BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA TRUYỀN THÔNG VÀ VĂN HĨA ĐỐI NGOẠI
---------*---------
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Mơn: Đại cương truyền thông đại chúng
ĐỀ BÀI:
Lý thuyết “Khoảng cách tri thức” (Knowledge Gap) của Philip J Tichenor
Giảng viên hướng dẫn: TS. Phan Văn Kiền
Nhóm 5:
Hồ Thúy Hiền (TT47A1-0552)
Giang Ngọc Hải Anh (TT47A1-0535)
Đinh Thị Minh Huyền (TT47A1-0555)
Nguyễn Thị Thu Hà (TT47A1-0548)
Hà Nội, tháng 5 năm 2021
PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ
ST
T
Họ và tên
Nhiệm vụ
1
Đinh Thị Minh Huyền
(TT47A1-0555)
(Nhóm trưởng)
- Phân công nhiệm vụ cho mọi người
- Phần II. Nội dung và đặc điểm chính
- Phần III. Phần 2. Ứng dụng 2
- Tổng hợp bài
- Chỉnh sửa nội dung
2
Giang Ngọc Hải Anh
(TT47A1-0535)
- Phần II. Nội dung và đặc điểm chính
- Phần III. Phần 1. Ứng dụng 1
- Chỉnh sửa hình thức
- Chỉnh sửa nội dung
3
Hồ Thúy Hiền
(TT47A1-0552)
- Phần I. Lịch sử ra đời
- Phần lời mở đầu
- Phần III. Phần 1. Ứng dụng 1
- Chỉnh sửa nội dung
4
Nguyễn Thị Thu Hà
(TT47A1-0548)
- Phần II. Nội dung và đặc điểm chính
- Phần kết luận
- Phần III. Phần 2. Ứng dụng 2
- Chỉnh sửa nội dung
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 4
NỘI DUNG.........................................................................................................................5
I. Lịch sử ra đời của thuyết “Khoảng cách tri thức”.....................................................5
II. Nội dung và đặc điểm chính của thuyết “Khoảng cách tri thức”............................6
1. Nguyên nhân tồn tại của “Khoảng cách tri thức”................................................ 6
2. Điểm mạnh và điểm yếu của “Khoảng cách tri thức” ……………………………….8
3. Các cách làm giảm khoảng cách tri thức ...............................................................9
III. Những ứng dụng của “Khoảng cách tri thức” trong báo chí, truyền thông..........9
1. Ứng dụng 1: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong các chiến
dịch truyền thông đại chúng nhằm làm giảm sự chênh lệch kiến thức về HIV/ AIDS
giữa cư dân thành thị và nơng thơn ở phía tây bắc Ethiopia…………………………..9
2. Ứng dụng 2: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong chiến dịch
truyền thông đại chúng nhằm giảm nguy cơ ung thư liên quan đến chế độ ăn…... 23
KẾT LUẬN.......................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………...30
3
LỜI MỞ ĐẦU
Lý thuyết “Khoảng cách tri thức” (Knowledge gap) của Philip J Tichenor đã được
chính thức cơng bố cách đây 50 năm, trở thành một lĩnh vực nghiên cứu đáng kể và có
nhiều ứng dụng trong lĩnh vực báo chí và truyền thơng. Bài tiểu luận dưới đây của chúng em
sẽ đi sâu tìm hiểu về thuyết “Khoảng cách tri thức” ở các khía cạnh như lịch sử ra đời, nội
dung đặc điểm chính và được ứng dụng của thuyết này trong báo chí và truyền thơng qua 3
phần chính:
Phần 1: Lịch sử ra đời của thuyết “Khoảng cách tri thức”.
Phần 2: Nội dung và đặc điểm chính của thuyết “Khoảng cách tri thức”.
Phần 3: Những ứng dụng của “Khoảng cách tri thức” trong báo chí, truyền thơng.
Trong đó, nhóm em sẽ đi sâu tìm hiểu và phân tích 2 ứng dụng tiêu biểu của lý thuyết
“Khoảng cách tri thức” trong truyền thông:
Ứng dụng 1: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong các chiến dịch
truyền thông đại chúng nhằm làm giảm sự chênh lệch kiến thức về HIV/ AIDS giữa cư dân
thành thị và nông thôn ở phía tây bắc Ethiopia.
Ứng dụng 2: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong chiến dịch truyền
thông đại chúng nhằm giảm nguy cơ ung thư liên quan đến chế độ ăn.
Đây là lần đầu tiên nhóm chúng em thực hiện đề tài này, vì kiến thức vẫn cịn giới hạn
cùng thiếu sót kinh nghiệm thực tế nên bài tiểu luận không thể không tránh khỏi những hạn
chế, sai sót. Cả nhóm xin rất cảm ơn tâm huyết giảng dạy của thầy trên lớp để trang bị cho
chúng em kiến thức thú vị về truyền thông đại chúng. Chúng em rất mong nhận được sự chỉ
bảo, góp ý từ thầy và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
4
NỘI DUNG
I. Lịch sử ra đời của thuyết “Khoảng cách tri thức”
Theo Sir Francis Bacon ''Kiến thức là sức mạnh”, nhưng giống như các dạng của cải
khác, kiến thức thường được phân bổ bất bình đẳng trong tồn bộ xã hội do nhiều nguyên
nhân và góc độ khác nhau gây ra nhiều cản trở. 1 Điều này hầu như không phải là một hiện
tượng mới mà đã được ngầm hiểu từ lâu trong các tài liệu về truyền thông đại chúng và
được chỉ ra bởi nhiều nghiên cứu tìm hiểu về mối liên hệ giữa kiến thức với tình trạng kinh
tế xã hội, đặc biệt là trình độ học vấn của người tiếp nhận kiến thức trên những quan sát
thực nghiệm ban đầu như Hyman & Sheatsley (1947); Star & Hughes (1950); Budd,
MacLean, & Barnes (1966); Allen & Colfax (1968); Adams, Mullen, & Wilson (1969);2...
Về cơ bản, kiến thức có thể được đo lường như nhận thức đơn giản về một vấn đề (một
biện pháp phân đôi) và dưới dạng thông tin chuyên sâu (một biến liên tục). Những khái
niệm này tương ứng với sự khác biệt giữa các dạng kiến thức được thực hiện bởi nhà xã hội
học đầu tiên Robert E. Park (1940). Một khoảng trống kiến thức có thể khơng tồn tại để
nhận thức về một vấn đề nhưng có thể tồn tại để có kiến thức chuyên sâu về chủ đề đó. Các
định nghĩa hoạt động về khoảng cách kiến thức trong nhiều nghiên cứu đã bao gồm sự khác
biệt về điểm số kiến thức trung bình giữa các nhóm SES; sự khác biệt về tỷ lệ của các nhóm
SES nắm giữ kiến thức; mối tương quan giữa kiến thức và SES; tương tác thống kê giữa
SES và việc sử dụng phương tiện truyền thông, tiếp xúc hoặc cả hai trong nhiều phân tích
hồi quy của dữ liệu mặt cắt ngang; và so sánh các cộng đồng hoặc các tập thể khác khác
nhau về đặc điểm cấu trúc xã hội của họ (Everland Scheufele, 2000; Gaziano, 1983, 1997;
Hwang jeong, 2009; Kwak, 1999; Tichenor, Donohue, Olien, 1970; Viswanath & Finnegan,
1996).
Dựa trên cơ sở những phát hiện và tìm hiểu đã có, ba học giả tại Đại học Minnesota là
Philip Tichenor (Phó Giáo sư Báo chí và Truyền thông Đại chúng), George Donohue (Giáo
sư xã hội học) và Clarice Olien (Giảng viên Xã hội học) 3 đã tạo ra một bước đột phá của
thời đại khi lần đầu tiên chính thức đề xuất giả thuyết “Khoảng cách tri thức” (Knowledge
Gap) trong bài báo trên tạp chí năm 1970 có tên ''Mass Media Flow and Differential Growth
in Knowledge'' (Tạm dịch: Dịng chảy truyền thơng đại chúng và sự phát triển khác biệt về
1Artem Cheprasov, Knowledge Gap Hypothesis: Definition & Analysis, Study, truy cập:
truy cập ngày 9/6/2021.
2Boomgaarden, Hajo G, Fabienne Lind, What we do and don’t know: a meta-analysis of the knowledge gap
hypothesis, Tandfonline, truy cập: truy cập
ngày 9/6/2021.
3 Knowledge Gap Theory, Communication Theory, truy cập:
ngày truy cập: 9/6/2021.
