Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao (10)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.29 KB, 25 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

-------------------

HỌC PHẦN: ĐẠI CƯƠNG TRUYỀN THƠNG ĐẠI CHÚNG
ĐỀ TÀI: Lý thuyết Khơng gian cơng (Public Sphere)

Giảng viên hướng dẫn : TS. Phan Văn Kiền
Lớp

: TT47A2

Nhóm thực hiện

: Ngơ Nguyễn Thanh Thúy - TT47A1-0578
(nhóm trưởng)
Nơng Cẩm Tú - TT47A1-0581
Trần Thu Trà - TT47A1-0587
Phạm Thị Minh Thư - TT47A1-0579

Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2021

1


MỤC LỤC

I.

LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA THUYẾT KHÔNG GIAN CÔNG


1. Không gian công và Jürgen Habermas
2. Không gian công và châu Âu
3. Không gian công và gốc từ Hy Lạp – La Mã

3
3
3
5

II. NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA LÝ THUYẾT KHƠNG GIAN CƠNG

6

1. Khái niệm “khơng gian cơng”
2. Đặc trưng và đặc điểm của “không gian công”
3. Ưu điểm và nhược điểm của lý thuyết “không gian công”
3.1. Ưu điểm
3.2. Nhược điểm
III. NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA LÍ THUYẾT KHƠNG GIAN CƠNG

6
8
9
9
10

TRONG BÁO CHÍ, TRUYỀN THƠNG
1. Các yếu tố ảnh hưởng tới mối liên hệ giữa không gian công và báo chí,
truyền thơng
2. Những tác động của truyền thơng và báo chí lên khơng gian cơng qua từng

thời kì
3. Lý thuyết không gian công và mạng xã hội
3.1. Mạng xã hội - một không gian công mới?
3.2. Sự khác nhau giữa các khơng gian cơng trên nền tảng Facebook
3.2.1. Phân tích số liệu
3.2.2. Nhận xét
3.2.3. Kết luận
IV. KẾT LUẬN

I.

11
11
12
17
17
18
19
22
23
23

LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA THUYẾT
KHƠNG GIAN CƠNG

1. Khơng gian cơng và Jürgen Habermas
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, nhắc đến “không gian công” (public sphere),
không thể không nhắc đến cái tên Jürgen Habermas - khn mặt trí thức hàng đầu về
lý thuyết không gian công ở nước Đức từ những năm 1970 đến nay. Không những vậy,


2


ơng cịn là một lý thuyết gia về chính trị xã hội, về luật pháp; một nhà phê bình xã hội;
một nhà hành động chính trị; và trên hết trong tư cách là một triết gia, ông đã nỗ lực
tạo dựng nên một hướng đi mới của tư tưởng Đức sau thời kì Quốc xã.
Khơng gian cơng là chủ đề được đề cập rất nhiều trong các bài viết của J.
Habermas. Đây là một chủ đề quan trọng vì nó liên quan đến các câu hỏi về lợi ích
chung, vốn đụng chạm đến bất cứ xã hội nào, bất cứ nhóm nào trong xã hội. Nó khơng
chỉ giới hạn trong phạm vi nhà nước - dân tộc (nation - state), mà cịn có thể ở quy mơ
quốc gia, quy mơ vùng, châu lục hay thế giới. Bởi lẽ, không gian công tạo ra một cộng
đồng tinh thần cho bất cứ cộng đồng pháp lý nào.1
Trong số những bài viết của mình, Habermas đã có tác phẩm vơ cùng nổi tiếng:
“The Structural Transformation of the Public Sphere: An Inquiry into a Category of
Bourgeois Society” (1962), tạm dịch là “Sự chuyển đổi cấu trúc của không gian công:
Một nghiên cứu về phạm trù xã hội dân sự”. Trong cơng trình nghiên cứu này,
J.Habermas đã đề cập đến sự xuất hiện của khái niệm “công cộng” (the public) và
“công luận” (public opinion), thậm chí cả sự phát triển của chúng qua các thời kì cho
đến khi “khu vực cơng cộng” đi vào giai đoạn suy thối.
Qua đó, ơng cho thấy sự xuất hiện của các khơng gian cơng giữ một vai trị rất
quan trọng trong sự phát triển của nền dân chủ kể từ sau thời kì phong kiến tại châu
Âu. Đồng thời, dựa trên sự phê phán những hạn chế của các phương tiện truyền thơng
đại chúng trong việc hình thành dư luận xã hội để đề ra khái niệm “Không gian
công”.2

2. Không gian công và châu Âu
Trong nghiên cứu “The Structural Transformation of the Public Sphere: An
Inquiry into a Category of Bourgeois Society” (1962), Habermas còn đưa ra một
khung lý thuyết chính liên quan đến lĩnh vực cơng và xã hội dân sự (civil society). Tại


1 TS. Nguyễn Xuân Nghĩa, Không gian cơng và tơn giáo, tạp chí Nghiên cứu tơn giáo, số 09 (135),
2014, tr.20 -38.

2

PGS.TS.Lê Thanh Bình (2021), Giáo trình Truyền thơng đối ngoại, Nxb. Chính trị Quốc gia sự
thật, Hà Nội.

3


đây, ông tập trung nghiên cứu về Tây Âu trong thế kỷ XVII - XVIII và chứng minh
rằng không gian cơng bắt đầu từ đó. 3
Trong thời kỳ này, giai cấp tư sản thường tụ tập tại những nơi mà Habermas gọi
là các thể chế khu vực công, chẳng hạn như các salons (được hiểu theo tiếng Pháp là
một buổi tụ họp trị chuyện của một nhóm trí thức, nghệ sĩ và chính trị gia tại tư gia
của một người có ảnh hưởng xã hội)4, các tiệm cà phê, bảo tàng và các hội bàn (table
society). Đồng thời họ còn tham gia vào các hoạt động truyền thông phê phán hợp lý
(rational-critical communication). Mục tiêu của các hội tự nguyện đó gồm việc chỉ
trích các cơng việc của chính phủ, chẳng hạn như thuế, trách nhiệm và ngân sách nhà
nước.
Bên cạnh đó, trong luận án (được giảng dạy chính thức ở bậc đại học) – “Không
gian công: Khảo cổ học về tính cơng cộng như một chiều kích cấu thành xã hội tư
sản”5 J. Habermas cịn đề cập đến khơng gian công xuất hiện ở Châu Âu trong thế kỷ
XVIII. Khi đó, Châu Âu bắt đầu xuất hiện những câu lạc bộ văn chương, mà đầu tiên
nhất là ở nước Anh. Tại đó, người ta trao đổi, bàn luận về các tác phẩm văn chương,
mà thể loại thường thấy là tiểu thuyết. Ở dạng sơ khai, tiểu thuyết là tập hợp các thư từ
và ghi chép của cá nhân. Các tiểu thuyết như vậy được xem như là cầu nối giữa lĩnh
vực tư và lĩnh vực cơng. Thường thì ở đó, người ta sẽ cùng nhau tranh luận xem tác
phẩm nào đáng để đọc. Dần dà, tinh thần tranh luận này được phát triển và triển khai

thành bài viết đăng trên các kỳ báo về các vấn đề khoa học, xã hội, dẫn đến sự hình
thành một khơng gian cơng trong giới tư sản với mục đích phê phán quyền lực chính
trị, đặc biệt thơng qua báo chí.

3

Jeong-Woo Koo, The Origins of the Public Sphere and Civil Society: Private Academies and
Petitions in Korea, 1506-1800, Social Science History, Vol.31, No.3, pp. 381-409, Published by:
Cambridge University Press, link: />society/2A52903E9BF8B7EEFDAFAB54E0EAC76E, tham khảo ngày 05/06/2021.

