiến thức phân môn Tiếng
Việt. Đây chính là thể hiện tinh thần tích hợp ngang giữa các phân môn trong
bộ môn Ngữ văn.
Trong những năm gần đây một phương châm quan trọng trong dạy học
mà hầu như ai cũng biết là phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
Nhưng từ việc hiểu lý thuyết đến việc thực hành đúng, có hiệu quả thật sự
không phải là đơn giản. Cần chống lối học vẹt, nói theo từ cách nghĩ đến cách
học, cách làm bài. Các bài nghị luận trong sách giáo khoa luôn yêu cầu học
sinh xác định rõ tinh thần, yêu cầu của cụm từ “ trình bày, suy nghĩ về...”, hoặc
“ cảm nhận của em về ...”, “ cảm nhận và suy nghĩ về ...” , “ phân tích...” . Nghị
luận về một vấn đề, một phương diện nào đó của tác phẩm truyện hoặc đoạn
trích, nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần xác định một lập trường để phân
tích, lý giải, đánh giá bộc lộ ý kiến chủ quan của mình. Ngay chữ “ phân tích”
trong u cầu của một đề văn nghị luận cũng cần hiểu cho đúng, cho thấu đáo.
Nó khơng chỉ là một thao tác, một phép lập luận. Không chỉ phân chia vấn đề,
đối tượng ra từng bộ phận, khía cạnh để miêu tả, tìm hiểu đặc điểm. Phân tích ở

đây cịn bao hàm cả sự nhận xét, đánh giá, lý giải... về vấn đề, đối tượng ấy
bằng tư tưởng tình cảm của mình. Chẳng hạn trước đề văn nghị luận:” Phân
tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xôi” của Lê
Minh Khuê. Một bài văn làm tốt sẽ không chỉ lần lượt nêu rồi chứng minh từng
vẻ đẹp trong phẩm chất của nhân vật Phương Định như: có lí tưởng sống cao
đẹp, dũng cảm, kiên cường, không sợ hy sinh, gian khổ, lãng mạn, lạc quan,
yêu đời, yêu cuộc sống... Đồng thời với q trình phân tích từng vẻ đẹp, trình
8


bày từng luận điểm ấy, người viết cần thể hiện sự cảm thụ về các chi tiết nghệ
thuật sinh động trong tác phẩm, thể hiện thái độ tình cảm của mình, cần nhận
xét đánh giá về cách miêu tả, cách xây dựng nhân vật của nhà văn, cần rút ra
những khái quát về ý nghĩa của hình tượng nhân vật. Cịn với chữ “ cảm nhận”,
“suy nghĩ” thì ngồi kỹ năng phân tích người viết cần chú ý nêu lên ý kiến chủ
quan của mình, từ đó liên hệ với cuộc sống xã hội và hành động của bản thân,
đặc biệt phải đề cao sự rung cảm của mình khi tìm hiểu tác phẩm. Nói như vậy
có nghĩa là bài văn nghị luận văn học cần đề cao cảm thụ, ấn tượng riêng, tính
chất cá nhân, cá thể của người viết. Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ vấn đề
này để có định hướng làm bài phù hợp với từng đề văn.
Bài nghị luận văn học đòi hỏi hệ thống luận điểm mạch lạc, màu sắc cá
nhân của các nhận xét, đánh giá, mặt khác bài văn nghị luận văn học cũng yêu
cầu tính cụ thể, tính thuyết phục của những luận cứ. Nếu cứ sa đà vào dẫn
chứng, phân tích cụ thể mà khơng nâng lên được tầm khái qt, khơng đúc kết
thành các nhận định thì bài văn sẽ nhạt tính tư tưởng, khó gây ấn tượng. Mặt
khác, nếu cứ nhận định, ngợi ca hay phê phán một cách chung chung mà không
qua các căn cứ cụ thể, dẫn chứng sinh động thì bài văn cũng yếu sức thuyết
phục dễ trở lên xáo rỗng. Một hiện tượng thường gặp khi nghị luận về tác phẩm
truyện hoặc đoạn trích là học sinh hay sa vào kể lể lan man, ít nhận xét đánh
giá cảm thụ, dẫn đến bài viết thiên sang tự sự là chính. Kết hợp linh hoạt nhuần