5
tri thức). Mặc dù một số dữ liệu của bài báo được lấy từ luận án tiến sĩ năm 1965 “Truyền
thông và kiến thức khoa học trong dân số trưởng thành của Hoa Kỳ” của Tichenor tại Đại
học Stanford tập trung vào tâm lý xã hội, song bài báo năm 19670 lại được ba tác giả tập
trung phân tích các thuật ngữ vĩ mô học qua thước đo giáo dục. Trong đó, bài báo đưa ra giả
thuyết về “Khoảng cách tri thức” rằng: “Khi việc truyền tải thông tin đại chúng vào một hệ
thống xã hội gia tăng, các bộ phận dân cư có địa vị kinh tế xã hội cao hơn có xu hướng tiếp
thu thơng tin này với tốc độ nhanh hơn so với các bộ phận có địa vị thấp hơn, do đó khoảng
cách về kiến thức giữa các bộ phận này có xu hướng gia tăng hơn là giảm đi”. 4 Điều này
khơng có nghĩa là người nghèo hoặc người ở địa vị thấp hơn hoàn tồn khơng nhận được
kiến thức, giả thuyết chỉ cho rằng những người có địa vị cao hơn có mức độ tiếp thu, phát
triển kiến thức tương đối nhanh hơn, đặc biệt là khi việc tiếp cận các phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng tăng.
Thế giới vẫn chưa nhìn thấy tác dụng hồn tồn của các cơng nghệ mới nhưng khi tồn
cầu trở nên cơng nghệ hơn và chi phí tăng lên, nó càng vượt ra khỏi tầm so sánh của người
nghèo. Vì vậy, khoảng cách về kiến thức cũng mở rộng và những người thuộc tầng lớp kinh
tế cao hơn được hưởng lợi nhiều hơn, nhưng nếu các dịch vụ thơng tin khơng được tạo ra
bình đẳng cho mọi tầng lớp trong tồn xã hội, khoảng cách thơng tin này sẽ tăng lên qua các
năm.5 Do đó, các đánh giá thực nghiệm về sự xuất hiện và mức độ của các lỗ hổng kiến thức
do sự khác biệt kinh tế xã hội gây ra kết hợp với việc cung cấp thông tin trên phương tiện
truyền thông đại chúng đã ngày một phát triển và trở thành một lĩnh vực nghiên cứu nổi bật
đào sâu các bất đẳng thức về kiến thức trong truyền thơng chính trị và hiệu ứng truyền thông
ứng dụng vào thực tế.6
II. Nội dung và đặc điểm chính của thuyết “Khoảng cách tri thức”
1. Về nguyên nhân tồn tại của Khoảng cách tri thức
Theo ba tác giả Tichenor, Donohue và Olien, nguyên nhân giải thích cho khoảng cách
tri thức giữa hai bộ phận có địa vị kinh tế khác nhau là do người có địa vị cao hơn có lợi thế
hơn trong 5 lĩnh vực:
Thứ nhất, kỹ năng giao tiếp (communication skills)
Những người được giáo dục nhiều và đúng cách hơn sẽ có kỹ năng giao tiếp tốt hơn,
do vậy kỹ năng thu thập và tiếp nhận, ghi nhớ và xử lý thông tin ở nhiều lĩnh vực khác nhau
4 Tichenor, P.A.; Donohue, G.A.; Olien, C.N. (1970). “Mass media flow and differential growth in knowledge".
Public Opinion Quarterly, tr. 159–170.
5 Knowledge Gap Theory, Communication Theory, truy cập:
ngày truy cập: 9/6/2021.
6 Boomgaarden, Hajo G, Fabienne Lind, What we do and don’t know: a meta-analysis of the knowledge gap
hypothesis, Tandfonline, truy cập: truy cập
ngày 9/6/2021.
6
cũng trở nên dễ dàng hơn Những người có địa vị xã hội cao hơn được giáo dục và trang bị
các kỹ năng đọc, viết, nói, kỹ năng tư duy và hiểu tốt hơn người có địa vị thấp. 7 Những
người này sẽ hiểu và tiếp nhận thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng tốt
hơn bởi “Persons with more formal education would be expected to have the higher reading
and comprehension abilities necessary to acquire public affairs or science knowledge” 8
(tạm dịch: những người được giáo dục bài bản được kỳ vọng sẽ có khả năng đọc và lĩnh hội
cao hơn mức cần thiết để tiếp thu kiến thức xã hội và khoa học).
Thứ hai, thông tin được lưu trữ (stored information)
Theo Tichenor, Donohue và Olien, “existing knowledge resulting from prior exposure
to the topic” (tạm dịch: kiến thức đang có bắt nguồn từ sự tiếp cận với các vấn đề trước đó).
Người có địa vị xã hội cao hơn có được sự giáo dục và học vấn cao hơn, vì vậy họ được tiếp
xúc với nhiều vấn đề hơn thông qua các lớp học, sách tham khảo, các phương tiện truyền
thơng đại chúng,.. vì vậy, họ có xu hướng tiếp nhận các thông tin truyền thông dễ dàng hơn
do họ đã từng tiếp cận vấn đề đó trước đây.
Thứ ba, liên hệ xã hội có liên quan (relevant social contact)
Người có địa vị cao hơn có xu hướng hịa nhập với xã hội hơn, có nhiều mối quan hệ
xã hội hơn. Trong các cuộc trị chuyện, những thơng tin trên các phương tiện truyền thông
sẽ được đề cập, vì vậy người này có thể được tiếp xúc với nhiều thơng tin khác nhau cũng
như có cơ hội được nghe, thảo luận phản bác các quan điểm cá nhân với những người khác.
Theo Tichenor, Donohue và Olien, “High socioeconomic status people have “a greater
number of reference groups, and more interpersonal contacts, which increase the likelihood
of discussing public affairs topics with others” 9(tạm dịch: những người có địa vị kinh tế xã
hội cao hơn có “số lượng nhóm tham khảo nhiều hơn và nhiều mối liên hệ giữa các cá nhân
hơn, điều mà làm tăng khả năng thảo luận các vấn đề với những người khác”). Việc tiếp cận
nhiều nguồn thơng tin cũng giúp cho những người có địa vị cao nhận biết được những thơng
tin sai lệch, khơng chính thống trên các phương tiện truyền thơng, từ đó tiếp nhận một cách
chọn lọc.
Thứ tư, sự tiếp xúc có chọn lọc (selective exposure)
Những người có địa vị kinh tế xã hội khác nhau hoặc trình độ học vấn khác nhau sẽ
lựa chọn những nội dung và phương thức sử dụng các phương tiện truyền thông khác nhau.
Nếu như những người có học vấn và địa vị cao hơn biết sử dụng phương tiện tối ưu, lựa
chọn tiếp cận với những thơng tin có tầm vĩ mơ hơn, thì ngược lại, những người có địa vị và
7 Chris Drew, Knowledge Gap theory - The 5 Key Elements, 2019, Helpfulprofessor.com
8 Tichenor, Donohue & Olien, Mass media flow and differential growth in knowledge, 1970, pg. 160
9 Tichenor, Donohue & Olien, Mass media flow and differential growth in knowledge, 1970, pg. 162
7
học vấn thấp hơn sẽ ít hoặc khơng quan tâm đến các vấn đề lớn bởi học khơng biết nó ảnh
hưởng tới bản thân như thế nào. Chính sự khác biệt này đã góp phần tạo ra khoảng cách tri
thức giữa các bộ phận dân cư.
Thứ năm, thị trường mục tiêu của phương tiện truyền thông (media target market)
Mỗi sản phẩm, phương tiện truyền thông đều nhắm đến mục tiêu, thị trường, khách
hàng khác nhau. Ví dụ, “Pinterest” thường chủ yếu phục vụ cho phái nữ hoặc những người
yêu thích nghệ thuật hay “Instagram” được tạo ra để hướng tới những bạn trẻ tuổi hơn; các
bài báo tin tức sẽ có lượng khán giả ổn định là những người lớn tuổi ngồi 50 trở đi cịn có
các chương trình truyền hình thực tế lại phù hợp từ 25 đến 40 tuổi. Có thể thấy, đối tượng
được nhắm đến chủ yếu là những người có địa vị cao hơn trong xã hội. Vì vậy, trong thời
đại số hiện nay, khoảng cách sẽ ngày càng gia tăng bởi số lượng lớn phương tiện khác nhau
ra đời với những thị trường mục tiêu của riêng mình.
2. Điểm mạnh và điểm yếu của “Khoảng cách tri thức”
2.1. Điểm mạnh
Thứ nhất, theo Tichenor, Donohue và Olien, lý thuyết “Khoảng cách tri thức” cung cấp
“a fundamental explanation for the apparent failure of mass publicity to inform the public at
large.”10 (tạm dịch: một lời giải thích cơ bản cho sự thất bại rõ ràng của việc công khai đại
chúng trong cung cấp thông tin tới công chúng). Vì vậy, lý thuyết này chính là lời giải thích
cho việc tại sao thông tin không thể truyền đến tất cả mọi nơi chỉ thông qua phương tiện
truyền thông đại chúng.
