Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

NHỮNG HÌNH THỨC cụ THỂ của KINH tế TBNN ĐANG được vận DỤNG ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.16 KB, 42 trang )

Đề án kinh tế chính trị
A: LỜI MỞ ĐẦU
Lênin là người mác-xít đầu tiên đã có công nghiên cứu sâu sắc vấn đề chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong rất nhiều tác phẩm của mình, xây dựng nên những
nền tảng lý luận về CNTB NN trong điều kiện chuyên chính vô sản và đã áp
dụng lý luận này vào nước Nga. Sau thời kỳ cộng sản thời chiến. Các nước dân
chủ nhân dân trước đây, trong đó nước ta đều đã vận dụng lý luận này vào công
cuộc cải tạo XHCN. Cùng với thời gian lý luận này dường như bị bỏ quên, đặc
biệt từ sau khi các nước dân chủ nhân dân tuyên bố hoàn toàn công cuộc cải
tạo XHCN và bắt đầu sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi cuộc khủng
hoẳng của chủ nghiã xã hội thế giới nổ ra và tiếp đó là sự tan rã của các nước
XHCN Đông Âu và đặc biệt là Liên Xô đã buộc những người mác-xít phải nhận
thức lại cho đúng những di sản lý luận của Mác và Lênin.Trong đó có di sản lý
luận của Lênin về CNTB NN
Cho đến nay, trong giới lý luận cũng như các nhà hoạt động thực tiễn, kể
cả trong và ngoài nước đang có nhiều cách hiểu khác nhau và có các hình thức
vận dụng khác nhau đối với chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Ở nước ta việc vận dụng lý luận của Lênin về CNTB NN cũng có rất
nhiều những lý giải khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH nền kinh
tế bao gồm nhiều thành phần kinh tế tương ứng với mỗi hình thức kinh tế khác
nhau, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo đại diện cho phương thức
sản xuất XHCN, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư bản tư nhân và
đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, CNTB NN đang và sẽ giữ vai trò quan
trọng trong tiến trình phát triển của nền kinh tế đất nước. Theo Lênin đó là một
hình thức kinh tế quá độ, một bộ phận rất cần thiết của nền kinh tế quá độ,
Lênin đánh giá cao CNTB NN và coi nó là một hình thức quan trọng để đưa một
nước tiểu nông quá độ lên CNXH, phải tiến hành CNH-HĐH đất nước. Trong
xu thế hội nhập toàn cầu, cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão
thì việc nhận thức và vận dụng CNTB NN đang là một vấn đề cần được nghiên
cứu công phu, để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nước.


1
Đề án kinh tế chính trị
B: PHẦN LÝ LUẬN CHUNG
I/ LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH.
1. Hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào
hoạt động của các tổ chức đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước. Nó bao
gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế
nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử dụng và khai thác, phát
huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà
nước.
Hình thức kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy
động sử dụngvốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà
tư bản .Lênin chỉ rõ ”trong một nước tiểu nông…” phải đi xuyên qua CNTB nhà
nước tiến lên CNXH.
Từ khi có luật đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước phát triển mạnh
mẽ góp phần phát triển kinh tế-xã hội nước ta. Tuy nhiên trtong quá trình hình
thành và phát triển nảy sinh nhiều vấn đề thực tiễn cần giải quyết. Cần đa dạng
hoá các hình thức liên doanh, liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước
ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều
phương thức góp vốn kinh doanh Nhà nước và các nhà kinh doanh tư nhân trong
nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…
nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức mạnh
cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài. Cải thiện mội trường đầu tư và nâng cao
năng lực quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ quyền lợi của người
lao động.
Trong thời kỳ quá độ cần vận dụng hình thứckinh tế tư bản nhà nước vì:

2

Đề án kinh tế chính trị
* Do yêu cầu vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp tính chất của lực
lượng sản xuất.
* Do yêu cầu phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và thu hút vốn kỹ
thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài.
* Do yêu cầu phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm
năng vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý của nhà tư bản vì
lợi ích của bản thân họ cũng như công cuộc xây dựng CNXH. Vì vậy, cần phát
triển kinh tế tư bản nhà nước bằng nhiều hình thức đa dạng để phát triển lực
lượng sản xuất phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH.
2. Chủ nghĩa cộng sản thời chiến và thực chất của chính sách kinh tế
mới.
2.1) Chính sách công sản thời chiến.
Sau khi cách mạng Tháng 10 Nga thành công thì chính quyền Xô Viết
Nga phải đương đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của chủ nghĩa
đế quốcthế giới. Đứng trước nguy cơ một mất một còn, chính quyền Xô Viết tìm
mọi cách để tập trung mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch
bên trong và bên ngoài. Chính sách “ cộng sản thời chiến” ra đời trong hoàn
cảnh ấy. Đó là chính sách kinh tế của nhà nước Xô Viết nhằm huy động mọi tài
nguyên trong nước cho nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị tàn
phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong thời gian nội chiến và nước
ngoài can thiệp bằng vũ trang, chính quyền Xô Viết ngoài việc quốc hữu hoá
nền công nghiệp quy mô lớn, còn nắm trong tay nền công nghiệp hạng vừa và
một phần công nghiệp hạng nhỏ. Việc quản lý toàn bộ công ngiệp đều tập trung
ở các cơ quan trung ương, việc cung cấp nguyên liệu, thiết bị, vật liệu cho xí
nghiệp cũng không thực hiện cho quân đội và công nhân. Nhà nước thi hành chế
độ trưng thu lương thực thừa. Nguồn hàng của nhà nước những năm đó cực kỳ