4

“Salon: a meeting of writers, painters, etc., at the house of someone famous or important”,
Cambridge Dictionary, link: tham khảo
ngày 07/06/2021.

5 J. Habermas (M. B. de Launay dịch, 1978),

L'Espace public: Archéologie de la publicité comme
dimension constitutive de la société bourgeoise, Payot, Paris.

4


Theo Habermas, có hai điều kiện rất quan trọng đối với sự xuất hiện của không
gian công Châu Âu.6
Thứ nhất là sự trỗi dậy của các quốc gia hiện đại. Habermas coi sự xuất hiện của
khu vực công và xã hội dân sự như một phản ứng đối với sự mở rộng của các quốc gia
châu Âu và các chức năng hành chính, quân sự cũng như tư pháp của họ.
Thứ hai là sự xuất hiện của tài chính sơ khai và chủ nghĩa tư bản thương mại.

Trong tác phẩm“The Structural Transformation of the Public Sphere: An Inquiry into
a Category of Bourgeois Society” (1962), Habermas cho rằng, khi thương mại đường
dài mở rộng, các thành phố và thị trường phát sinh lưu lượng truy cập trên các phương
tiện truyền thông đại chúng, chẳng hạn như thư, báo và tạp chí, cũng phát triển dẫn
đến việc cung cấp tin tức thường xun cho cơng chúng được thu thập.
Chính hai điều kiện này đã tác động và góp phần hình thành nên sự xuất hiện của
không gian công tại Châu Âu thế kỷ XVII-XVIII.

3. Không gian công và gốc từ Hy Lạp – La Mã
Mặc dù khái niệm không gian công (public sphere) chỉ xuất hiện vào thế kỷ
XVII, tuy nhiên, trước đó đã có sự phân biệt giữa cơng cộng (public) và riêng tư
(private) mà ta có thể truy nguyên từ những người Hi Lạp qua hai từ: “polis” và
“oikos”.
Polis được định nghĩa là khu vực công cộng nơi các công dân tự do, không chịu
bất kỳ ràng buộc bởi các vấn đề vật chất, cùng đi vào để tranh luận về các vấn đề “nội
trị” – tức là các vấn đề luật pháp thành bang – và cả “ngoại giao”, cũng như là các
công việc chiến tranh.7 Đây được coi là khu vực đại diện cho sự hiện hữu thực sự của
con người, bởi những phẩm chất tốt nhất của các cá nhân được kiểm chứng và được

6 Jeong-Woo Koo, The Origins of the Public Sphere and Civil Society: Private Academies and
Petitions in Korea, 1506-1800, Social Science History, Vol.31, No.3, pp. 381-409, Published by:
Cambridge University Press, link: tham khảo ngày 05/06/2021.

7 Jürgen Habermas (1962), “The Structural Transformation of the Public Sphere: An Inquiry into a
Category of Bourgeois Society”,Cambridge, MIT Press, pp.5.

5


thừa nhận trước đám đơng. Ngồi ra, để là một thành viên của polis, người công dân một người đàn ông - phải sở hữu những người khác làm công việc oikos, tức là công

việc sản xuất kinh tế.
Không chỉ vậy, trong thời kỳ Hy Lạp – La Mã còn xuất hiện tính từ tiếng Latinh
publicus (cơng cộng) đặt trong mối quan hệ đối cực với privatus (tư nhân). 8
Mặc dù về sau, đến thời trung cổ và sau trung cổ xuất hiện nhiều sự thay đổi,
song sự phân biệt giữa công cộng và riêng tư vẫn không rõ ràng so với các nguồn gốc
Hy Lạp – La Mã của nó. Một mặt, cơng cộng là cái gì đó chung mà mọi người dân
cùng chia sẻ và được xem là đối lập với tính đặc thù hay tính riêng tư vốn chỉ thuộc về
lãnh chúa. Mặt khác, khác với quyền của người chủ sở hữu những người hầu như ở
thời Hi Lạp, quyền lực để ra mệnh lệnh của lãnh chúa lại là “công cộng” (publicus).
Quan trọng hơn, nơi được xem là chung dành mọi người trong thời trung cổ lại khơng
phải là khơng gian của sự tranh luận tích cực. Ở đó chỉ có một đám đơng khán giả và
đứng trước đám đông này là một quân vương hay lãnh chúa “tự thể hiện mình, tự cho
mình là sự hiện thân của một loại quyền lực “tối cao”. Vì thế xuất hiện khái niệm “tính
cơng khai” (publicness hay publicity) trong chừng mực vị quân vương thể hiện quyền
lực của mình trước đám đơng.9
Tóm lại, khu vực cơng cộng xuất hiện bên trong sự tác động qua lại phức tạp của
khu vực công của nhà nước và khu vực riêng của tác nhân kinh tế và đời sống gia
đình. Nếu ở thời phong kiến, người dân chỉ đơn giản tuân theo quyền lực của nhà
nước, thì bên trong chủ nghĩa tư bản tính cơng khai xuất hiện với một ý thức tập thể về
chính mình như là một cái gì đó đối trọng với nhà nước. Khu vực mới mẻ này phát
triển các nguồn lực mang tính định chế và tri thức cho phép nó mang chính sách của
nhà nước vào cuộc tranh luận thuần lý và phê phán.

8

Armando Salvatore (2007), The Public Sphere: Liberal Modernity, Catholicism, Islam,
Academia.edu, link: tham khảo ngày
07/06/2021.

9 Nguyễn Sỹ Nguyên (2020), “Quan niệm của Jürgen Habermas về khu vực cơng cộng”, Tạp chí Văn

hóa Nghệ An, link: tham khảo ngày 07/06/2021.

6


II.

NỘI DUNG, ĐẶC ĐIỂM CỦA LÝ
THUYẾT KHÔNG GIAN CÔNG

1. Khái niệm “không gian công”
Theo Habermas, không gian công được coi là một lĩnh vực của đời sống xã hội
(Habermas, 1991, 398) 10, cũng được cho là không gian xã hội, trong đó, con người sẽ
tự do bày tỏ những quan điểm khác nhau, thảo luận những vấn đề cùng quan tâm và
đưa ra các giải pháp chung 11, 12. Do đó, khơng gian cơng là khơng gian trung tâm cho
việc giao tiếp xã hội 13.
Không gian công "không phải là một khu chợ, cũng không phải là một quán cà
phê, một salon, một tổ chức hay một tờ báo" (Hinton, 1998). Thay vào đó, khơng gian
cơng vượt lên trên những không gian vật chất này và như một diễn đàn trừu tượng cho
việc bàn luận và tự do ý kiến, như một cuộc tranh luận sôi nổi trên nhiều cấp độ trong
xã hội. Habermas đã định nghĩa không gian công khơng nhất thiết tồn tại trong bất kỳ
khơng gian có thể nhận dạng nào 14. Theo nhận định của David Koh, bên cạnh không
gian vật chất cố định, “không gian cơng” cịn là khơng gian nhân tạo, do con người
sáng tạo ra. Từ nhận định đó, theo TS. Phan Văn Kiền, có thể chia thành hai thể loại
khơng gian cơng chính: “khơng gian vật thể” (qn ăn, qn cà phê, công viên,...) và
“không gian phi vật thể” (diễn đàn trên Internet, trên mạng xã hội, báo chí,...) 15.
Habermas quan niệm “không gian công” là một vũ đài độc lập với chính phủ,
“cùng tồn tại với cơ quan cơng quyền”, khơng gian công như được dành cho những

10 Mwengenmer, “Habermas’ Public Sphere”, Bccampus Open Publishing, link:

tham khảo ngày 05/06/2021.