nhuyễn, tự nhiên giữa phân tích, chứng minh cụ thể với nhận xét, đánh giá khái
quát, giữa lý lẽ với dẫn chứng, bình vừa là phương pháp tư duy, vừa là kỹ năng
làm baì mà giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh. Sách giáo khoa, đặc
biệt là các phần ghi nhớ đã định hướng rõ yêu cầu này, cũng như cách thức
thực hiện. Chẳng hạn, khi nghị luận về một tác phẩm truyện, những nhận xét
đánh giá phải xuất phát từ chủ đề, từ ý nghĩa cốt truyện, từ tính cách số phận
nhân vật, từ đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm. Khi nghị luận về một nhân vật
cần phân tích, đánh giá từng phương diện cơ bản của nhân vật được nhà văn
phản ánh gắn liền với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Chẳng hạn, khi nghị
9


luận về một đoạn thơ, bài thơ cần làm sáng tỏ nội dung, cảm xúc được thể hiện
qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu. Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố để có
những nhận xét, đánh giá cụ thế xác đáng. Chẳng hạn trước đề bài : Cảm nhận
của em về lịng thành kính thiêng liêng đối với Bác qua bài thơ “ Viếng lăng
Bác” của Viễn Phương, khơng ít học sinh lúng túng khi xác định u cầu và
cách tổ chức làm bài. Học sinh phải trả lời được các câu hỏi: Lịng thành kính
thiêng liêng đối với Bác trong bài thơ này được diễn tả qua các nhận vật nào?
Trong thời gian nào? Ở đâu? Đâu là các chi tiết đặc sắc ( ngơn từ, hình ảnh,
giọng điệu, lời thơ...) thể hiện lịng thành kính ấy? Mình tâm đắc nhất với chi
tiết nào? Giá trị nhận thức, ý nghĩa tư tưởng của bài thơ “ Viếng lăng Bác” là
gì? Từ việc trả lời đúng các câu hỏi trên lại cần phải xác định rõ, trình bày theo
yêu cầu của đề văn như thế nào? Nên kết hợp ra sao? Các thao tác, các phép lập
luận được sử dụng là gì?...
Như vậy về bản chất của việc dạy và học mảng nghị luận văn học hiện
nay vừa địi hỏi sự thâm nhập , thẩm bình văn bản tác phẩm vừa yêu cầu kỹ
năng tổng hợp, khái quát thành một nhận định, đánh giá riêng.
2. Phương pháp giảng dạy và ôn tập mảng nghị luận văn học giúp học sinh
thi tuyển vào các trường THPT.

2.1. Giáo viên cần nhắc lại và nhấn mạnh khái niệm nghị luận về tác phẩm
truyện hoặc đoạn trích, nghị luận về đoạn thơ, bài thơ để học sinh nắm chắc
bản chất của vấn đề từ đó định hướng cho việc làm bài.
- Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích là trình bày những nhận xét
đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày những nhận xét đánh giá của
mình về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
2.2. Giáo viên nêu và phân tích rõ những yêu cầu của mỗi kiểu bài:
- Yêu cầu của bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích:
+ Những nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích phải xuất
phát từ ý nghĩa cốt truyện, từ tính cách số phận nhân vật và nghệ thuật của tác
10


phẩm. Người viết phải phát hiện và khái quát được những điều ấy. Về nội dung
truyện phản ánh thực tế gì? Qua đó nói lên tư tưởng gì? Tư tưởng ấy có ý nghĩa
như thế nào đối với đời sống? Về nghệ thuật truyện xây dựng những nhân vật
nào, ai là nhận vật trung tâm? Cách thức xây dựng nhân vật như thế nào?
Truyện có bố cục tình huống ra sao? Ngơn ngữ kể chuyện có gì đặc sắc....?
( Giáo viên minh hoạ bằng tác phẩm cụ thể)
+ Các nhận xét đánh giá về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích phải được trình
bày rõ ràng, đúng đắn, lý lẽ, dẫn chứng phải thuyết phục, dẫn chứng được lấy
từ văn bản tác phẩm, được đặt trong dấu ngoặc kép. Việc trích dẫn chứng phải
tuyệt đối chính xác.
+ Bài viết phải có bố cục mạch lạc ( bố cục ba phần, trong mỗi phần phải có
sự chia tách, các luận điểm phù hợp ), bài văn sinh động gợi cảm, liên kết các ý
chặt chẽ, thuyết phục.
- Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ:
+ Bài nghị luận, cần phân tích để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật
của bài thơ được thể hiện qua hình ảnh, giọng điệu, ngơn từ. Về nội dung cần