3

Đề án kinh tế chính trị
thiếu thốn, nông thôn hầu như không nhận được hàng công nghiệp. Nhà nước
phải thi hành độc quyền mua, bán lương thực, cấm tư nhân buôn bán lương thực
và các thứ vật phẩm cần thiết nhất. Ở thành thị vật phẩm tiêu dùng phân phối
theo phiếu với điều kiện ưu tiên cung cấp cho công nhân và căn cứ vào tính chất
quan trọng và nặng nhọc của công tác. Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động phổ
biến đối với tất cả mọi người có năng lực lao động- chính sách ”cộng sản thời
chiến”, đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho cuộc nội
chiến. Thắng lợi của chính sách này vào thời ấy là do dựa trên cơ sở khối ”liên
minh quân sự và chính trị” của giai cấp công nhân và nông dân trong cuộc đấu
tranh chống quân bạch vệ và bọn can thiệp nước ngoài.
Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến,tình
hình kinh tế , chính trị, xã hội nước Nga rất bi đát. Đất nước lâm vào cuộc khủng
hoẳng toàn diện trầm trọng. Ra khỏi chiến tranh, nước Nga được Lênin ví như
“một người đã bị đánh gần chết”. Trong 7 năm trời nó bị đánh khắp mình mẩy
và may mà nó vẫn có thể chống nạng mà đi được. Đáng chú ý là khối liên minh
công nông : giai cấp công nhân- những người đã chịu đựng những hi sinh chưa
từng thấy, cũng như quần chúng nông dân đã bị kiệt sức gần giống như tình
trạng hoàn toàn mất khả năng lao động. Tình hình đó đã làm nảy sinh những bất
bình, những vụ bạo loạn trong một số quần chúng công, nông binh. Lần đầu tiên
trong lịch sử nước Nga Xô Viết xảy ra trường hợp đại đa số quần chúng nông
dân có tâm trạng chống lại chính quyền Xô Viết theo bản năng. Nếu không tìm
được lối thoát ra khỏi tình hình thì chính quyền Xô Viết có nguy cơ bị tan vỡ.
Nguyên nhân là do đâu? thường thì người ta hay gán cho sự tàn phá của
chiến tranh và chính sách cộng sản thời chiến. Tất nhiên phải kể đến nguyên
nhân tàn phá của chiến tranh. Nhưng thái độ đối với chính sách công sản thời
chiến thực sự đã có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền Xô Viết.
Là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên sống trong vòng vây của CNTB, chiến tranh

4

Đề án kinh tế chính trị
và nội chiến kéo dài mọi mặt đời sống kinh tế trong nước rất khó khăn, bi đát,
lúc đó chính quyền Xô Viết không có khả năng nào khác hơn là phải lập tức thi
hành đến mức tối đa chế độ độc quyền, trưng thu tất cả lương thực thừa, thậm
chí không bồi thường. Nhưng sai lầm ở đây là đã kéo dài cái được coi là ưu
điểm ra quá giới hạn cần thiết, của nó và vì thế nó trở thành một khuyết
điểm.Nguyên nhân của sự kéo dài đó chính là do quan niệm ấu trĩ về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ,do chưa có kinh nghiệm thực tế của một nước đầu tiên
đã mở cuộc đột phá vĩ đại vào tương lai.Công lao to lớn của Lenin chính là đã
nhận ra sự ấu trĩ này,và đã phát triển ngay lý luận của Mac khi cách mạng xã hội
chủ nghĩa mới giành được thắng lợi chỉ trong một thời gian rất ngắn.Lênin đã
nhận xét sai lầm ấy:”chủ nghĩa cộng sản ở nước ta quá vội vàng, thẳng
tuột,không được chuẩn bị”.Lênin đã phân tích cụ thể rằng khi đặt công tác xây
dựng kinh tế lên hàng đầu những người cộng sản Nga đã chỉ đứng trên một góc
độ mà nhìn nghĩa là định chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua cái thời
kỳ mở đầu mà Lênin gọi là”để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa “ với quan niệm đó những người cộng sản tưởng rằng sau khi
thiết lập chế độ sản xuất quốc doanh và chế độ nhà nước phân phối là đã bắt đầu
một chế độ kinh tế mới ,khác với với chế độ trước. Và cho rằng hai chế độ: chế
độ sản xuất, phân phối tư doanh sẽ đấu tranh với nhau trong những điều kiện
khiến chính quyền Xô Viết có thể thiết lập được chế độ sản xuất và phân phối
quốc doanh bằng cách lấn dần từng bước chế độ đối địch.
Đặc biệt cần lưu ý là trong phát triển kinh tế “ chúng ta tuyệt nhiên không
nêu ra vấn đề: nền kinh tế có quan hệ như thế nào với thị trường, với mậu dịch”
nhưng đến mùa xuân 1921 mới thấy rõ sự thất bại trong cái ý định ngắn nhất,
nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên
tắc xã hội chủ nghĩa. Cũng từ mùa xuân đó, tình hình chính trị đã cho thấy, trong
một số vấn đề kinh tế, cần phải rút lui về những vị trí của CNTB NN, cần phải