11

“Public Sphere”, link: Oxford Bibliographies, tham khảo ngày
03/06/2021.

12 Huyền Trường Ly, “Không gian công” – public sphere trong môi trường báo chí là gì?”, Noron,
2017, link: tham khảo ngày 04/06/2021.

13

“Public Sphere”, link: Oxford Bibliographies, tham khảo ngày
03/06/2021.

14

“Jurgen
Habermans
and
The
Public
Sphere”,
tham khảo ngày 04/06/2021

15

Media

Studies,


link:

Phan Văn Kiền, “Tính đặc thù của khơng gian công trên báo điện tử Việt Nam”,
Academia.edu,link: tham khảo ngày 02/06/2021.

7


cuộc tranh luận duy lý và tạo điều kiện thuận lợi cho sự giám sát của công dân 16. Sự
xuất hiện của không gian công là “nền tảng của nền dân chủ” 17, sẽ dẫn đến sự hình
thành dư luận xã hội để định hướng hệ thống chính trị 18, định hướng cho công việc
của nhà nước 19.
2. Đặc trưng và đặc điểm của “không gian công”
Theo TS. Phan Văn Kiền 20, Habermas đã chỉ ra ba điều kiện được cho là điều
kiện tiên quyết cho sự xuất hiện của khơng gian cơng mới. Đó là khơng quan tâm đến
địa vị xã hội, lĩnh vực quan tâm thảo luận, giới hạn tham gia (Habermas, 1962, trans
1989).
Jurgen Habermas đã đưa ra những điểm được cho là đặc trưng của “không gian
công”, mà theo TS. Phan Văn Kiền 21, những đặc trưng đó là:
Thứ nhất, mọi người có kiến thức hay trình độ đều được tham dự thảo luận vấn đề
được bàn luận.
Thứ hai, mọi người đều có quyền nhận định, đưa ra quan điểm và ý kiến, cũng như
giải pháp của họ về mọi vấn đề.
Thứ ba, không một cá nhân nào phải chịu đựng sự ép buộc từ bên ngoài khi tham gia
vào không gian công.

16 Nguyễn Thị Thúy Hằng, Vũ Thị Minh Thắng, “Sự hình thành khơng gian cơng ở Việt Nam trước
năm 1945: Nghiên cứu dưới góc độ báo chí học, chính trị học và lịch sử”, link:
tham khảo ngày 06/06/2021


17 “Sự khác biệt giữa các lĩnh vực tư nhân và công cộng trong xã hội học là gì?”,
Greenlane, link: tham khảo ngày 03/06/2021

18 Graham, “What’s Wife Swap got to do with it? Talking politics in the net-based public sphere”,
2009, link: tham khảo ngày 05/06/2021.

19 “Sự khác biệt giữa các lĩnh vực tư nhân và công cộng trong xã hội học là gì?”,

Greenlane, link:

tham khảo ngày 03/06/2021

20

Phan Văn Kiền, “Tính đặc thù của khơng gian công trên báo điện tử Việt Nam”,
Academia.edu,link: tham khảo ngày 02/06/2021.

21,22 Phan Văn Kiền, “Tính đặc thù của khơng gian công trên báo điện tử Việt Nam”, Academia.edu,
link: tham khảo ngày 02/06/2021.

8


Từ những đặc trưng đã nêu trên, có thể suy ra những đặc điểm của “không gian
công” như sau 22:
Đầu tiên, khơng gian cơng mang tính cơng cộng. Trong khơng gian công vật thể, các
cá nhân được tự do di chuyển, đi lại. Trong không gian công phi vật thể, các cá nhân
có thể tự do bày tỏ quan điểm và thảo luận về các vấn đề cùng quan tâm.
Hai là, không gian công thu hút nhiều người. Điều này không đồng nghĩa với việc tất

cả người dân đều tham gia thảo luận, mà chỉ có một bộ phận người dân tham gia trong
không gian công.
Ba là, chủ đề được thảo luận ở “không gian công” không bị giới hạn về mặt phạm vi.
Bốn là, con người tìm đến khơng gian công để thỏa mãn một số nhu cầu của mình.
Năm là, khơng gian cơng mang tính duy lí và phê phán. Do không gian công là không
gian mở, cho phép mọi người tự do chia sẻ quan điểm, nên đơi khi có thể sẽ dẫn đến
mâu thuẫn hoặc xung đột. Tuy nhiên, vẫn có thể hình thành quan điểm và ý kiến chung
nếu có những sự hịa giải.
3. Ưu điểm và nhược điểm của lý thuyết “không gian công”
3.1. Ưu điểm
Theo nghiên cứu của ThS. Nguyễn Thị Thúy Hằng và ThS. Vũ Thị Minh Thắng
23

, Habermas đưa ra kết luận rằng: người dân, thay vì những mối quan tâm mang tính

cá nhân, đã đưa ra những quan điểm dưới góc nhìn cộng đồng và tập thể, và điều này
đã mở đường cho một nền dân chủ lý tưởng ở các quốc gia. Khơng gian cơng khi đó sẽ
là trung gian giữa nhà nước và xã hội và cho phép kiểm soát dân chủ đối với các hoạt
động của nhà nước. Tuy nhiên, để thực hiện được việc này, thì hồ sơ về các hoạt động
liên quan đến nhà nước và các hành động pháp lý phải được mở và truy cập công
khai24.

22
23 Nguyễn Thị Thúy Hằng, Vũ Thị Minh Thắng, “Sự hình thành khơng gian cơng ở Việt Nam trước
năm 1945: Nghiên cứu dưới góc độ báo chí học, chính trị học và lịch sử”, link:
tham khảo ngày 06/06/2021

24

Mwengenmer, “Habermas’ Public Sphere”, Bccampus

tham khảo ngày 05/06/2021.

9

Open

Publishing,

link:


Không gian công là một môi trường tinh thần, nơi mọi người tham gia vào việc
giải thích thực tế xung quanh họ và các q trình xảy ra ở đó. Những cách giải thích
này có tác động đến tiến trình của các sự kiện và quá trình trong tương lai. Do đó,
khơng gian cơng có nhiệm vụ cập nhật cho mọi người về các sự kiện thế giới và về sự
phát triển của xã hội.25
Ngồi ra, cũng có thể phân biệt các nền dân chủ thật sự với các nền dân chủ
“giả” bằng cách xem sự hiệu quả của không gian công, bằng cách hiển thị cởi mở các
vấn đề trong lĩnh vực đó. Chất lượng của các khơng gian công đã được công nhận như
một chỉ số về hạnh phúc dân chủ của một xã hội. Một xã hội đóng khơng thể có một
khơng gian cơng rộng rãi và hiệu quả. Việc ra quyết định cũng không dựa trên lợi ích
nhất thời của các nhóm lợi ích độc đốn, mà dựa trên lợi ích chung của các thành viên
trong xã hội.26
3.2. Nhược điểm
Cũng theo nghiên cứu của ThS. Nguyễn Thị Thúy Hằng và ThS. Vũ Thị Minh
Thắng, quan điểm của Habermas về không gian công bị nhiều người phê phán. Trái
ngược với quan điểm không gian công không quan tâm tới địa vị của người tham gia,
Nancy Fraser cho rằng khơng gian cơng tư sản mang tính thống trị và loại trừ vì nó kì
thị phụ nữ và khơng đề cập đến các tầng lớp thấp hơn trong xã hội, cụ thể, trong lịch
sử, phụ nữ và người da màu gần như không được tham gia thảo luận trong các khơng

gian cơng ở Mỹ. Điều này đã lí giải vì sao họ phải đấu tranh cho quyền bầu cử để
tham gia vào chính trị và vì sao những định kiến về giới tính đến giờ vẫn cịn tồn tại.
Cũng tương tự như vậy, tại Mỹ, người da màu cũng bị cấm tham gia thảo luận trong
các không gian công. Dù trong xã hội ngày nay, việc phân biệt chủng tộc đã bị hạn
chế, nhưng chúng ta vẫn thấy những hậu quả lâu dài của vấn đề này thể hiện ở số
lượng đại diện người da trắng chiếm đa số trong Quốc hội Mỹ. Do vậy, không phải
mọi người đều có thể tham gia khơng gian cơng.