Thứ hai, lý thuyết này giải thích được niềm tin vào tin tức giả ở những người có địa vị
xã hội thấp hơn. Như đã phân tích ở trên, với ít thông tin được lưu trữ và liên hệ xã hội,
những người này sẽ ít có khả năng nhận biết và phê bình tin tức giả.
2.2. Điểm yếu
Thứ nhất, lý thuyết đánh đồng địa vị xã hội và trình độ học vấn. Hai thuật ngữ này
được sử dụng thay thế cho nhau bởi những người sáng lập lý thuyết nhưng trên thực tế, hai
thuật ngữ này có điểm tương quan chứ khơng hồn tồn giống nhau, vì vậy sự thay thế này
là không phù hợp.
Thứ hai, lý thuyết này đã được tạo ra cách đây hơn 50 năm, chính vì vậy có thể nó
khơng cịn phù hợp ở thời điểm hiện tại.
3. Các cách làm giảm khoảng cách tri thức11
10 Tichenor, Donohue & Olien, Mass media flow and differential growth in knowledge, 1970, pg. 161
11 Knowledge Gap Theory, Communication Theory
8
Vào cuối năm 1975, Tichenor, Donohue và Olien đã khảo sát các vấn đề của quốc gia
và địa phương từ các mẫu xác suất của 16 cộng đồng Minnesota, từ đây xác định ba yếu tố
giúp làm giảm khoảng cách tri thức.
Thứ nhất, mức độ tác động đến cộng đồng
Các vấn đề tác động trực tiếp đến cộng đồng sẽ nhận được mối quan tâm của xã hội
nhiều hơn bất kể địa vị xã hội hay trình độ học vấn. Ví dụ như người dân sẽ quan tâm đến
các vấn đề ở địa phương nơi họ sinh sống hơn là các vấn đề quốc gia, khơng có tác động
nhiều đến họ. Khi đó, khoảng cách tri thức sẽ được thu hẹp.
Thứ hai, mức độ xung đột xung quanh vấn đề
Những vấn đề xung đột, drama luôn thu hút sự quan tâm của cơng chúng bất kể trình
độ học vấn nào. Điều này làm suy yếu khoảng cách tri thức.
Thứ ba, mức độ đồng nhất của cộng đồng
Tính đồng nhất của cộng đồng chính là sự tương đồng về chủng tộc, tầng lớp xã hội,
văn hóa,... của những người trong cộng đồng đó. Những cộng đồng đồng nhất thường có
khoảng cách tri thức nhỏ hơn những cộng đồng không đồng nhất.
III. Những ứng dụng của “Khoảng cách tri thức” trong báo chí, truyền thơng
1. Ứng dụng 1: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong các chiến dịch
truyền thông đại chúng nhằm làm giảm sự chênh lệch kiến thức về HIV/ AIDS giữa
cư dân thành thị và nông thôn ở phía tây bắc Ethiopia.
1.1. Giới thiệu
HIV/AIDS là một dạng bệnh tấn công vào hệ miễn dịch ở người và được Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) xem như một đại dịch. Khi con người chủ quan và thiếu kiến thức về căn
bệnh này thì nguy cơ bị lây nhiễm và tỉ lệ tử vong ngày càng cao. Vì vậy, việc bổ sung kiến
thức ở các nhóm dân số có nguy cơ là tiền đề cần thiết để có thể thay đổi hành vi và ngăn
ngừa HIV/AIDS. Mối liên hệ giữa kiến thức và hành vi không phải lúc nào cũng trực tiếp và
mạnh mẽ (Ajzen và cộng sự, 2011) 12, một số nhà điều tra kết luận rằng kiến thức là điều
kiện cần nhưng không đủ để thay đổi hành vi (Baldwin và cộng sự, 1990). 13 Từ đó, các lý
thuyết như Mơ hình Kỹ năng Hành vi - Động lực - Thông tin (IMB) cho rằng thông tin liên
quan trực tiếp đến việc lây truyền và dự phòng HIV là điều kiện tiên quyết nhất cần thiết
12 Ajzen I., Joyce N., Sheikh S., Cote N. G.. Knowledge and the prediction of behavior: the role of information
accuracy in the theory of planned behavior, Basic and Applied Social Psychology, 2011, vol. 33 (pg. 101-117).
13 Anderson J. E., Kann L., Holtzman D., Arday S., Truman B., Kolbe L.. HIV/AIDS knowledge and sexual
behavior among high school students, Family Planning Perspectives, 1990, vol. 22 (pg. 252-255).
9
ngay lúc này (Fisher và cộng sự, 2002). 14 Chính vì vậy, việc nâng cao tầm hiểu biết, kiến
thức là hành động thiết thực nhất, là mục tiêu để phòng ngừa chính ở các khu vực khác nhau
của châu Phi cận Sahara - nơi tỷ lệ có số người bị nhiễm HIV là nhiều nhất từ trước đến nay.
Ngay từ giai đoạn đầu của đại dịch, báo in, đài phát thanh và truyền hình hay các
phương tiện truyền thơng trực tuyến, đại chúng đã phổ biến thơng tin phịng chống ở nhiều
nơi trên toàn cầu (Noar, 2009). 15 Với khả năng tiếp cận to lớn và hiệu quả về chi phí (Hutton
và cộng sự, 2003;16 Hogan và cộng sự, 2005 17), các phương tiện thông tin đại chúng là một
trong những cơng cụ chính được sử dụng để tun truyền và nâng cao nhận thức, mang đến
tác động đáng kể về các kiến thức liên quan đến HIV/AIDS.
Mặc dù việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng trong cơng tác phịng chống
HIV/AIDS ở châu Phi cận Sahara đã trở nên phổ biến (Agha, 2003 18; Benefo, 200419;
Bertrand và cộng sự 200620; Kuhlmann và cộng sự, 200821), song vẫn rất ít người biết về các
tác động khác nhau mà ứng dụng này đem lại. Nhìn sâu vào vấn đề hơn nữa, nó kiểm tra
xem việc sử dụng các phương tiện thơng tin đại chúng liên quan đến HIV/AIDS có thể dự
đốn kiến thức về đại dịch hay khơng và việc sử dụng truyền thơng có nhiều khả năng làm
tăng hoặc giảm khoảng cách kiến thức giữa các bộ phận dân số nghiên cứu hay không. Đánh
giá được thông báo bởi hai lý thuyết truyền thông đại chúng được thiết lập - giả thuyết
khoảng cách kiến thức (Tichenor và cộng sự, 197022, 198023) và lý thuyết trồng trọt (Gerbner
và Gross, 197624).
14 Fisher J.D., Fisher W.A., Bryan A.D., Misovich S.J.. Information-motivation-behavioral skills model-based HIV
risk behavior change intervention for inner-city high school youth, Health Psychology, 2002, vol. 21 (pg. 177-186).
15 Noar S. M.. Pope C., White R. T., Malow R.. The Utility of ‘Old’ and ‘New’ media as Tools for HIV prevention,
HIV/AIDS Global Frontiers in Prevention/Intervention, 2009 New YorkRoutledge
16 Hutton G., Wyss K., Diekhor Y. N.. Prioritization of prevention activities to combat the spread of HIV/AIDS in
resource constrained settings: a cost-effectiveness analysis from Chad, Central Africa, International Journal of
Health Planning and Management, 2003, vol. 18 (pg. 117-136).
17 Hogan D. R., Baltussen R., Hayashi C., Lauer J. A., Salomon J. A.. Achieving the millennium development
goals for health: cost effectiveness analysis of strategies to combat HIV/AIDS in developing countries, BMJ, 2005.
18 Agha S.. The impact of a mass media campaign on personal risk perception, perceived self-efficacy and on other
behavioral predictors, AIDS Care, 2003, vol. 15 (pg. 749-762)
19 Benefo K. D.. The mass media and HIV/AIDS prevention in Ghana, Journal of Health and Population in
Developing Countries, 2004, truy cập ngày 13/6/2021.