chỉ rõ bài thơ viết về vấn đề gì, đối tượng hay tình cảm nào? Qua đó gửi gắm tư
tưởng gì? Chẳng hạn khi phân tích bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương,
cần hiểu rõ bài thơ ghi lại tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ trong lần đầu tiên
ra thăm lăng Bác, qua đó cho thấy lịng biết ơn, niềm kính u, sự trân trọng,
ngưỡng mộ của nhà thơ với Bác kính yêu. Bài thơ đã truyền tình cảm của Viễn
Phương tới bạn đọc đó là niềm kính u lãnh tụ, sống học tập và rèn luyện theo
tấm gương đạo đức của Người.
+ Về nghệ thuật, người viết phải chỉ rõ trong bài thơ đã sử dụng những biện
pháp tu từ nào? (8 biện pháp tu từ về từ, 3 biện pháp tu từ về câu ); ngồi ra,
trong bài thơ cịn có những tín hiệu nghệ thuật nào? ( hình ảnh, ngôn ngữ, cảm
xúc, nhịp điệu, giọng điệu, cách sử dụng từ loại, cách viết, cách sử dụng dấu
câu...). Ví dụ khi phân tích bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của
Phạm Tiến Duật, ngồi việc chỉ ra các biện pháp tu từ được sử dụng như điệp
11


ngữ, so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điệp cấu trúc câu, người viết cần phải chỉ ra được
giọng điệu ngang tàn, hóm hỉnh, hồn nhiên, vơ tư đầy chất lính, âm điệu chắc
khoẻ, hào hùng, cách sử dụng từ phủ định để khẳng định....Từ đó làm nổi bật
phẩm chất anh hùng, lòng dũng cảm, niềm lạc quan yêu đời và tâm hồn vơ tư,
trẻ trung đầy chất lính của những người chiến sỹ lái xe Trường Sơn trong thời
kỳ chống Mỹ cứu nước.
+ Bài viết phải có bố cục mạch lạc, rõ ràng, lời văn sinh động , gợi cảm, thể
hiện được sự rung động chân thành của người viết.
+ Bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải có đẫn chứng, lý lẽ phù hợp. Dẫn
chứng phải được đặt trong dấu ngoặc kép và đặt giữa dịng nếu trích từ 2 câu
thơ trở lên.
2.3. Giáo viên cần nêu rõ bố cục của mỗi kiểu bài.
- Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích:
* Mở bài:

+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm ( tên thật, bút danh, năm sinh, năm mất- nếu
có, quê quán, phong cách sáng tác, sự nghiệp văn chương, hồn cảnh ra đời và
nội dung chính của tác phẩm)
+ Nêu vấn đề cần nghị luận ( tuỳ theo yêu cầu từng đề bài )
* Thân bài: Lần lượt phân tích từng luận điểm, dùng luận cứ tiêu biểu
xác thực để làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ( thông
thường khi phân tích truyện tách riêng nội dung, nghệ thuật)
Ví dụ: Luận điểm 1:
- Dẫn dắt.
- Nêu luận điểm
- Trích dẫn chứng
- Nhận xét, đánh giá, nâng cao, chuyển ý
Nếu trong 1 luận điểm có nhiều ý nhỏ thì mỗi ý lại chia tách ra như trên
*Kết bài:
+ Đánh giá khái quát về vấn đề vừa phân tích
12


+ Khẳng định giá trị tư tưởng của vấn đề, sức sống của tác phẩm và tài
năng của nhà văn.
- Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
* Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vị trí của đoạn trích ( tương tự phần mở bài
nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích )
+ Nêu nhận xét, đánh giá bước đầu về đoạn thơ, bài thơ đó
* Thân bài:
+ Lần lượt trình bày những nhận xét đánh giá của mình về giá trị nội dung,
nghệ thuật của tác phẩm bằng cách chia tách ra thành các phần, các ý để khai
thác
+ Có thể chia đoạn thơ, bài thơ thành từng câu, từng khổ hay từng đoạn để

phân tích ( bố cục ngang). Cũng có thể phân tích theo từng ý thơ, hình ảnh thơ
để khai thác ( bố cục dọc). Việc chia tách này tuỳ theo từng bài thơ hoặc yêu
cầu của mỗi đề.

Ví dụ: Bài thơ “ Đồng chí”, “ Đồn thuyền đánh cá”, “ Viếng lăng Bác”,
“ Ánh trăng”, “ Mùa xuân nho nhỏ” .... nên phân tích theo bố cục ngang. Bài
thơ “ Bếp lửa”, “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” nên phân tích theo bố cục
dọc.
+ Có thể tách riêng hoặc kết hợp phân tích nội dung và nghệ thuật,
nhưng thơng thường với thơ thường kết hợp phân tích cả 2 mặt này.
- Trình tự khai thác một khổ thơ, đoạn thơ hay một ý bao gồm:
+ Dẫn dắt.
+ Nêu lý lẽ.
+ Trích thơ.
+ Diễn giải ( nội dung và nghệ thuật)
+ Nhận xét đánh giá, bình, nâng cao, chuyển ý