25, “The role of the public sphere in society”, Encyclopedia about Estonia, link:
tham khảo ngày 06/06/2021

26 “The role of the public sphere in society”, Encyclopedia about Estonia, link:
tham khảo ngày 06/06/2021

10


Bà cũng cho rằng: mạng lưới các câu lạc bộ và hiệp hội - từ thiện, công dân,
nghề nghiệp và văn hóa - thay vì mọi người đều có thể tiếp cận được - thì ngược lại,
đó là nơi mà đàn ông hay giai cấp tư sản khẳng định sự thống trị của mình và ngăn cản
các nhóm khác đưa ra mối quan tâm chính đáng của họ 27.
Nancy cũng cho rằng không gian công làm gia tăng sự bất bình đẳng, những
người tham gia thảo luận sẽ bỏ qua những sự khác biệt khác để thảo luận như thể họ là
những người đồng cấp về tầng lớp xã hội và kinh tế, và điều này thường mang lại lợi
ích nhóm trong xã hội và gây bất lợi cho các tầng lớp dưới.
Fraser cũng phê bình sự phân biệt riêng tư và công khai. Khái niệm “vấn đề được
mọi người quan tâm” (common concern) vẫn chưa rõ ràng, ví dụ vấn đề bạo lực gia
đình trước đây được coi là riêng tư, đến nay trở thành một vấn đề gây tranh cãi trong
cộng đồng, xã hội. Oskar Negt, Alexander Kluge địi hỏi Habermas phải bổ sung thêm
các khái niệm khơng gian công vô sản, không gian công về sản xuất... 28


III.

NHỮNG ỨNG DỤNG CỦA LÝ
THUYẾT KHƠNG GIAN CƠNG
TRONG BÁO CHÍ, TRUYỀN
THÔNG

1. Các yếu tố ảnh hưởng tới mối liên hệ giữa khơng gian cơng và báo chí,
truyền thơng
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, xu hướng nhất quán nhất trong hai
thập kỷ qua là sự kiểm soát của chính phủ chuyển sang quyền sở hữu cá nhân và
quyền kiểm sốt truyền thơng. Hầu hết cơng dân các nước, bao gồm Liên Xô cũ,
Trung Quốc và phần lớn Châu Phi, Châu Á kể cả một số quốc gia dân chủ như Ấn Độ,
dù ở bất kỳ mức độ nào, chỉ tiếp xúc với thơng tin mà chính phủ của họ muốn họ tiếp
xúc. Ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ Latin, chính phủ thực hiện kiểm sốt truyền
thơng khơng thơng qua chủ sở hữu mà thơng qua uỷ nhiệm, đặc biệt là nơi các phương
tiện truyền thơng bị kiểm sốt một phần bởi lợi ích tư nhân liên quan chặt chẽ với

27 Fraser, Nancy, "Rethinking the Public Sphere: A Contribution to the Critique of Actually Existing
Democracy", Cambridge Mass.: MIT press, 1992, pp. 109–142.

28 Nguyễn Thị Thúy Hằng, Vũ Thị Minh Thắng, “Sự hình thành khơng gian cơng ở Việt Nam trước
năm 1945: Nghiên cứu dưới góc độ báo chí học, chính trị học và lịch sử”, link:
tham khảo ngày 06/06/2021.

11


chính phủ hoặc giới quý tộc. Sự sụp đổ của bức tường Berlin vào năm 1989 và những

thay đổi chính trị lớn đã ảnh hưởng tới phần lớn thế giới, dẫn đến sự chuyển đổi của
phương tiện truyền thông ở hầu hết các quốc gia. Có bốn lý do chính liên quan và
củng cố cho nhau rằng tại sao các chính phủ quyết định tự do hóa truyền thơng nói
chung và phát sóng - một cơng cụ quan trọng dưới sự kiểm sốt của chính trị - nói
riêng:
Đầu tiên là chính trị, khi các nền chính phủ mới bị cuốn vào quyền lực sau khi
kết thúc chiến tranh lạnh, theo sau đó là sự sụp đổ của một Đảng và một làn sóng bầu
cử dân chủ. Các chính phủ mới được bầu, cam kết xây chính phủ dân chủ cởi mở hơn,
rõ ràng hơn với các phương tiện truyền thông.
Thứ hai là sự phổ biến của các công nghệ truyền thơng mới, bản thân nó có 2 hậu
quả chính. Đầu tiên là Internet và các công nghệ mới khác làm cho việc kiểm sốt
thơng tin và khơng gian cơng trở nên khó khăn hơn nhiều, do đó việc kiểm sốt các
phương tiện truyền thơng khác trở nên ít đáng giá hơn.Tiếp đó là sự phát triển kinh tế
ngày càng được xem là phụ thuộc vào việc tiếp cận với công nghệ mới. Tự do hố các
phương tiện truyền thơng đi đơi với tự do hố rộng rãi hơn của truyền thông, điều này
dựa trên một giả định rằng tự do hố cơng nghệ thơng tin và truyền thơng là điều cần
thiết để các nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Thứ ba là tồn cầu hố và sức ép ngày càng tăng của kinh tế lên các thị trường
mở, đi kèm là xu hướng tiếp cận thông tin tự do hơn.
Cuối cùng là áp lực đang gia tăng từ các nhà tài trợ đối với các quốc gia phát
triển để tự do hố truyền thơng như một phần của xu hướng chung cho thị trường mở
và tự do hố các ngành cơng nghiệp, đồng thời như một nỗ lực để đầu tư vào sự cai trị
tốt hơn, minh bạch, dân chủ và nhân quyền.29

2. Những tác động của truyền thơng và báo chí lên khơng gian cơng qua
từng thời kỳ30

29 James Deane, chương 10: “Media, democracy and the public sphere” trích trong Media & Glocal
Change: Rethinking Communication for Development, biên soạn bởi Oscar Hermer & Thomas Tufte


30 Theo James Deane, chương 10: “Media, democracy and the public sphere” trích trong Media &
Glocal Change: Rethinking Communication for Development, biên soạn bởi Oscar Hermer & Thomas
Tufte, tr.179, 180, 181.