20 Bertrand J. T., O'Reilly K., Denison J., Anhang R., Sweat M.. Systematic review of the effectiveness of mass
communication programs to change HIV/AIDS-related behaviors in developing countries, Health Education
Research: Theory and Practice, 2006, vol. 21 (pg. 567-597)
21 Kuhlmann A. K. S., Kraft J. M., Galavotti C., Creek T. L., Mooki M., Ntumy R.. Radio role models for the
prevention of mother-to-child transmission of HIV and HIV testing among pregnant women in Botswana, Health
Promotion International, 2008, vol. 23 (pg. 260-268)
22 Tichenor P. J., Donohue G. A., Olien C. N.. Mass media flow and differential growth in knowledge, Public
Opinion Quarterly, 1970, vol. 34 (pg. 159-170)
23 Tichenor P.J., Donohue G.A., Olien C.N.. , Community Conflict and the Press, 1980Newbury Park, CASage
Publications
24 Gerbner G., Gross L.. Living with television: the violence profile, Journal of Communication, 1976, vol. 26 (pg.
172-199)
10
Theo giả thuyết “Knowledge Gap”: “as the infusion of mass media information into a
social system increases, segments of the population with higher socioeconomic status tend
to acquire this information at a faster rate than lower status segments, so that the gap in
knowledge between these segments tends to increase rather than decrease” (tạm dịch: khi
việc truyền tải thông tin đại chúng vào hệ thống xã hội tăng lên, các bộ phận dân cư có địa
vị kinh tế xã hội cao hơn có xu hướng thu nhận thông tin này với tốc độ nhanh hơn các bộ
phận có địa vị thấp hơn, do đó khoảng cách về kiến thức giữa các phân đoạn này có xu
hướng tăng hơn là giảm).25 Một số nghiên cứu ban đầu dựa trên giả thuyết khoảng trống
kiến thức đã cung cấp hỗ trợ thực nghiệm cho giả thuyết này. Ngược lại, một vài cuộc điều
tra khác lại chỉ ra rằng việc truyền thông tin vào hệ thống xã hội thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng không phải lúc nào cũng tạo ra khoảng cách giữa các bộ phận dân cư có
tình trạng kinh tế xã hội cao hơn và thấp hơn, thường được chỉ ra bởi trình độ học vấn; một
số biện pháp can thiệp này thậm chí cịn thu hẹp khoảng cách. Sự mâu thuẫn giữa các
nghiên cứu ban đầu hình thành giả thuyết về khoảng trống kiến thức rõ ràng đã dẫn đến việc
khám phá các biến khác chịu trách nhiệm về các tác động khác nhau của các chiến dịch
thông tin trên phương tiện truyền thông đại chúng.
Nhiều nghiên cứu khác nhau đã điều tra vai trò của các yếu tố động lực khác nhau
trong việc hình thành và tần suất của các lỗ hổng kiến thức. Mặc dù động lực có thể cải
thiện dự đoán về lỗ hổng kiến thức, các nhà điều tra khác tin rằng chỉ riêng động cơ không
dự đoán được mức độ thiếu hụt kiến thức.
Giả thuyết về khoảng trống kiến thức đã được ủng hộ rộng rãi kể từ khi ra đời. Hàm ý
của nó đã được nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, tác động của truyền thông sức
khỏe trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với các nhóm xã hội khá nhau đã được
nghiên cứu rộng rãi. Khái niệm lồng ghép, là một thành phần chính của lý thuyết hiệu ứng
truyền thông của Gerbner, đề cập đến sức mạnh mà truyền thơng có đối với các cá nhân. Lý
thuyết khoảng cách kiến thức cho rằng nếu các cá nhân có cùng mức độ tiêu thụ phương
tiện truyền thơng thì nhiều khả năng họ có cùng niềm tin về thế giới. Giả thuyết này mâu
thuẫn với lý thuyết khoảng cách kiến thức, cho rằng khoảng cách kiến thức có thể giảm
xuống bất kể trình độ học vấn hoặc các chỉ số khác của kiến thức.
1.2. Phương pháp
1.2.1. Mẫu và quy trình
Một cuộc khảo sát hộ gia đình được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2011 tại hai
thị trấn thành thị (Bahir Dar và Debre Markos, cả hai thành phố vùng) và hai ngôi làng nông
25 Tichenor P. J., Donohue G. A., Olien C. N.. Mass media flow and differential growth in knowledge, Public
Opinion Quarterly, 1970, vol. 34 (pg. 159-170)
11
thôn (Jajirab và Kurfa) nằm ở tây bắc Ethiopia. Dữ liệu được thu thập từ 995 (497 người
thành thị và 498 người nông thôn) trong độ tuổi từ 15–34 (thành thị: M = 25,5, SD = 6,0;
nông thôn: M = 25,4, SD = 6,3). Ở châu Phi cận Sahara, HIV chủ yếu lây truyền qua quan
hệ tình dục khác giới (Berkeley, 199126; Morison, 200127), và do đó, thanh niên hoạt động
tình dục là nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Do đó, việc lấy mẫu các nhóm tuổi từ
15–34 là thích hợp. Trong số những người tham gia, lần lượt 46,7 và 53,3% cư dân thành thị
là nam và nữ, 46,2 và 53,8% cư dân nông thôn tương ứng là nam và nữ. Về trình độ học
vấn, lần lượt có 25,2, 33,2, 25,4 và 16,3% dân cư thành thị khơng có trình độ học vấn, tiểu
học, trung học và đại học, trong khi 68,5, 30,3 và 1,2% dân cư nơng thơn khơng có trình độ
học vấn, tiểu học và trung học χ2 (3, N = 995) = 2,90, p = 0,000. Trong mẫu đầu tiên, tất cả
các hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên. Chín đơn vị hành chính nhỏ nhất sau đó được đặt
trong ba cụm. Những người được chọn sau đó được chọn trên cơ sở xổ số dựa trên đặc điểm
dân số của họ. Các hộ gia đình được lựa chọn ngẫu nhiên đã được thăm và những cá nhân
có mặt trong chuyến thăm sẽ tham gia nếu họ đủ tuổi, sẵn sàng tham gia và cùng giới tính
với người phỏng vấn. Những người phỏng vấn có trình độ đại học đã phỏng vấn những
người tham gia để đáp ứng phần lớn những người được hỏi ở nông thôn không biết chữ và
để đảm bảo tỷ lệ trả lời và trả lời cao từ những người biết chữ. Bằng cách chọn những người
phỏng vấn không biết địa phương nhưng quen thuộc với phương ngữ và phong tục địa
phương, và bằng cách sử dụng các cặp người phỏng vấn - người trả lời cùng giới tính, một
nỗ lực đã được thực hiện để giảm thiểu sự thiên vị về mong muốn xã hội. Đề xuất nghiên
cứu với quy trình làm việc của nó đã được đệ trình lên Đại học Bahir Dar, cơ sở học thuật
gần nhất với khu vực nơi diễn ra nghiên cứu thực địa, và đã thu được thông tin về đạo đức.
1.2.2. Biến phụ thuộc
Một thước đo chi tiết về kiến thức HIV / AIDS được chuẩn bị dựa trên các biện pháp
trước đó (Koopman và cộng sự, 199028; Zimet, 199229; Carey và Schroder, 200230). Biện
pháp bao gồm 40 mục bao gồm bảy lĩnh vực nội dung: nhận thức về HIV / AIDS (α = 0,70),
phương thức lây truyền (α = 0,94), dự phòng lây truyền (α = 0,87), hành vi nguy cơ cao (α =
0,87), biểu hiện của người nhiễm HIV / AIDS (PLWHA) (α = 0,80), khả năng chữa khỏi (α
= 0,81) và tỷ lệ tử vong (α = 0,87). Các mục được trình bày với ba tùy chọn trả lời: có,
26 Berkley S.. Parenteral transmission of HIV in Africa, AIDS, 1991, vol. 5 (pg. 87-92)
27 Morison L.. The global epidemiology of HIV/AIDS, British Medical Bulletin, 2001, vol. 58 (pg. 7-18)
28 Koopman C., Rotherman-Borus M. J., Henderson R., Bradley J. S., Hunter J.. Assessment of knowledge of
AIDS and beliefs about AIDS prevention among adolescents, AIDS education and prevention, 1990, vol. 2 (pg. 5869)
29 Zimet G. D.. Reliability of AIDS knowledge scales: conceptual issues, AIDS Education and Prevention, 1992,
vol. 4 (pg. 338-344)
30 Carey M. P., Schroder K. E. E.. Development and psychometric evaluation of the brief HIV knowledge
questionnaire, AIDS education and prevention, 2002, vol. 14 (pg. 172-182)
12
không và không biết. Vấn đề nổi bật nhất trong việc đo lường kiến thức là sự nhầm lẫn giữa
kiến thức với niềm tin (Zimet, 199231; Ajzen và cộng sự, 201132).