13


* Kết bài:
+ Khái quát giá trị và sức sống của đoạn thơ, bài thơ hoặc vấn đề vừa
phân tích .
+ Khẳng định thành công của tác phẩm và tài năng của nhà thơ.
2.4. Phương pháp ôn tập:
Khi ôn tập kiểu bài nghị luận văn học, giáo viên cũng thực hiện qua 4
bước: Tìm hiểu đề và tìm ý, lập dàn ý, viết văn, sửa lỗi. Có như vậy học sinh
mới có kỹ năng làm một bài văn thành thạo.
3. Minh hoạ qua một số bài giảng cụ thể.
Đề số 1 : Suy nghĩ về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai

trong truyện ngắn “ Làng ” của Kim Lân.
GV yêu cầu học sinh đọc kĩ đề bài, xác định trọng tâm và phần tìm hiểu đề,
tìm ý
1.Tìm hiểu đề, tìm ý :
Suy nghĩ về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai trong truyện
ngắn “ Làng ” của Kim Lân.
* Tìm hiểu đề :
- Kiểu bài : Nghị luận về một đoạn trích truyện.
- Nội dung : Tình u làng, u nước của ơng Hai.
- Kiến thức: Trong tác phẩm “ Làng ” của Kim Lân
*Tìm ý :
- Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được bộc lộ trong tình huống nào?
- Những biểu hiện về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai ?
- Tác giả đã sử dụng những nét nghệ thuật đặc sắc nào để miêu tả về tình
u làng, u nước của nhân vật ơng Hai ?
Những câu trả lời cho phần tìm ý trên sẽ nằm ở phần nào của bài văn nghị
luận?
Phần thân bài sẽ chứa đựng những câu trả lời đó.

14


2. Lập dàn ý :
Giáo viên lần lượt ra những câu hỏi sau đó hoc sinh trình bày giáo viên ghi
nhanh lên bảng
a. Mở bài :
Những ý cần trình bày cho phần mở bài ?
- Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn “Làng”
- Giới thiệu nhân vật ông Hai : Nhân vật có tình u làng, u nước sâu sắc.
Là nhân vật điển hình cho người nơng dân thời kì kháng chiến chống Pháp.

b. Thân bài :
Phần thân bài gồm những luận điểm nào?
* Suy nghĩ về tình u làng, u nước của nhân vật ơng Hai
- Ơng Hai là người nơng dân cần cù, chịu khó: Vì vốn cuộc đời gắn liền với
thửa ruộng mảnh vườn, cuộc sống quanh năm vất vả, lam lũ vì thế ở nơi tản cư
ông cũng không để cho chân tay ngơi nghỉ, ông đã vỡ ruộng khai hoang, trồng
rau, trồng sắn...
- Tình u làng, u nước của ơng Hai là tình cảm đặc biệt của người nông dân
thời kháng chiến.
+ Nhớ về làng, kể về làng, nghe tin tức của làng khi ông ở nơi tản cư.
+ Theo dõi tin tức kháng chiến.
+ Tâm trạng đau đớn, tủi hổ khi nghe làng chợ Dầu theo Tây.
+ Niềm vui khôn siết khi được tin làng cải chính.
* Suy nghĩ về những nét nghệ thuật tiêu biểu khi miêu tả về tình yêu làng, u
nước của nhân vật ơng Hai
- Chọn tình huống bất ngờ, hợp lí -> Tình u làng của ơng Hai được bộc
lộ.
- Cách miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc.
+ Các hình thức trần thuật, đối thoại, độc thoại nội tâm được sử dụng hợp lí
c. Kết bài :
Đánh giá thành công của tác giả khi xây dựng hình tượng nhân vật ơng Hai.
15


3. Viết bài và sửa chữa:
Yêu cầu học sinh tập viết từng phần, từng đoạn theo dàn ý, sau đó trình bày
trước lớp để giáo viên nhận xét, góp ý, bổ sung. Giáo viên nên động viên các
em viết theo nhiều cách mở bài khác nhau, cần động viên khuyến khích những
em có mở bài tốt, cần phát huy cho những bài sau
Sau khi giáo viên cùng học sinh sửa chữa những đoạn văn giáo viên có thể