12


Ban đầu, Habermas đề cập rằng không gian công là sự cân bằng giữa chính
quyền, doanh nghiệp, gia đình và cá nhân. Tuy nhiên, với sự mở rộng và phát triển của
chủ nghĩa tư bản nói chung và xã hội nói riêng, khơng gian cơng đã bị thu hẹp lại, thay
vào đó là quyền lực lớn hơn dưới sự kiểm sốt cũng như quyền lãnh đạo của chính phủ
và truyền thơng.
Thứ nhất, khơng gian cơng và báo chí.
Từ khi truyền thơng xuất hiện, nó đã dẫn tới sự thu hẹp, thậm chí tệ hơn là sự suy
sụp của khơng gian công. Habermas trong cuốn “The Structural Transformation of the
Public Sphere” (1962) đã đề cập rằng sự mở rộng của chủ nghĩa tư bản đã làm tăng
tầm kiểm soát và sức mạnh của truyền thông - phương tiện cung cấp, chia sẻ và lan
rộng các thông tin, những quan sát và quan điểm lúc này đã bắt đầu có tầm ảnh hưởng
và điều khiển nó.
Khơng gian cơng đã có từ rất lâu trước khi báo chí xuất hiện. Như Habermas đề
cập, đặc điểm nổi bật của không gian công tư sản là những ý kiến và ý tưởng được
chia sẻ mà khơng bị ảnh hưởng hay bị kiểm sốt bởi bất kì cơ quan hay thực thể có
thẩm quyền nào. Sau khi thời đại của báo chí lên ngơi, Habermas chỉ ra rằng báo chí
thuộc chủ nghĩa tự do và tương đồng với không gian công tư sản – thứ đã tồn tại rất
lâu trước khi báo chí tự do bắt đầu. Báo chí đã đóng một phần vơ cùng quan trọng
trong thời kì đầu mà Habermas định nghĩa là “một thể chế chung tự hoạt động, hiệu
quả trên tư cách là một cơng cụ để hồ giải cũng như khuếch đại những cuộc thảo luận
trong cơng cộng”.31
Báo chí tự do, như cách mà Habermas đặt tên, khơng nói lên ý kiến của chính
phủ hay chỉ là một sản phẩm tiêu dùng mang tính thương mại; mà là một diễn đàn cho

giao tiếp, thảo luận và phản biện, nơi mà những ý kiến cá nhân phát triển thành ý kiến
cộng đồng. Tuy vậy, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự tập trung của báo chí
đổ dồn vào việc kiếm lợi nhuận từ quảng cáo thay vì mục đích chính là cung cấp thơng
tin chính xác, khơng gian cơng tư sản đã bị thu hẹp và thậm chí là sụp đổ. Do vậy,
không gian công dần bị biến chất vì thương mại hóa, tạo ra các diễn ngơn bị chi phối

31 Habermas, The Public Sphere: An Encyclopedia Article, 1964.
13


vì mục đích quảng cáo thu lợi nhuận. Nó định hướng thương mại là chính, định hướng
chính trị là thứ yếu.
Thứ hai, không gian công, phát thanh và vô tuyến.
Sau sự thương mại hố hồn tồn của báo chí, việc phát minh ra Radio vào đầu
thế kỷ XX đã đem tới một niềm hy vọng cho sự phục hưng của khơng gian cơng tư sản
về thời kì đầu của nó. Phát thanh, đặc biệt là BBC trong những ngày đầu đã đem lại ấn
tượng rằng có thể phục hồi được khơng gian cơng tư sản, nơi các thính giả tìm đến để
nghe về những vấn đề trong cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, ấn tượng đó khơng kéo
dài lâu khi cộng đồng bắt đầu chú ý tới sự chênh lệch giữa ý kiến thật sự của cộng
đồng và cái được gọi là “ý kiến cộng đồng” trên các phương tiện phát thanh.
Đã có rất nhiều cáo buộc và chỉ trích lên những tổ chức phát thanh cho rằng phát
thanh đang làm thay đổi quan điểm của công chúng thay vì đóng vai trị là một người
dẫn dắt. Phát thanh cũng nên làm việc có trách nhiệm và phản ánh ý kiến thực sự của
cơng chúng bởi mục đích thực sự của phát thanh là phục vụ cho cộng đồng. Do đó, rõ
ràng là các đài phát thanh rất ít quan tâm đến việc đưa không gian công trở lại mà thay
vào đó là thay đổi nó. Vì phương thức giao tiếp giữa đài phát thanh và công chúng là
“một đến nhiều” (một phương tiện và một bài phát thanh có thể truyền thơng tin tới
nhiều người cùng lúc), vậy nên khi con người tiếp cận đến phát thanh, họ chỉ là những
người nghe thụ động. Cơ sở ban đầu cho sự phát triển mạnh mẽ của không gian công
là sự tham gia tích cực, có tương tác của cơng chúng trên một nền tảng chung. Nhưng,

khi sự chủ động khi tiếp cận với thông tin đã thay đổi thành đơn thuần chỉ là lắng nghe
thụ động thì khơng gian cơng thậm chí cịn sụp đổ nhiều hơn. Việc phát minh ra vô
tuyến chỉ biến đổi người nghe thụ động thành một người xem thụ động. Đây là một
phương thức khác của mơ hình truyền tải “một đến nhiều” được kiểm sốt bởi các ơng
trùm truyền thơng hoặc nhà nước. Ouellete đã mơ tả trong nghiên cứu của mình rằng,
thế hệ đầu của truyền hình Mỹ ảnh hưởng đến cơng chúng khi tin rằng để trở thành
một công dân tốt, một cá nhân phải chấp nhận “trật tự thẩm mỹ được điều chỉnh bởi
một cơ quan có thẩm quyền cao hơn”. Vì vậy, mơ hình khơng gian cơng này thay vì tự
do, lại bị kiểm sốt và do đó làm xoay chuyển tính thẩm mỹ của khơng gian cơng
truyền thống.
Thứ ba, Internet, mạng xã hội và không gian công

14


Internet là phát minh mở ra cánh cửa cho công chúng tham gia một cách chủ
động khi chỉ cần một phương tiện để kết nối với bất kỳ ai và mọi người đều có thể truy
cập Internet. Mặc dù Habermas cho rằng sự phát triển công nghệ trong lĩnh vực thông
tin, giao tiếp và truyền thông đã dẫn đến sự suy giảm của khơng gian cơng nhưng
Internet có sức mạnh và tiềm năng để chứng minh điều ngược lại. Lần đầu tiên cơng
chúng có quyền truy cập vào một phương tiện truyền thông không phải là “một đến
nhiều” mà là “nhiều đến nhiều” (nhiều phương tiện và nhiều nền tảng truyền thông tin
đến cho nhiều người). Mạng xã hội là sự đổi mới đã mở ra những chân trời mới liên
quan đến sự tương tác và giao tiếp. Khái niệm cho rằng các trang mạng xã hội nếu chỉ
đơn thuần là mạng xã hội thì chưa đủ vì các trang mạng như Facebook và Twitter chỉ
là một phần của mạng xã hội. Các trang khác cũng được coi là một phần của mạng xã
hội như:

● Các trang web chia sẻ nội dung sáng tạo như trang web chia sẻ video
(YouTube), trang web chia sẻ ảnh (Flickr), trang web chia sẻ âm nhạc

(Soundcloud)…

● Trang web làm việc cho doanh nghiệp (LinkedIn)
● Trang chia sẻ tài liệu mở (Wikipedia)
● Podcast
● Chia sẻ nội dung giáo dục (MITOpenCourseWare, MERLOT)
● Trang web blog (Tumblr, WordPress, Blogger)
Tất cả những điều này kết hợp tạo thành những gì chúng ta đang gọi là mạng xã
hội, hay cịn được gọi là Web 2.0. Thơng qua các trang web trên mạng xã hội này, mọi
người có thể truy cập vào nguồn thông tin không giới hạn và các tính năng phong phú.
Sự xuất hiện của mạng xã hội đã đem đến một khía cạnh khác cho truyền thơng đại
chúng, về bản chất nó rất khác biệt so với các phương tiện truyền thơng chính thống.
Đây thật sự là phương tiện truyền thông gần nhất với không gian công tư sản vì các
nguyên tắc cơ bản vẫn được giữ vững. Mạng xã hội cung cấp một nền tảng để mọi
người có thể chủ động tham gia diễn thuyết và tranh luận dựa trên các quan điểm cá
nhân.