1.2.3. Biến độc lập
1.2.3.1. Sử dụng phương tiện truyền thông liên quan đến HIV/AIDS
Biến này đề cập đến việc các cá nhân sử dụng có chủ ý hoặc khơng chủ ý các phương
tiện thông tin đại chúng (báo in, đài phát thanh và truyền hình) để biết thơng tin liên quan
đến HIV / AIDS trong tháng trước. Ba mục với các hạng mục trả lời bảy điểm đã được sử
dụng: (1) Trong tháng trước, trung bình, bạn có đọc các bài báo / câu chuyện liên quan đến
HIV / AIDS trên báo, tập sách nhỏ hoặc tập tài liệu hay khơng? (2) Bạn có thường xun
nghe các thơng điệp liên quan đến HIV / AIDS trên đài không? (3) Bạn có thường xun
xem các thơng báo liên quan đến HIV / AIDS trên tivi không? Các loại phản hồi là 1 = hồn
tồn khơng phải; 2 = một lần một tuần; 3 = 2–3 lần một tuần; 4 = 4–5 lần một tuần; 5 = 6–7
lần một tuần; 6 = 8–9 lần một tuần; và 7 = 10 lần trở lên một tuần. Tính khả dụng của
phương tiện truyền thơng được đo lường bằng cách yêu cầu người trả lời chỉ ra các nguồn
phương tiện truyền thông (đài và truyền hình) sẵn có trong tình trạng hoạt động tại nhà của
họ và các sản phẩm in cụ thể (sách, báo, tạp chí, tập sách nhỏ) mà họ có quyền truy cập.
1.2.3.2. Giao tiếp giữa các cá nhân liên quan đến HIV/AIDS
Biến này được đo lường bằng cách sử dụng thang điểm hai mục với các hạng mục
phản hồi năm điểm: (1)Tần suất bạn tham gia vào các cuộc trò chuyện liên quan đến HIV /
AIDS và / hoặc các cuộc thảo luận nâng cao nhận thức? (2) Bạn có thường nói về các vấn
đề liên quan đến HIV / AIDS với người khác không? Các loại phản hồi như sau: 1 = không
bao giờ, 2 = hiếm khi, 3 = thỉnh thoảng, 4 = thường xuyên và 5 = rất thường xuyên. Thang
đo được tạo ra bằng cách lấy giá trị trung bình của hai mục (Cronbach's α = 0,85, M = 1,64,
SD = 0,95).
1.2.3.3. Nơi ở thành thị so với nông thôn
Biến này được đo lường với các biến nhân khẩu học khác. Những người tham gia được
yêu cầu xác định mình là thành thị hay nơng thơn. Trước khi thu thập dữ liệu, các khu vực
nghiên cứu được chỉ định là thành thị và nơng thơn. Theo đó, các mẫu đơ thị có (1) dân số
hơn 1000 người chủ yếu hoạt động phi nông nghiệp và (2) một số lượng đáng kể các cơ sở
thương mại và sản xuất và các địa điểm công cộng, chẳng hạn như khách sạn, quán bar và
cửa hàng. Các mẫu nông thôn có (1) dân số dưới 1000 người chủ yếu hoạt động nông
31 Zimet G. D.. Reliability of AIDS knowledge scales: conceptual issues, AIDS Education and Prevention, 1992,
vol. 4 (pg. 338-344)
32 Ajzen I., Joyce N., Sheikh S., Cote N. G.. Knowledge and the prediction of behavior: the role of information
accuracy in the theory of planned behavior, Basic and Applied Social Psychology, 2011, vol. 33 (pg. 101-117)
13
nghiệp và (2) khơng có hoặc rất ít các cơ sở thương mại và sản xuất và các địa điểm công
cộng. Cư trú thành thị được mã là 1 và cư trú nông thôn là 0 (thành thị = 49,9; nông thôn =
50,1%).
1.2.3.4. Giáo dục
Giáo dục được đo lường như một trong những biến nhân khẩu học. Nó được mã hóa là
1 = khơng có giáo dục (46,8%), 2 = giáo dục tiểu học (31,8%), 3 = giáo dục trung học
(13,3%) và 4 = giáo dục đại học (8,1%).
1.2.3.5. Khả năng đón nhận thơng tin liên quan đến HIV/AIDS
Biến này được đánh giá với ba mục. Ba mục bao gồm biện pháp dựa trên tài liệu liên
quan (Griffin và cộng sự, 199933): (1) Tôi cảm thấy rằng thông tin liên quan đến HIV / AIDS
được phổ biến qua các kênh khác nhau là phù hợp với tôi; (2) Tôi cảm thấy rằng thông tin
liên quan đến HIV / AIDS đang được phổ biến qua các kênh khác nhau là phù hợp với
người dân trong cộng đồng của tôi; (3) Tôi cảm thấy rằng thông tin liên quan đến HIV /
AIDS được phổ biến qua các kênh khác nhau là có thể áp dụng được trong hồn cảnh hiện
tại của tơi. Các loại phản hồi dao động từ 1 (rất không đồng ý) đến 5 (rất đồng ý) với điểm 3
tương ứng với trung tính. Thang đo có tính nhất qn nội bộ tốt (Cronbach's α = 0,9, M =
3,12, SD = 1,04).
1.3. Phân tích dữ liệu
Sử dụng SPSS 17, một phân tích hồi quy thứ bậc được thực hiện để xác định xem liệu
việc sử dụng phương tiện truyền thông liên quan đến HIV / AIDS có dự đốn kiến thức liên
quan đến HIV / AIDS trong tổng số mẫu hay khơng. Một phân tích các thuật ngữ tương tác
đã được thực hiện để xác định xem việc sử dụng các phương tiện truyền thông liên quan đến
HIV / AIDS có khả năng mở và mở rộng hoặc thu hẹp và thu hẹp khoảng cách kiến thức
giữa các bộ phận dân số nghiên cứu hay không. Dựa trên các giả định lý thuyết của chúng
tôi và mục tiêu nghiên cứu, các biến được đưa vào mơ hình hồi quy theo thứ tự sau: đầu
tiên, độ tuổi và giới tính của những người tham gia được nhập như một khối đối chứng vào
Khối 1; Giáo dục, giao tiếp giữa các cá nhân và khả năng nhận thức của thông tin liên quan
đến HIV / AIDS được đưa vào Khối 2; thành thị so với nông thôn được nhập vào Khối 3;
Việc sử dụng các phương tiện truyền thông liên quan đến HIV / AIDS được đưa vào Khối 4;
bốn thuật ngữ tương tác được đưa vào Khối 5. Để giảm các vấn đề tiềm ẩn về đa cộng
tuyến, tất cả các biến độc lập được căn giữa bằng cách trừ trung bình cho mỗi điểm trước
khi hình thành các thuật ngữ tương tác.
33 Griffin R. J., Dunwoody S., Neuwirth K.. Proposed model of the relationship of risk information seeking and
processing to the development of preventive behaviors, Environmental Research Section, 1999, vol. 80 (pg. 230-245)
14
1.4. Kết quả nghiên cứu
Bảng dưới tóm tắt các kết quả thu được từ phân tích hồi quy thứ bậc (“Hierarchical
regression”: phương pháp hồi quy so sách phân cấp các mơ hình hồi quy lồng ghép vào
nhau). Điểm kiểm tra mức độ kiến thức về HIV / AIDS của người trả lời phỏng vấn được
hồi quy về trình độ học vấn, mức độ nhận thức về thông tin liên quan đến HIV / AIDS, quan
hệ giao tiếp giữa các cá nhân, thành thị với nông thôn, việc sử dụng phương tiện truyền
thông, tương tác điều khoản giữa việc sử dụng phương tiện ấy và các yếu tố dự đốn:
Trong đó, khối 1 - khối kiểm soát - chiếm 6,8% tổng phương sai của biến kết quả
(p <0,0001), độ tuổi (β = −0,19, p <0,0001) đóng góp cao hơn giới tính (β =
−0,18, p<0,0001). Và khối 2 - giáo dục, khả năng nhận thức của thông tin liên quan đến
HIV / AIDS và giao tiếp giữa các cá nhân - chiếm 48,5% phương sai (p <0,0001), trong đó
giáo dục đóng góp cao nhất (β = 0,47, p <0,0001).