đọc cho học sinh nghe hoặc chép một đoạn văn hay làm mẫu để học sinh tham
khảo.
a. Mở bài:
Cách 1: Kim Lân là cây bút sở trường về truyện ngắn và khai thác rất thành
công đề tài người nông dân sau cách mạng tháng tám. Kim Lân viết không
nhiều nhưng những truyện ngắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, đặc sắc,
rất đỗi giản dị, chân chất về con người ở miền quê quan họ. Truyện ngắn “
Làng” là một ví dụ tiêu biểu .
Cách 2: Với người nông dân Việt Nam có lẽ khơng có thứ tình cảm nào tự
nhiên hơn tình yêu đất nước. Tình yêu ấy nhẹ nhàng thấm vào máu thịt qua
tình cảm dành cho người thân, làng xóm, q hương. Nó tưởng như xa xơi
nhưng lại thật gần gũi, giản dị. Thấu hiểu những điều đó nhà văn Kim Lân đã
có một thiên truyện ngắn thật hay viết về tình u q hương đất nước của
người nơng dân: “ Làng”. Trong truyện ngắn này, ông đã xây dựng thành công
nhân vật ông Hai- một con người giàu lòng yêu làng, yêu nước tha thiết,
Cách 3: Kim Lân là nhà văn có vốn sống vơ cùng phong phú và sâu sắc về
nông thôn Việt Nam. Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh
hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với nhân vật chính là ơng Hai, một
lão nơng hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.
Cách 4: Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ trên qui mơ tồn quốc, hưởng
ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nông dân một số làng quê đã tản cư ra vùng tự do
tham gia kháng chiến. Rời làng quê ra đi họ luôn gắn chặt với làng, vui buồn
16


cùng với làng.Tình cảm đó của người nơng dân thể hiện sinh động trong truyện
“Làng” của nhà văn Kim Lân .
b.Thân bài:
Yêu cầu học sinh viết đoạn triển khai luận điểm: Tâm trạng đau đớn, tủi

hổ … của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây.
Yêu cầu học sinh đọc giáo viên cùng sửa chữa.
Ví dụ: Trên đoạn đường trở về, đang trong tâm trạng vui vẻ khi vừa nghe được
bao tin thắng trận của quân ta thì một biến cố bất ngờ xảy ra. Ông gặp những
người đàn bà tản cư từ Gia Lâm lên, khi gặp họ, ơng tưởng mình sẽ nghe được
nhiều tin vui hơn nữa nhưng thật bất ngờ, ông Hai nhận được tin cả làng chợ
Dầu làm việt gian theo Tây. Cái tin ấy là một tin chết người, nó chẳng những
làm mất hết niềm tin, sụp đổ niềm tự hào về làng của ơng mà cịn khiến ơng tủi
hổ, nhục nhã vì đã khoe bao điều hay về nó. Vừa nghe như vậy, ơng Hai thấy
cổ họng mình nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lặng đi tưởng chừng như
không thở được. Ông đang ở trong một trạng thái bất ngờ, đột ngột và vơ cùng
xấu hổ. Ơng vờ lảng sang chuyện khác để trốn những người đàn bà kia nhưng
lời nói của họ như những nhát dao chém vào người ông đau đớn. Trên đường
trở về ông chỉ dám cúi gằm mặt xuống đất khơng dám ngẩng mặt nhìn ai. Vừa
về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nước mắt trào ra, ông tức giận chửi bọn
Việt gian làng Dầu bán nước nhưng ông lại thấy những lời chửi của mình thật
vơ lí. Ơng kiểm điểm từng người trong óc nhưng khơng tìm được ai có thể phản
bội, họ tồn là những người có tinh thần cả mà. Nhưng thằng chánh Bệu thì
đích thị là người làng ơng rồi khiến ơng có tâm trạng bối rối, phân vân, nửa tin
nửa ngờ. Chỉ bằng một đoạn văn ngắn, tác giả đã cụ thể hoá sững sờ, ngạc
nhiên cao độ, nghẹn ngào đau đớn, tức giận khi nghe tin làng chợ Dầu theo
giặc. Qua đây, một lần nữa, nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả
năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của
ông hai trong biến cố này.Cả nhà ơng Hai những ngày sau đó, sống trong bầu
khơng khí ảm đảm, nặng nề, đầy lo lắng. Họ nghĩ đến sự ghẻ lạnh, tẩy chay của
17


mọi người và đặc biệt lo lắng khi không biết sẽ phải làm thế nào. Ơng Hai ăn
khơng ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê

chề. Thậm chí ơng khơng dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là '
chuyện ấy'. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người , trốn biệt ở nhà, khơng dám
bước chân ra ngồi vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến.
Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông đi, chỉ vì họ là người làng theo Tây. Gia
đình ơng Hai ở vào tình thế căng thẳng, khó khăn nhất: “ thật là tuyệt đường
sinh sống”, đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Trong
tình cảnh ấy ơng Hai đã nghĩ “ hay là quay về làng” nhưng rồi ơng đã dứt khốt
“ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, chịu đầu hàng Tây là cam chịu kiếp
sống nô lệ, cơ độc” nên ơng đã quyết định “ làng thì u thật nhưng làng theo
Tây thì phải thù”. Làng ơng khơng cịn là làng có đường thơn ngõ xóm đẹp đẽ
nữa mà là cái gì đó lớn lao hơn là danh dự , là cái lẽ làm người. Đến đây, tình
u làng của ơng Hai đã hồ quyện vào tình yêu nước.
Viết đoạn văn triển khai cho luận điểm : “Suy nghĩ về những nét nghệ
thuật tiêu biểu khi miêu tả về tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai”.
Giáo viên hướng dẫn học sinh viết, yêu cầu học sinh đọc trước lớp sau đó giáo
viên sửa chữa cho các em.
Ví dụ :
Truyện đã xây dựng được những kịch tính, nội tâm nhân vật bộc lộ qua
những hành động, suy nghĩ, thái độ, việc làm trở thành hai cốt truyện tâm lí độc
đáo. Kịch tính của truyện được phát triển theo tầng bậc từ thấp đến cao. Tác giả
đã xây dựng được những tình huống hấp dẫn, xúc động, đẩy chi tiết đến cao
trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thoả đáng và có hậu. Tuy vậy nhưng
vẫn gây được hứng thú, tạo sự bất ngờ cho người đọc, người nghe. Ngôn ngữ
văn chương của Kim Lân đậm đà chất Kinh Bắc, có những chỗ, những lúc chất
liệu địa phương đã được sử dụng trong giao tiếp, ứng xử của nhân vật rất khéo
léo. Qua đó ta thấy được bút pháp nghệ thuật sáng tạo của Kim Lân trong việc
khai thác đời sống nội tâm nhân vật.
18



Viết phần kết bài
c. Kết bài :
Truyện ngắn “Làng” đã thể hiện một cách chân thực, sinh động tình yêu
làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân trong những năm
kháng chiến chống Pháp. Nó góp thêm cho văn học yêu nước một tiếng nói
riêng rất thú vị, rất đặc trưng.
Cùng một tác phẩm giáo viên hướng dẫn học sinh lập ra những dạng đề
khác nhau. Hướng dẫn học sinh khái quát ở từng dạng đề cần tập trung vào vấn
đề gì, rồi yêu cầu học sinh về nhà viết, sau đó giáo viên sẽ kiểm tra ở các giờ
học tiếp theo. Khi kiểm tra giáo viên cần sửa chữa cụ thể cho học sinh.
Ví dụ :
Dạng đề thứ hai : Phân tích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân
Dạng đề thứ ba : Phân tích diễn diến cốt truyện“ Làng”của Kim Lân.
Dạng đề thứ tư : Cảm nhận của em sau khi học xong truyện ngắn “Làng” của
Kim Lân.
Đề số 2: Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”của Thanh Hải.
1.Tìm hiểu đề, tìm ý: Cho học sinh đọc kỹ đề văn, gạch chân các từ ngữ
quan trọng trong đề:
Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”của Thanh Hải
Phần tìm ý chỉ cần thực hiện lướt qua vì học sinh đã được tìm hiểu kỹ trong
giờ giảng văn, giáo viên chỉ cần chú ý nhấn mạnh từ “ suy nghĩ” để định hướng
cách làm bài cho học sinh.

2. Lập dàn ý:
Cho học sinh tự lập dàn ý ra vở nháp và trực tiếp trình bày trên bảng sau
đó giáo viên cùng học sinh nhận xét từng bài làm, cùng nhau đưa ra dàn ý
chuẩn mực.
a. Mở bài:
- Khái quát chung về tác giả và bài thơ.
19



- Những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước
và khát vọng đẹp đẽ muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc
đời
b. Thân bài:
*Mùa xuân của thiên nhiên
- Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, gợi cảm, tràn đầy sức sống, tươi vui
rộn rã qua các hình ảnh thơ đẹp: Bơng hoa tím biếc, dịng sơng xanh, âm thanh
của tiếng chim chiền chiện
- Nghệ thuật:
+ Từ ngữ gợi cảm, gợi tả.
+ Đảo cấu trúc câu.
+ Sử dụng màu sắc, âm thanh…

+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi
đưa tay tôi hứng”.
-> Cảm xúc : say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời vào xuân
* Mùa xuân của đất nước
- Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu.
- Hình ảnh biểu tượng: người cầm súng, người ra đồng
-> hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng đất nước.
- Hình ảnh ẩn dụ: lộc non ( chồi non, lá non, sức sống của mùa xuân, thành quả
hạnh phúc) trong câu thơ: “ Lộc giắt đầy trên lưng. Lộc trải dài nương mạ”
- Nghệ thuật.
+ Nhịp điệu hối hả, những âm thanh xơn xao.
+ Hình ảnh so sánh, nhân hố đẹp: “Đất nước như vì sao - Cứ đi lên phía
trước”
-> ngợi ca vẻ đẹp đất nước tráng lệ, trường tồn, thể hiện niềm tin sáng ngời của
nhà thơ về đất nước.