15


Tuy vậy, mạng xã hội cũng chỉ là một không gian ảo. Nó cho phép các cuộc hội
thoại có thể ẩn danh. Từ đó, trao quyền cho các cá nhân có thể cơng kích nhau, dư
luận được trao quyền khơng bị ngăn chặn. Suy cho cùng, nó cũng chỉ là một loại công
cụ và các cá nhân, người tham gia vào không gian công mới là mấu chốt khiến chúng
ta có thể khai thác tiềm năng của khơng gian này.32
Thứ tư, sự tương tác mới của truyền thông là hệ quả lớn nhất của công nghệ
mới.
Năm 1926, Bertolt Brecht – biên kịch và tác giả người Đức viết: “Radio sẽ là
thiết bị liên lạc ổn nhất trong đời sống, với mạng lưới dày đặc và to lớn. Điều đó có
nghĩa là, nếu nó biết làm cách nào để tiếp nhận và truyền tải thơng tin, để một người

có thể nghe, phản hồi thay vì chỉ thụ động, tiếp nhận thơng tin một chiều. Radio sẽ
bước ra khỏi lĩnh vực và được ví như là kinh doanh cung ứng trong đó người nghe là
nhà cung cấp”.
Những năm 1990 đã chứng kiến sự khởi sắc của kỷ nguyên Radio mới, thời đại
mà Radio bắt đầu coi người nghe của mình như những nhà cung cấp, với sự phát triển
mạnh mẽ không chỉ của hàng trăm đài phát thanh mà còn nhiều loại hình khác đã tạo
nên một kỷ nguyên tương tác mới cho việc phát thanh. Đối với nhiều người, Radio
vẫn còn là phương tiện liên lạc quan trọng nhất hiện có về khả năng tiếp cận và phạm
vi tiếp cận. Trong những năm 1990, sự tự do hóa của Radio đã đánh thức nhu cầu
tranh luận và thảo luận của công chúng đã được kìm nén bấy lâu nay. Nó đã giải
phóng năng lượng bị dồn nén kể trong hầu hết tất cả mọi người, ở tất cả mọi nơi. Sau
đó thông qua sự cam kết của hàng ngàn tổ chức (như AMARC, Hiệp hội Broadcaste
thế giới), các cá nhân và sự quan tâm ngày càng tăng của các nhà tài trợ, Radio đã trở
nên ngày càng hưng thịnh.
Từ Kenya đến Nepal, Uganda đến Sri Lanka và hàng loạt các nước trên thế giới
khác, talk-shows – chương trình phát thanh mà một nhóm người ngồi lại với nhau để
thảo luận một số chủ đề được đưa ra đã trở thành chương trình phổ biến nhất. Chủ đề
bao hàm mọi thứ từ giải trí đến chính trị, từ các hành động tử tế đến các căn bệnh như
HIV/AIDS, đơi khi talk-shows cịn được sánh ngang với báo chí vì sự khai thác và lan

32 Ugyal T Lama Yolmo, “Social Media: The New Public Sphere”, Academia.edu, link:
tham khảo ngày
6/6/2021.

16


truyền thơng tin của nó. Thậm chí là ở những quốc gia nơi mà sự tự do bị kìm hãm
hoặc thậm chí là khơng có, cũng đã xuất hiện một vài chương trình trị chuyện như
một chất xúc tác làm thay đổi xã hội. Lấy Trung Quốc làm một ví dụ, Xin Ran (2003)

– một nhà báo đài nổi tiếng, đã xuất bản một Radio Talk-show chủ yếu được tạo nên
từ đóng góp của phụ nữ khắp nơi trên thế giới. Từ đó, nó trở thành Talk-show bán
chạy nhất thế giới với tựa đề “Words on the Night Breeze” vì lần đầu tiên công chúng
được cảm nhận, thấu hiểu sự kinh hoàng nếu bị phân biệt đối xử và sự lạm dụng bị che
dấu. Ở Uganda, các trạm phát thanh thường xuyên tổ chức Ekimeeza-cuộc thi tranh
luận công khai về các vấn đề nóng bỏng gần thời điểm đó thu hút được khoảng 400
người. Xã hội đã được hưởng quyền tiếp cận chưa từng có đối với sóng phát thanh từ
các nhà sản xuất Radio. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã chứng kiến những thay
đổi xã hội to lớn, chưa từng có và cực kỳ phức tạp trên thế giới. Phần lớn trong số đó
được định hình bởi môi trường truyền thông và lĩnh vực tương tác mới này.
Những cuộc tranh luận, thảo luận, nêu quan điểm được xảy ra với nhiều lý do ở
nhiều phương tiện truyền thơng khác nhau. Nó xảy ra chỉ bởi ban đầu nó phổ biến, thu
hút nhiều khán giả. Thêm vào đó, bản thân những người dẫn chương trình trị chuyện
trên đài phát thanh cũng đã trở thành những nhân vật nổi tiếng và chứng tỏ khả năng
lãnh đạo thực sự trong việc dẫn các vấn đề được công chúng quan tâm. Tình trạng này
đang xảy ra bởi nhiều quốc gia trong số này, vì nhiều lý do nên khơng thể có hoặc
thiếu khơng gian để thảo luận, tranh luận cơng khai.
Habermas ban đầu lập luận rằng, không gian công độc lập với sự trị vì của chính
phủ, được thành lập từ một không gian được chạm khắc trong các quán cà phê của
thời kỳ khai sáng Châu Âu. Cuộc cách mạng phát thanh ở những nước đang phát triển
có thể được coi là một hiện tượng tương tự, nơi các cuộc tranh luận công khai về đài
phát thanh kết nối với hàng tỷ cuộc trị chuyện khơng chính thống được cho phép bởi
công nghệ mới và Internet. Thông tin và truyền thơng đã trở nên khơng kiểm sốt và ở
nhiều quốc gia, nơi mà thông tin từng chịu sự kiểm sốt tuyệt đối của chính phủ, đã
chứng kiến cuộc tranh luận cơng khai chưa từng có và sự xuất hiện của một vài loại
hình khơng gian cơng mới. Đặc biệt các khơng gian mới đã được hình thành này
khơng phụ thuộc vào chính phủ.

17



Sự lan rộng của hình thức chính phủ dân chủ, sự tự do hóa của hệ thống phương
tiện truyền thơng, sự gia tăng nhanh chóng về sự phổ biến cũng như tính tương tác của
các phương tiện truyền thơng đã cho thấy sự mở rộng đáng kể phạm vi công cộng cho
phần lớn nhân loại.

3. Lý thuyết không gian công và mạng xã hội
Từ những lập luận trên cho thấy, tầm ảnh hưởng của truyền thơng và báo chí lên
khơng gian công là vô cùng rộng. Do vậy, để đi sâu vào chi tiết, nhóm thực hiện xin
được lấy mạng xã hội với tư cách là một không gian công mới làm một trường hợp
phân tích cụ thể.

3.1.

Mạng xã hội – một khơng gian cơng mới?