Dựa trên những số liệu trên, có thể thấy, đúng như kỳ vọng, yếu tố nơi cư trú nổi lên
và giữ vai trò dự đoán quan trọng chiếm 5,6% phương sai (β = 0,37, p<0,0001). Tuy nhiên,
dù được kiểm soát giáo dục, nhận thức về khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến HIV /
AIDS, giao tiếp giữa các cá nhân và nơi cư trú thành thị với nông thôn, việc sử dụng các
phương tiện truyền thông liên quan đến HIV / AIDS lại không được coi là một yếu tố dự báo
đáng kể về kiến thức HIV / AIDS - điều này trái với dự đoán ban đầu. 34
34 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
15
Bảng 1: Tóm tắt kết quả từ phân tích hồi quy phân cấp.35
Dù vậy, như hình 1, khoảng cách kiến thức giữa các cá nhân có trình độ học vấn cao
và trình độ học vấn thấp có thể sẽ rộng ra khi việc sử dụng phương tiện truyền thông thấp,
nhưng khoảng cách này sẽ thu hẹp lại khi việc sử dụng phương tiện truyền thông tăng lên. 36
35 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
36 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
16
Hình 1: Biểu đồ hồi quy cho sự tương tác giữa việc sử dụng phương tiện truyền
thông và giáo dục37
Tuy nhiên, sự tương tác của việc sử dụng phương tiện truyền thông với nơi ở thành thị
và nông thôn là khác nhau. Như hình 2, thay vì thu hẹp khoảng cách, việc sử dụng phương
tiện truyền thơng có nhiều khả năng làm tăng khoảng cách kiến thức giữa cư dân thành thị
và cư dân nông thôn. 38
37 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
38 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
17
Hình 2: Biểu đồ hồi quy cho sự tương tác giữa việc sử dụng phương tiện truyền
thông và sự đô thị so với nông thôn.
1.5. Đánh giá nhận xét
Trong nghiên cứu này, mặc dù việc sử dụng các phương tiện thơng tin đại chúng liên
quan đến HIV/ AIDS khơng có ảnh hưởng đáng kể đến kiến thức liên quan đến HIV/ AIDS
trong tổng dân số (sau khi kiểm soát giáo dục và các yếu tố dự báo kiến thức quan trọng
khác), song các phương tiện ấy lại có một ảnh hưởng đáng kể đến các phân đoạn nhất định
của dân số nghiên cứu.
Thơng thường, những người có trình độ học vấn cao thường có hiểu biết sâu và rộng
hơn về các kiến thức HIV/ AIDS. Nhưng nếu việc sử dụng các phương tiện truyền thông
tăng lên, khoảng cách kiến thức giữa những người có trình độ học vấn cao và trình độ học
vấn thấp sẽ được thu hẹp. Điều này có vẻ trái ngược với các khẳng định ban đầu của giả
thuyết khoảng trống kiến thức nhưng lại phù hợp với các nghiên cứu khác cho rằng các
phương tiện truyền thơng đại chúng có chức năng như một “cơng cụ nâng cao kiến thức”
giữa những người có trình độ học vấn cao và những người có trình độ học vấn thấp (hoặc
tình trạng kinh tế xã hội nói chung) (Douglas và cộng sự (1970) 39; Galloway (1974)40; Shinji
và Mody (1976)41; Ackerson và cộng sự (2011)42) và bộ phận dân số nào sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến HIV / AIDS cao hơn thì sẽ có mức độ hiểu
39 Douglas D. F., Westley B. W., Chaffee S. H., An information campaign that changed community attitudes,
Journalism Quarterly, 1970, pg. 179-187.
40 Galloway J. J., Substructural rates of change and adoption and knowledge gaps in the diffusion of innovations,
1974 Michigan State University unpublished PhD dissertation.
41 Shingi P. M., Mody B., The communication affects gap: a field experimentation on television and agricultural
ignorance in India, Communication Research, 1976, pg. 171-190.
42 Ackerson L.K., Ramandhan S., Arya M., Viswanath K., Social disparities, communication inequalities, and HIV/
AIDS – related knowledge and attitudes in India, AIDS and Behavior, 2011.
18
biết cao hơn về HIV/ AIDS (điều này áp dụng với mọi trình độ học vấn và mức độ giao tiếp
giữa các cá nhân về HIV/ AIDS) (Gerbner và cộng sự (1980)43).
Ngược lại, nghiên cứu này lại phát hiện ra việc sử dụng các phương tiện thông tin đại
chúng lại có chức năng cơ lập, mặc dù có cơ chế khác nhau nhưng điều này phù hợp với
công thức ban đầu của giả thuyết khoảng trống kiến thức. Khoảng cách về kiến thức HIV/
AIDS giữa cư dân thành thị và nơng thơn có xu hướng tăng hơn là giảm khi việc sử dụng
các phương tiện truyền thông liên quan đến HIV/ AIDS tăng lên. Theo các nhà nghiên cứu,
điều này không xuất phát từ sự khác biệt về năng lực xử lý thông tin mà bắt nguồn từ sự
khác biệt trong nhận thức về khả năng đón nhận thơng tin.
Dù không tương tác đáng kể với nơi cư trú ở thành thị với nông thôn, nhưng khả năng
nhận thức thông tin liên quan đến HIV/ AIDS cũng có mối tương quan thuận cao với cư trú
ở thành thị và được coi là một yếu tố dự báo quan trọng đối với kiến thức liên quan đến
HIV/ AIDS (Bảng 2). Điều này cho thấy mức độ nhận thức thấp của cư dân nông thôn đối
với thông tin liên quan đến HIV/ AIDS có thể giảm mức độ sử dụng các phương tiện truyền
thông liên quan đến HIV/ AIDS, ngay cả khi các phương tiện đại chúng sẵn có và dễ tiếp
cận. Nói cách khác, các thơng điệp phịng chống HIV/ AIDS trên các phương tiện truyền
thông đại chúng hiện đang được phát đi có thể hấp dẫn và phù hợp với cư dân thành thị hơn
là cư dân nông thôn dẫn đến sự khác biệt trong mức độ sử dụng phương tiện truyền thông. 44
Bảng 2: Tương quan lưỡng biến không thứ tự giữa các biến độc lập và phụ
thuộc.45
43 Gerbner G., Gross L., Morgan M., Signorielli N., The mainstreaming of America: violence profile no. 11, Journal
of Communication, 1980, pg. 10-29.
44 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
45 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
19
Ngồi những giải thích dựa trên dữ liệu này, một số giả thuyết cũng có thể được sử
dụng để giải thích khoảng cách thành thị và nơng thơn ngày càng gia tăng. Ví dụ, lý thuyết
về “Khoảng cách tri thức” (Donohue và cộng sự (1975)) tuyên bố rằng “Trong bất kỳ hệ
thống xã hội tổng thể nào, một số hệ thống con có các mơ hình hành vi và giá trị có lợi cho
sự thay đổi, trong khi những hệ thống khác có các mơ hình chống lại sự thay đổi nhiều
hơn. Do đó, các hệ thống con có khuynh hướng chấp nhận và hành động dựa trên thông tin
với tốc độ nhanh hơn so với các hệ thống con trì trệ hơn” 46. Vì vậy, cộng đồng ở nơng thơn
có thể được coi là một hệ thống phụ có khả năng chống chịu cao hơn và ít có khuynh hướng
tiếp nhận và hành động khi có thơng tin về HIV/ AIDS từ các phương tiện thơng tin đại
chúng. Cịn người thành thị nói chung có xu hướng tiếp xúc gần hơn với HIV/ AIDS do khu
vực này có tỷ lệ lây nhiễm cao hơn nên giúp mở rộng tác động của phương tiện truyền
thơng.
Một lời giải thích khác cho các tác động khác nhau của phương tiện truyền thông đại
chúng giữa thành thị và nơng thơn cũng có thể được rút ra từ “Lý thuyết phụ thuộc vào
phương tiện truyền thông” (“Media Dependency Theory”, Ball-Rokeach và DeFleur
(1976)47). Lý thuyết này cho rằng việc mọi người sử dụng phương tiện truyền thông và phụ
thuộc vào phương tiện truyền thông được quy định bởi sự ổn định xã hội; xã hội chúng ta
đang sống càng bất ổn (về mặt chính trị, kinh tế và xã hội), chúng ta sẽ càng phụ thuộc
nhiều hơn vào các phương tiện truyền thông và ngược lại. Với sự chênh lệch giữa thành thị
và nông thôn về tỷ lệ hiện nhiễm HIV và tỷ lệ tử vong do AIDS, có thể hiểu rằng cư dân
thành thị và nơng thơn có những nhận thức và cách ứng phó khác nhau về mối đe dọa của
HIV/ AIDS (Hobfall (1998)48). Trong đó, người dân thành thị có mối quan tâm và nhu cầu
thông tin về HIV/ AIDS cao hơn so với người dân nơng thơn (Bekalu và Eggermont
(2013)49) vì tỷ lệ hiện nhiễm và tác động của HIV / AIDS khiến người dân thành thị phải
phụ thuộc và ảnh hưởng nhiều bởi các phương tiện truyền thông hơn là những người nông
thôn.50
1.6. Kết luận
46 Douglas D. F., Westley B. W., Chaffee S. H., An information campaign that changed community attitudes,
Journalism Quarterly, 1970, pg. 179-187.
47 Ball-Rokeach S. J., DeFleur M. L., A dependency model of mass-media effects, Communication Research, 1976,
pg. 3-21.