* Tâm niệm của nhà thơ.
20


- Là khát vọng được hoà nhập, cống hiến vào cuộc sống của đất nước
- Ước nguyện đó được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp, mỗi người phải
biết sống, cống hiến cho cuộc đời. Thế nhưng dâng hiến, hoà nhập mà vẫn giữ
được nét riêng của mỗi người….
c, Kết bài:
- Bài thơ mang tựa đề thật khiêm tốn nhưng ý nghĩa lại sâu sắc, lớn lao.
- Cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm h
trong sáng.
3. Viết bài:
Cho học sinh tập viết từng phần, từng đoạn theo dàn ý, sau đó trình bày
trước lớp để giáo viên nhận xét góp ý, bổ sung.
Sau khi cho học sinh viết, giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe hoặc chép
một bài văn mẫu chuẩn mực để các em tập làm theo.
a, Mở bài: Có nhiều cách viết:
Ta có thể lấy ví dụ:
* Đi từ tác giả, tác phẩm tới vấn đề phân tích:
Thanh Hải là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt
Nam. Thơ của ông nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đậm chất trữ tình. Năm 1980 khi
ơng đang nằm trên giường bệnh đã sáng tác bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”. Bài
thơ để lại cho đời một tình cảm nhân hậu thiết tha. Đặc biệt từ mùa xuân của
thiên nhiên, mùa xuân của đất nước, mùa xuân cách mạng nhà thơ đã cho ta
thấy được những ước nguyện đẹp như mùa xuân. Từ đó ta thấy cái nhìn lạc
quan, tin tưởng của nhà thơ đối với đất nước trong một giai đoạn lịch sử mới:
xây dựng tổ quốc Việt Nam giàu đẹp.
* Đi từ đề tài sang tác phẩm:
Mùa xuân là đề tài vô tận của thi ca. Em đã từng yêu thích đến say mê

bài thơ “ Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử; bâng khuâng trước một buổi “
Chiều xuân” của nữ thi sĩ Anh Thơ; ngỡ ngàng trước “ Mùa xn xanh” của
Nguyễn Bính; nhưng nói đến thơ mùa xn thì khơng ai có thể qn được
21


Thanh Hải với bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ là những xúc cảm của tác
giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm
“một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời.
b. Thân bài:
Giáo viên giới thiệu phần phân tích khổ thơ đầu:
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ
bằng vài nét chấm phá :
“Mọc giữa dịng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân
quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ
Huế . Bức tranh có khơng gian thống đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm
thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện. Cách lựa chọn hình ảnh “dịng
sơng xanh”, “bơng hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi” ,“chi” đi liền sau
động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm
trạng say đắm hân hoan của tác giả. Dường như thấp thống đâu đó trong câu
thơ là màu xanh của dịng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc
của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng
chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn
ràng. Cảm xúc của tác giả trước mùa xn cịn được miêu tả ở chi tiết rất tạo
hình : “Từng giọt long lanh rơi - Tôi đưa tay tôi hứng”. Giọt âm thanh của tiếng
chim thật trong, thật trịn, vang ngân giữa khơng gian, đọng lại thành từng giọt

hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng,
đắm say. Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa
góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp
của thiên nhiên, trời đất vào xuân .

22


c, Kết bài:
Bài thơ đã khép lại nhưng ý tình vẫn còn lắng đọng và ngân vang trong
lòng người phải chăng một mùa xuân nho nhỏ lặng lẽ dâng cho đời kìa khơng
chỉ là của Thanh Hải mà cịn là ước nguyện của mỗi chúng ta những ai đã đọc
bài thơ, những ai muốn sống đẹp và hữu ích cho đời. Có biết được hồn cảnh ra
đời của bài thơ ta mới thấy hết giá trị và ý nghĩa cao đẹp của nó. Bài thơ được
Thanh Hải viết vào mùa đông tiết trời lạnh giá lúc nằm trên giường bệnh cận kề
cái chết Ta chợt hiểu mùa xuân đây không phải từ bên ngồi đến mà đã có
trong lịng nguời. Như Xuân Diệu đã có lần cảm nhận : “Xuân của đất trời hôm
nay sao mới đến - Trong tôi xuân đến tự lâu rồi” ( Xuân không mùa ). Chính
mùa xn vĩnh cửu trong lịng ấy đã giúp nhà thơ quên đi sự đau đớn của bệnh