Liệu mạng xã hội có trở thành một không gian công hay không? Đây vẫn là một
vấn đề gây tranh cãi trong những năm gần đây. Vì các cá nhân có thể dễ dàng truy cập
vào mạng xã hội và có thể thảo luận nhiều vấn đề trong không gian này. Khái niệm về
không gian công, được phát triển bởi Habermas, lần đầu tiên nổi lên như một “công
chúng tư sản” thông qua việc chia sẻ ý kiến trong các quán cà phê và nơi công cộng.
Trong những năm thế kỷ 19, các quán cà phê, quán rượu đều là những nơi tụ tập.
Những nơi này có một lượng khách hàng cố định và liên tục ghé tới. Các cá nhân với
những ý tưởng khác nhau có thể gặp nhau trong những nơi này. Ở đây, những điều về
giao tiếp cơ bản đã được đặt ra. Khi các tài liệu in và viết bắt đầu phát triển trong thời
kỳ này, người dân tụ tập ở những nơi này và cùng nhau thảo luận, nhận xét về chúng.
Không gian công là một phạm vi trung gian liên kết các không gian tự trị (hệ thống
nhà nước, lĩnh vực kinh tế, xã hội dân sự) và cho phép cơng dân có quyền tham gia
vào định nghĩa lợi ích chung. Theo Habermas, không gian công chính trị “không thể
được coi là một cơ quan, cũng không phải là một tổ chức [...] Nó khơng tạo thành một

hệ thống; tồn tại một số ranh giới bên trong nhưng đặc trưng bởi quan điểm cởi mở, dễ
hiểu và linh hoạt với bên ngồi”. Khi nói đến Hannah Arendt, người có một số quyết
định rất quan trọng trong không gian công, cô cho rằng công chúng không phải là một
hiện tượng trừu tượng hay biểu tượng, mà là một hình thức hành động cụ thể. Trên
thực tế, không gian công không phải là một khái niệm lý thuyết mà là một khơng gian
thực sự với lời nói và hành động.

18


Vậy câu trả lời cho câu hỏi liệu mạng xã hội có trở thành khơng gian cơng
mới hay khơng là gì?
Theo những điều kiện tiên quyết để xuất hiện khơng gian công, những đặc trưng
và đặc điểm của không gian cơng đã nêu trong phần II, có thể khẳng định mạng xã hội
có thể được coi là khơng gian cơng mới. Mạng xã hội đang trở thành một nơi mà các
cá nhân có thể tự do bàn luận về các vấn đề chính trị và là nơi các cá nhân đang mù
quáng ủng hộ quan điểm của các “thủ lĩnh ý kiến” (Key Opinion Leaders). Sự tồn tại
của các nhóm ủng hộ một ý kiến của một thủ lĩnh khiến các cá nhân cảm thấy mạnh
mẽ hơn về mặt tâm lý bởi một nhóm thì ln có tầm ảnh hưởng mạnh hơn nhiều so
với chỉ một cá nhân. Do đó, các “thủ lĩnh ý kiến” đang được theo dõi bởi nhiều người
hơn và nhận được nhiều “likes” và “retweets” hơn. Với sự tương đồng, các cá nhân có
lẽ đang tạo ra không phải là không gian công mà là một dạng đặc thù của không gian
công – một lĩnh vực ảo (Virtual sphere). Bằng cách này, mạng xã hội, thường bị chi
phối bởi các nhóm và cộng đồng, vươn ra thành một nơi mà các cá nhân tự do chia sẻ
suy nghĩ của họ. Nói tóm lại, “ở đó, cơng chúng tham gia vào các quá trình thảo luận
xã hội và dưới sự hướng dẫn của các “thủ lĩnh ý kiến”. 33 Và theo những điều kiện tiên
quyết để xuất hiện không gian công, những đặc trưng và đặc điểm của khơng gian
cơng đã nêu trong phần II, có thể khẳng định mạng xã hội có thể được coi là không
gian công mới.34


3.2.

Sự khác nhau giữa các không gian công trên nền tảng Facebook:35

Để phân tích khơng gian cơng mạng xã hội, cụ thể ở đây là Facebook, 3 bài viết
ở các trang Facebook1 đã được đưa vào để phân tích: Daily Caller, Daily Kos và
Politico. Việc nghiên cứu các trang Facebook này để có thể đưa ra kết luận về các
khơng gian cơng được hình thành ở Facebook, tập trung vào việc so sánh hành vi của

33 Phan Văn Kiền,

“Tính đặc thù của “khơng gian cơng” trên báo điện tử”, Academia.edu, link:
tham khảo ngày 6/6/2021,

34 Feya Unlu Dalayli, “Is Social Media a public sphere in Today’s Society? Example of Social
Movements on Twitter”, Academia.edu, link:
/>tham khảo ngày 6/6/2021.

35Jeff

Swift, “Liking the Public Sphere: Political Discussion in Facebook Comments”, link:
tham khảo ngày: 06/06/2021.

19


các không gian công khác nhau. Để làm được điều này, thì việc lựa chọn 3 trang trên
là hợp lý vì mỗi trang đều thu hút lượng lớn người theo dõi, danh tính rõ ràng trong
lĩnh vực chính trị. Cả ba trang đều yêu cầu một cá nhân phải là thành viên của trang để
nhận xét. Do yêu cầu này, các cá nhân nhận xét trên trang của tổ chức nói chung cũng

sẽ tơn trọng tổ chức đủ để được liên kết với họ theo cách mà bạn bè của họ có thể nhìn
thấy.
Cuộc nghiên cứu đã so sánh chất lượng và số lượng của các cuộc đối thoại qua
lại và kể cả sự bất đồng giữa những người tranh luận. Cuộc nghiên cứu nhằm tìm ra sự
khác biệt giữa các lập trường tư tưởng, mức độ sâu rộng, lịch sự của nhận xét trong
một không gian công. Và chủ đề được đăng lên 3 trang là một bài viết với chủ đề liên
quan đến chính trị, đang được rất nhiều người quan tâm, theo dõi.

3.2.1. Phân tích số liệu
Trong q trình phân tích và thống kê, các bài đăng có trung bình 32 lượt bình
luận (Daily Kos: 35; Politico: 34; Daily Caller: 27) nhưng lượt like thì có sự chênh
lệch khá nhiều ở mỗi bài đăng (Daily Kos: 54; Politico: 27; Daily Caller: 105). Số
lượng like trung bình ở mỗi bài đăng là 62; nói cách khác, trung bình cứ 62 người
nhấn like mỗi câu chuyện cho thấy mức độ ủng hộ đối với mỗi câu chuyện được đăng
tải. Sẽ khơng có gì ngạc nhiên nếu thấy số lượng like trên bài đăng lớn hơn số lượng
bình luận. Mặc dù một vài cá nhân sẽ không nhấn like một bài đăng nếu họ cảm thấy
nó khơng cùng quan điểm với họ, thay vào đó, họ sẽ để lại comment.