48 Hob Falls., Ecology, community, and AIDS prevention, American Journal of Community Psychology, 1998, tr.
133-144.
49 Bekalu M. A., Eggermont S., Determinants of HIV/ AIDS – related information needs media use: beyond
individual – level factors, Healthy Communication, 2013, tr. 1-13.
50 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
20
Từ những phân tích trên của nghiên cứu, có thể thấy rằng việc truyền tải thông tin liên
quan đến HIV / AIDS vào hệ thống xã hội thông qua các phương tiện thơng tin đại chúng có
thể vừa thu hẹp, vừa mở rộng “Khoảng cách tri thức” về HIV / AIDS. Trong khi khoảng
cách giữa những người có trình độ học vấn cao và thấp có xu hướng thu hẹp hơn, khoảng
cách giữa cư dân thành thị và nông thôn lại có xu hướng mở rộng hơn.
Những phát hiện này có một số ý nghĩa đối với các chiến dịch nâng cao sức khỏe và
thông tin về HIV / AIDS ở châu Phi cận Sahara nói chung và ở Ethiopia nói riêng:
Thứ nhất, trong những tình huống mà các phương tiện thơng tin đại chúng có sẵn và
có thể truy cập được, các phát hiện cho thấy rằng các chiến dịch thơng tin trên phương tiện
truyền thơng đại chúng có thể được sử dụng để giải quyết sự bất bình đẳng về thơng tin có
thể xảy ra giữa một số bộ phận dân cư. Cụ thể hơn, sự thiếu hụt kiến thức về HIV / AIDS ở
những người có trình độ học vấn thấp và những người không tham gia vào hoạt động truyền
thông giữa các cá nhân về HIV / AIDS vì nhiều lý do có thể được giải quyết bằng các
phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ hai, nghiên cứu hiện tại và các cuộc điều tra cấp quốc gia khác (ESCA (2005) 51)
cho thấy rằng khoảng cách kiến thức về HIV / AIDS giữa cư dân thành thị và nơng thơn của
Ethiopia đã q rộng. Do đó, dân số nông thôn, chiếm khoảng 85% tổng dân số cả nước, sẽ
ngày càng dễ bị tổn thương bởi đại dịch nếu cư dân nông thôn tiếp tục thiếu kiến thức để họ
có thể thực hiện các hành vi bảo vệ. Mặc dù các chiến dịch thông tin sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng thường được kỳ vọng sẽ thu hẹp khoảng cách này, nhưng trên thực
tế lại ngược lại. Các chiến dịch phòng chống HIV / AIDS trên các phương tiện thông tin đại
chúng hiện nay lại nới rộng hơn là thu hẹp khoảng cách. Vì vậy cần phải có những nỗ lực
khắc phục tình trạng khó tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng của người dân
nông thôn (Hendriksen và cộng sự (2009) 52). Nghiên cứu của Bogale và cộng sự (2011) cho
thấy cách tiếp cận truyền thông theo định hướng xã hội như thảo luận hay đóng vai truyền
đạt thơng điệp phịng chống HIV / AIDS cho người dân nông thôn hiệu quả hơn. 53 Vì vậy,
giao tiếp chiến lược địi hỏi phải lồng ghép phương pháp khác nhau.
Thứ ba, tác động khác biệt quan sát được của các phương tiện thông tin đại chúng có
thể dễ dàng hơn do sự khác biệt trong nhận thức về khả năng đón nhận thơng tin. Nếu như
người dân nông thôn quan tâm đến thông tin cơ bản về lây truyền và phòng chống HIV (như
HIV và AIDS là gì, các triệu chứng của nhiễm trùng, yếu tố nguy cơ dẫn đến lây nhiễm
51 Ethiopian Central Statistical Agency, Ethiopian Demographic and Healthy Survey, 2005 Ethiopia Addis Ababa.
52 Hendiksen E.S., Hlubinka D., Chariyalertsak S., Chingono A., Gray G., Mbwambo J., et al, Keep talking about it:
HIV/ AIDS – related communication and prior HIV testing in Tanzania, Zimbabwe, South Africa, and Thailand, ÀDS
Behavior, 2009, pg. 1213-1221.
53 Bogale G. Ư., Boer H., Seydel E. R., Effects of a theory-based audio HIV/AIDS intervention for illiterate rural
females in Amhara, Ethiopia, AIDS Education and Prevention, 2011, pg. 25-37.
21
HIV) thì người dân thành thị tỏ ra ưa thích thơng tin về chăm sóc và hỗ trợ liên quan đến
HIV / AIDS (như xét nghiệm và chẩn đoán , điều trị và chăm sóc và xử lý các bệnh cơ hội)
vì dịch đã phổ biến hơn ở thành thị hơn các vùng nông thôn trong ba thập kỷ qua (Bekalu và
Eggermont (2013)54; UNAIDS (2009)55). Do đó, để thúc đẩy người dân nông thôn sử dụng
các phương tiện thông tin đại chúng về HIV / AIDS, chúng ta cần phải mang đến những
thông điệp phù hợp hơn với người dân nông thôn, thông tin đáp ứng nhu cầu của người dân
thành thị và nội dung của các chương trình nên tập trung vào khán giả ở cả hai nhóm
(Payton và Kiwanuka-Tondo (2009)56; Ramaprasad (2011)57).
Nhìn chung, các chiến dịch thơng tin đại chúng hiện nay được chuẩn bị và phát sóng từ
các trung tâm đô thị không những không nâng cao được kiến thức về HIV/ AID cho người
dân nông thôn mà còn khiến họ gặp bất lợi so với người dân thành thị. Các tài liệu về thực
hành nâng cao sức khỏe ở châu Phi cận Sahara cũng cho thấy hệ thống thơng tin y tế chính
thống ở hầu hết các quốc gia trong khu vực phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin y
tế của người dân nông thôn (Nyawaya và cộng sự (1998) 58). Một số lập luận rằng người dân
nơng thơn có xu hướng gặp khó khăn trong việc tiếp nhận và hiểu các thơng điệp về HIV/
AIDS, điều này bắt nguồn do các yếu tố văn hóa xã hội trong việc lập kế hoạch can thiệp
thông tin y tế nhằm vào khu vực nông thôn (Nyawaya và cộng sự (1998) 59; Muturi (2005)60;
Muturi và Mwangi (2011)61). Vì vậy, phương pháp tiếp cận xã hội học can thiệp các yếu tố
cấp cộng đồng (huy động cộng đồng, phát triển cơ sở hạ tầng cộng đồng và nâng cao năng
lực cộng đồng) hiệu quả hơn hầu hết các chiến dịch thông tin về HIV / AIDS hiện nay sử
dụng phương pháp tiếp cận hành vi giảm thiểu (Air Hien Hwa và Obregon (2000) 62; Noar
(2007)63).
54 Bekalu M. A., Eggermont SDeterminants of HIV/ AIDS – related information needs and media use: beyond
individual – level factors, Healthy Communication, 2013, pg. 1-13.
55 UNAIDS, 2009 Joint United Nations Program on HIV/ AIDS – AIDS Epidemic Update.
56 Payton F. C., Kiwanuka-Tondo J., Contemplating public policy in HIV, AIDS online content, then where is the
technology spirit?, European Journal of Information Systems, 2009, pg. 192-204.
57 Ramaprasad J., Couple testing for HIV: evaluate effectiveness of a video in Uganda, Journal of Health & Mass
Communication, 2011, pg. 205-227.
58 Nyamwaya D., Nordberg E., Oduol E., Socio-cultural information in support of local healthy planning:
conclusions from a survey in rural Kenya, International Journal of Healthy Planning and Management, 1998, pg. 2745.
59 Nyamwaya D., Nordberg E., Oduol E., Socio-cultural information in support of local healthy planning:
conclusions from a survey in rural Kenya, International Journal of Healthy Planning and Management, 1998, pg. 2745.
60 Muturi N. WCommunication for HIV/ AIDS prevention in Kenya: social – cultural considerations, Journal of
Healthy Communication, 2005, pg.77-98.
61 Muturi N. W., Mwangi S, Older adults’ perspectives on HIV/ AIDS prevention strategies for rural Kenya, Healthy
Communication, 2011, pg. 712-723.
62 Airhihenbuwa C. O., Obregon R., A critical assessment of theories/ models used in healthy communication for
HIV/ AIDS, Journal of Healthy Communication, 2000, pg. 5-15.