tật, sự rình rập của cái chết đem lại cho nhà thơ niềm say sưa với cuộc sống,
lòng tin yêu, lạc quan với cuộc đời.
4. Sửa lỗi:
Sau khi cho học sinh làm bài và trình bày trước lớp ( hoặc qua bài kiểm
tra), giáo viên chú ý sửa chữa các lỗi thường gặp cho học sinh:
- Lỗi dùng từ, đặt câu
- Lỗi diễn đạt: Sử dụng văn nói khi viết, thiếu câu dẫn, viết tắt...
5. Tăng cường ra bài tập mới : với các đề tương tự để rèn kỹ năng làm bài
cho học sinh, giáo viên phải thường xuyên chấm trả để học sinh thấy được
những ưu khuyết điểm của mình, sửa chữa khắc phục kịp thời.


23


Chương III
KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI CỦA SÁNG KIẾN
Sau khi áp dụng vào thực tế giảng dạy, so sánh và đối chứng qua các
năm, tôi thấy việc vận dụng phương pháp giảng dạy trên đã thu được kết quả
đáng khích lệ, chất lượng đã từng bước được nâng cao. Cụ thể là:

Điểm
Điểm TB

Điểm khá giỏi

Điểm yếu kém

2015– 2016

45%

25%

30%

2016 - 2017

50%

33%


17%

Năm học

Tuy tỷ lệ điểm khá, giỏi vẫn rất khiêm tốn, chưa đạt yêu cầu, song như
vậy với thực lực của học sinh trường THCS của chúng tôi là đã có sự chuyển
biến, mỗi năm chất lượng thi vào THPT cũng đã dần được nâng cao ở môn Ngữ
văn, nhưng vẫn cần địi hỏi có sự tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, cải tiến phương
pháp giảng dạy hơn nữa để từng bước nâng cao chất lượng mũi nhọn trong việc
ôn tập giúp học sinh ôn tập thi tuyển sinh vàoTHPT.

24


PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của SK.
- Vai trò chủ thể của người thầy, đặc biệt nó mở cho người thầy một
hướng đi đúng như cách cảm, cách hiểu, cách phân tích và phương pháp giảng
dạy nghị luận văn học, cách khơi mạch và cùng học trị bình đẳng “thám hiểm”
tác phẩm. Từ đó giúp các em hiểu đúng và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của
tác phẩm cũng như tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm qua mỗi tác phẩm
văn học.
- Củng cố kiến thức cơ bản về thể nghị luận văn học cho học sinh.
- Học sinh có kỹ năng viết đoạn văn, bài văn cảm thụ cái hay, cái đẹp về
cả giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

- Phương pháp giảng dạy và ôn tập mảng nghị luận văn học giúp học sinh
có đủ tự tin làm bài trong các kì thi tuyển vào các trường THPT.
2. Hiệu quả thiết thực của SK nếu được triển khai, áp dụng trong phạm vi

cơ sở
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy nếu phương pháp trên được áp dụng triệt để
thì chắc chắn điểm thi của học sinh vào THPT sẽ được cải thiện rất nhiều bởi:
Giảng dạy và ôn tập bộ môn ngữ văn giúp học sinh thi vào các trường THPT
đặc biệt là phần nghị luận văn học là một vấn đề không phải dễ dàng bởi đây là
mảng kiến thức cực kỳ quan trọng giúp học sinh vừa củng cố các kiến thức đã
học, các kỹ năng làm bài mà còn gợi mở, hướng cho học sinh tiếp tục học cao
hơn trong chương trình THPT. Để thực hiện tốt yêu cầu này địi hỏi học sinh
phải có khả năng tìm hiểu, cảm nhận, và thẩm bình tác phẩm văn học. Hơn nữa,
học sinh phải có vốn ngơn từ phong phú, cách sử dụng ngơn ngữ trau chuốt,
diễn đạt được tình cảm và những rung động chân thành của mình về tác phẩm
văn học. Muốn như vậy trước hết giáo viên phải bồi dưỡng cho học sinh lịng
say mê văn học, có tư tưởng lập trường đúng đắn, có cái nhìn khoa học sau đó
mới đễn việc rèn luyện kỹ năng làm bài cho các em. Do đó nghiên cứu để nâng
25


×