20


Thêm vào đó, tỷ lệ của lượt like bài đăng so với bình luận là 2.08. Tức, số lượng
thích bài đăng nhiều hơn số bình luận là khoảng 2 lần. Sự thú vị nằm ở sự khác biệt
của những người theo dõi ở các trang. Người theo dõi Daily Caller sẵn sàng nhấn nút
like hơn khoảng 4 lần so với người theo dõi Politico. Trong khi những người like bài
đăng của Politico sẵn sàng tham gia vào việc bình luận hơn là việc đơn thuần nhấn
like.
Cư dân mạng cũng có khả năng bày tỏ cảm xúc với các nhận xét dưới mỗi bài
đăng. Lượt thích bình luận ở bài đăng của ba trang theo biểu đồ sau:


Điều này cũng cho thấy rằng sự tương tác của khán giả của trang nào nhiều hơn.
Nó có nghĩa là người nhận xét và người like nhận xét sẽ đọc kỹ và quay lại để đọc.
Trong cả hai trường hợp, khán giả của Daily Caller ít tham gia hơn nhiều so với khán
giả của Politico hoặc Daily Kos. Rõ ràng là ba không gian công khác nhau, tất cả đều
sử dụng nền tảng Facebook để tranh luận nhưng cũng đã có sự khác biệt.
Một trong những câu hỏi chính mà nghiên cứu này tìm kiếm câu trả lời là liệu
đối thoại và tranh luận có diễn ra khác nhau trong các khơng gian cơng khác nhau hay
khơng? Và kết quả chỉ ra đó là: có một sự khác biệt đáng kể.
Trên bài đăng của Daily Kos, 26% bình luận phản hồi với một bình luận khác,
trong khi tỷ lệ này lần lượt là 12% và 11% trên Politico và Daily Caller (xem biểu đồ
3). Thực tế số liệu 26% không phải là lớn nhưng khi so sánh với 2 trang còn lại, đây là
số liệu vượt trội hơn hẳn. Điều này có thể cho thấy rằng người theo dõi Daily Kos coi
trọng sự tương tác dưới những bình luận so với 2 trang cịn lại. Sự khác biệt này thậm
chí cịn bộc lộ rõ ràng hơn khi các tỉ lệ này được so sánh với tỉ lệ lượt like trên mỗi

21


nhận xét của mỗi trang web (biểu đồ 4) và lượt thích phản hồi so sánh với lượt thích
nhận xét (biểu đồ 5)

Cuối cùng, trong số 96 bình luận, 9 bình luận có bao gồm liên kết (3 từ Politico,
6 từ Daily Kos, 5 trong số đó là liên kết spam) và chỉ 3 (tất cả từ Daily Kos) là thô lỗ
hoặc thiếu văn minh. Điều này cho thấy những người theo dõi Daily Kos có những
người theo dõi khơng văn minh, quảng bá trơ trẽn những thứ không liên quan tới chủ
đề bình luận.

3.2.2. Nhận xét
Nhìn chung, những dữ liệu được phân tích trên đã cho thấy một vài xu hướng
thú vị trong các cuộc thảo luận chính trị đang diễn ra ở không gian công. Một tỷ lệ

rất nhỏ các thành viên thực sự bình luận và trong số những người đã bình luận, rất ít
quay lại để đưa ra nhiều nhận xét. Mặc dù thực tế là chỉ đưa ra 3 bài đăng từ 3 trang
khác nhau, và mỗi bài đăng chỉ có khoảng 30 bình luận nhưng cũng có thể rút ra
được những xu hướng thú vị ở các không gian công khác nhau trên nền tảng
Facebook.
Có thể nói, những người theo dõi Daily Caller có xu hướng like bài đăng với tỷ
lệ cao hơn nhiều so với việc họ tương tác với nó thơng qua bình luận. Bình luận ở
Daily Caller trung bình ngắn hơn so với bình luận của 2 trang cịn lại, cho thấy rằng họ
quan tâm đến những cách diễn đạt đồng ý hoặc không đồng ý, ngắn gọn hơn là những

22


tun bố dài dịng. Do đó, trang Facebook của Daily Caller có thể được đặc trưng bởi
những người bình luận ủng hộ hơn, dân sự hơn, ít tham gia hơn và đơn giản hơn.
Đối lập với Daily Caller, Daily Kos đại diện cho một cộng đồng hơn là với mỗi
cá nhân. Với các cá nhân bình luận trực tiếp với nhau, quay trở lại tương tác với các
bài đăng tiếp theo và thậm chí đơi khi trở nên thiếu văn minh trong các cuộc thảo
luận của họ. Những người bình luận Daily Kos thường thích suy nghĩ của những
người bình luận khác nhất và có nhiều khả năng sẽ tán thành những bình luận có liên
quan trực tiếp với những người bình luận khác. Do đó, trang Facebook của Daily Ko
có thể được đặc trưng bởi những người bình luận tham gia nhiều hơn, tán thành
nhiều hơn việc tham gia trực tiếp, ít dân sự hơn và kỹ lưỡng hơn, dài dịng hơn.
Chung quy lại, Politico có đặc điểm là nằm giữa 2 trang trên, cả về mặt ý thức
hệ và thực tế trên Facebook. Người theo dõi Politco like và bình luận với tỷ lệ cao
hơn các trang khác, cho thấy khán giả thích của Politico tương tác nhiều hơn so với
khán giả của 2 trang còn lại. Politico đã đăng 3 trong số 4 liên kết có liên quan, cho
thấy rằng họ sẵn sàng sao lưu bài bình luận của mình với các nguồn bên ngồi hơn,
mặc dù thói quen đó khơng phổ biến lắm ngay cả với độc giả của Politico. Những
độc giả này cũng cho thấy tương đối ít mong muốn tương tác với nhau, so với các

trang khác, thay vào đó họ thích bình luận trực tiếp về bài báo. Trang Facebook của
Politico có thể được đặc trưng bởi những người bình luận ủng hộ nhiều nhất, dân sự
hơn, sẵn sàng cung cấp nghiên cứu dự phịng hơn, ít tham gia hơn và vừa phải.

3.2.3. Kết luận
Tóm lại, các cuộc thảo luận chính trị trên mạng xã hội - một khơng gian cơng
mới nói chung và Facebook nói riêng có thể hiệu quả ở chỗ chúng dân sự, hợp lý và
đúng chủ đề. Thực sự có rất nhiều bình luận đáp ứng cả ba đặc điểm này và những
bình luận này được tìm thấy trong mỗi bài đăng. Sự phân tích trên này rất hứa hẹn
cho những người tin tưởng trong lĩnh vực công cộng trực tuyến, nhưng nó cũng cho
thấy sự cần thiết phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn. Cụ thể, đó là điều gì khiến một chuỗi
bình luận trở thành những câu chuyện phiếm không hiệu quả - thiếu văn minh, vô lý,
lạc đề? Mặt khác, có các chỉ số dự đốn khi nào một cuộc thảo luận sẽ có hiệu quả
khơng? Có lẽ, việc biến một không gian công trên mạng xã hội trở thành một nơi văn
minh, đúng chủ đề sẽ phải dựa phần lớn vào chúng ta, ý thức của cư dân mạng.

23


IV.

TỔNG KẾT

Có thể thấy, lý thuyết khơng gian cơng và truyền thơng, báo chí có liên quan mật
thiết với nhau. Do đó, nghiên cứu lý thuyết khơng gian cơng là công việc vô cùng cần
thiết đối với những người đang học tập, công tác trong lĩnh vực truyền thông và báo
chí. Tuy nhiên, hiện nay, số cơng trình nghiên cứu về khơng gian cơng trong báo chí,
truyền thơng tại Việt Nam cịn chưa nhiều, trong khi đó, cả truyền thơng và báo chí
đang ngày càng bị nhiều quyền lực chi phối, gây ra những ảnh hưởng khơng nhỏ đến
xã hội.

Chính vì vậy, nhóm thực hiện hy vọng rằng, trong tương lai, sẽ có thêm những
nghiên cứu về lý thuyết khơng gian cơng để từ đó ứng dụng nó vào việc phát triển báo
chí, truyền thơng của nước nhà, tạo ra nhiều hơn nữa những không gian thảo luận tự
do và lành mạnh cho tất cả mọi người.

24



×