63 Noar S. M., An interventionist’s guide to AIDS behavioral theories, AIDS Care, 2007. pg. 392-402.
22
Có thể thấy, những phát hiện trên cung cấp thơng tin cho nghiên cứu và lý thuyết về
các chiến dịch thông tin nâng cao sức khỏe và HIV / AIDS theo hai cách. Đầu tiên, “Khoảng
cách tri thức” giữa thành thị và nông thôn bị ràng buộc nhiều hơn khi thông tin đại chúng
tiếp tục đi vào hệ thống xã hội, đặt ra vấn đề “Khoảng cách tri thức” từ nhiều thập kỷ trước
và lĩnh vực phòng chống HIV / AIDS. Thứ hai, giống như những phát hiện mới trong lĩnh
vực nâng cao sức khỏe (Raeburn và cộng sự (2006) 64; Moore và cộng sự (2010)65; Southwell
và cộng sự (2010)66), thông qua phương pháp tiếp cận xã hội học, các chiến dịch truyền
thông về HIV/ AIDS sẽ hiệu quả hơn và giúp khắc phục, thu hẹp “Khoảng cách tri thức”
ngày càng rộng giữ cư dân thành thị và nông thôn (McLeory và cộng sự (1988) 67; Stokols
(1996)68; Green và cộng sự (1996)69).70
2. Ứng dụng 2: Ứng dụng của lý thuyết “Khoảng cách tri thức” trong chiến dịch
truyền thông đại chúng nhằm giảm nguy cơ ung thư liên quan đến chế độ ăn.
Lý thuyết “Khoảng cách tri thức” đã được một nhóm tác giả vận dụng trong nghiên
cứu kiểm tra sự khác biệt về mặt kiến thức giữa hai nhóm người có trình độ học vấn khác
nhau mà đã được tham gia The Cancer and Diet Intervention Project (CANDI) - một chiến
dịch phòng ngừa ung thư liên quan đến chế độ ăn kiêng kéo dài một năm.
Trước khi bắt đầu nghiên cứu, dự án đã tiến hành một chiến dịch online để tranh thủ
người dân tham gia khóa học tại nhà. Như được mô tả chi tiết bởi Finnegan et al. (1992),
khóa học tại nhà được thiết kế như một trải nghiệm học tập chuyên sâu hơn về các chiến
lược giảm thiểu bệnh ung thư liên quan đến chế độ ăn uống, bao gồm lập kế hoạch thực
phẩm, mua hàng và kỹ năng chuẩn bị. Khóa học được thiết kế bởi các chuyên gia dinh
dưỡng uy tín và đã thu hút hơn 3.700 cư dân cộng đồng đăng ký.
2.1. Phương pháp
64 Raeburn J. Akerman M., Chung Tian Sup K., Mejua F., Oladepo O., Community capacity building and healthy
promotion in a globalized world, Health Promotion International, 2006, pg. 84-90.
65 Moore D., Carr C. A., Williams C., Richlen W., Huber M., Wagner J., An ecological approach to addressing HIV/
AIDS in the American Community, Journal of Evidence-Based Social Work, 2010, pg. 144-161.
66 Southwell B. G., Slater J. S., Rothman A. J., Friedengberg L. M., Allison T. R., Nelson C. L., The availability of
community ties predicts likelihood of peer referral for mammography: geographic constraints on viral marketing,
Social Science & Medicine, 2010, pg. 1627-1635.
67 McLeroy K. R., Bibeau D., Steckler A., Glanz K., An ecological perspective on healthy promotion programs,
Healthy Education & Behavior, 1988, pg. 351-377.
68 Stokols D., Translating social ecological theory into guidelines for community health promotion, American
Journal of Health Promotion, 1996, pg. 282-298.
69 Green L. W., Richard L., Potvin L., Ecological foundations of healthy promotion, American Journal of Health
Promotion, 1996, pg. 270-281.
70 Mesfin Awoke Belaku, Steven Eggermont, Media use and HIV/ AIDS knowledge: a knowledge gap perspective,
Health Promotion International, ,truy cập: truy
cập ngày 15/6/2021.
23
Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã lấy các tệp người dùng ngẫu nhiên trong số những
người đăng ký tham gia khóa học - nhóm được thúc đẩy và các tệp người dùng khơng đăng
ký khóa học nhưng có tiếp cận đến quảng cáo khóa học thơng qua các kênh phương tiện
truyền thơng khác nhau.
2.2. Quy trình
Đối tượng nghiên cứu của chiến dịch: người dân có độ tuổi từ 25 - 69 tuổi.
Các công dân được khảo sát bằng cách kết hợp được quay số ngẫu nhiên và các cuộc
khảo sát qua thư trước chiến dịch (T1) và một năm sau khi hoàn thành chiến dịch (T2).
Bảng: Tỉ lệ phản hồi của chiến dịch
Phần khảo sát qua điện thoại xác định những cá nhân đủ điều kiện để được phỏng vấn
và thu thập thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, kiến thức về chế độ ăn uống và thái độ.
Bảng 1 hiển thị tổng số lượng mẫu và tỷ lệ phản hồi cho các cuộc khảo sát của từng nhóm.
Có thể thấy rằng, ở cả 2 thời điểm T1 và T2, nhóm được chọn lọc ngẫu nhiên có tỉ lệ phản
hồi cao hơn nhóm cịn lại.
2.2.1. Phương pháp đo lường phụ thuộc vào đối tượng
Kiến thức được đo lường theo hai chủ đề: chất béo và chất xơ trong chế độ ăn. Thang
đo lường kiến thức đều được dựa trên các câu hỏi mở. Nhóm được hỏi đầu tiên được yêu
cầu liệt kê các chiến lược khác nhau để giảm chất béo trong chế độ ăn kiêng của một người
mà người đó đang cần lời khuyên từ họ. Nhóm người được hỏi thứ 2 có câu hỏi tương tự
nhưng là kế hoạch để tăng chất xơ trong chế độ ăn.
24
Khoảng cách kiến thức đã tính tốn qua sự khác nhau về điểm số, thể hiện sự khác biệt
về kiến thức giữa nhóm có trình độ học vấn cao hơn và thấp hơn. Thuật ngữ khoảng cách
kiến thức dựa trên giáo dục đã được sử dụng một cách nhất quán để cho thấy sự khác biệt về
điểm số do sự khác biệt trong giáo dục.
2.2.2. Phương pháp đo lường độc lập
Trên 2 nhóm người, các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về động lực thúc đẩy
qua các yếu tố sau:
Thứ nhất, yếu tố đầu tiên chính là cách họ suy nghĩ tiếp cận về vấn đề này như thế
nào. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy hai cách đo lường khả năng tiếp cận qua đánh giá hiệu
quả hoạt động của Internet trong việc thực hiện các thay đổi trong chế độ ăn uống. Thang đo
thứ nhất là đánh giá việc thể hiện sở thích cá nhân trong việc thay đổi chế độ ăn uống (dao
động tử 0 đến 10). Thang đo thứ 2 là đánh giá xem liệu mối quan tâm cá nhân của họ về
dinh dưỡng có giảm đi, vẫn như vậy hay tăng lên (dao động từ -1 đến 1).
Thứ hai là sự nhận thức về những rủi ro sức khỏe. Mơ hình niềm tin về sức khỏe cho
rằng nhận thức về rủi ro cá nhân là một yếu tố quan trọng làm trung gian cho các kết quả
sức khỏe (Rosenstock, 1990; Rosenstock, Strecher & Becker, 1998). Một cá nhân nhận thức
càng nhiều nguy hiểm cá nhân thì sự quan tâm của họ đối với thông tin hoặc hành động
càng lớn để tránh những hậu quả rủi ro có thể xảy ra. Trong nghiên cứu này, họ đã sử dụng
thước đo trong một câu hỏi về khả năng họ nghĩ rằng mình sẽ " bị mắc ung thư trong vòng
mười năm tới" (dao động từ 0 đến 10).
Thứ ba đó là yếu tố kỳ vọng của mỗi cá nhân có thể thay đổi thành cơng hành vi của
chính mình để cải thiện sức khỏe bản thân. Các nhà nghiên cứu đã phân tích hai chiều của
yếu tố này là nhận thức của từng cá nhân về mối liên hệ giữa việc thực hiện một hành động
được khuyến nghị hoặc giảm một mối đe dọa được nhận thức.
Cuối cùng, họ đã yêu cầu những người tham gia khảo sát trả lời cho biết trình độ học
vấn chính thức của họ trên quy mơ khác nhau, từ trình độ thấp hơn là giáo dục trung học cho
đến bằng cấp sau đại học.
2.3. Phân tích
Dữ liệu bao gồm 1.002 cuộc khảo sát đã hồn thành trong hai nhóm (dân số chung và
nhóm được lựa chọn ngẫu nhiên) tại hai thời điểm (T1 và T2).
Biến số giữa các nền giáo dục là trình độ học vấn thấp - cao (thấp - đào tạo nghề trở
xuống; cao - trình độ cao đẳng trở lên).
Biến phụ thuộc là kiến thức (hai số đo).
25