5

Đề án kinh tế chính trị
chuyển từ ”xung phong “ sang “ bao vây”. Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu
bằng “chính sách kinh tế mới”. Trong sự chuyển đổi này đã xuất hiện ít nhiều
tâm trạng chán nản và làm nhụt chí đấu tranh. Nhưng Lênin đã khẳng định, sẽ
không bao giờ học được cách giải quyết những nhiệm vụ của mình bằng những
phương pháp mới, nếu như kinh nghiệm ngày hôm qua đã không mở mắt cho
chúng ta thấy những sai lầm của những phương pháp cũ.
Sau cuộc thử nghiệm trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những
điều kiện khó khăn chưa từng thấy, trong điều kiện nội chiến, trong điều kiện
giai cấp tư bản buộc nước Nga Xô Viết phải tiến hành cuộc đấu tranh ác liệt, thì
đến mùa xuân năm 1921, những người cộng sản Nga đã nhận rõ là chưa nên xây
dựng ttrực tiếp CNXH, mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế cần lùi về CNTB NN, từ
bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài, không
thích thú, khó khăn và gian khổ. Sai lầm của quan niệm và phương pháp cũ đã
dẫn tới chỗ chính sách kinh tế lâm vào tình trạng ở phía thượng tầng của nó, bị
tách rời khỏi cơ sở và không dẫn đến việc phát triển lực lượng sản xuất, điều mà
cương lĩnh của đảng lúc đó coi là nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất. Trong báo
cáo tại đại hội IV quốc tế cộng sản, Lênin đã nói những nguyên nhân của sự khờ
dại ấy là: nước Nga lạc hậu, trình độ học thức còn rất thấp kém, khôngđược ai ở
bên ngoài giúp đỡ.
2.2) Chính sách kinh tế mới về sự cần thiết sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
2.2.a) Chính sách kinh tế mới.
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến
thiết hoà bình, do đó chính sách “cộng sản thời chiến” đã làm xong vai trò lịch
sử bất đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép dẫn nó đi xa hơn nữa, vì nông dân
nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách này, khối liên minh công nông có
nguy cơ tan vỡ. Cho nên cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ

6

Đề án kinh tế chính trị
nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm1918 ,phải trở lại những quan hệ kinh tế khách
quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn. Do những yêu
cầu đó đại hội X của đảng cộng sản Bôsevich Nga đã chủ trương thay chính
sách”kinh tế cộng sản thời chiến” bằng chính sách” kinh tế mới” với nội dung:
• Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa thay vào đó là thuế lương
thực.
• Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hoá ,nay cho tư nhân
thuê hay mua lại để kinh doanh tư do( chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng hoá
tiêu dùng).
• Cho phép mở rộng trao đổi sản xuất hàng hoá giữa thành thị và
nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, cho thương nhân được tự do
hoạt động(chủ yếu trên lĩnh vực bán lẻ) để góp phần khôi phục kinh tế, củng
cố lại lưu thông tiền tệ trong nước.
• Thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc
doanh.
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất ở cả
thành thị lẫn nông thôn . Vì nó đáp ứng nhu cầu của quy luật kinh tế của nền sản
xuất XHCN còn mang tính chất hàng hoá và có nhiều thành phần. Nhờ đó, trong
một thời gian ngắn, nhà nước Xô Viết đã khôi phục được nền kinh tế quốc dân
bị chiến tranh tàn phá, đã tiến được một bước dài trong việc củng cố khối liên
minh công nông, một nhà nước công nông .Nhiều dân tộc đầu tiên trên thế giới
đã được thành lập, đó là liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết.
Chính sách kinh tế mới còn có ý nghiã quốc tế của nó. Đối với các nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội đều cần thiết vận dụng tinh thần cơ bản của chính sách
đó ,chẳng hạn như vấn đề quan hệ hàng hoá tiền tệ, nguyên tắc liên minh công
nông, sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần. Chính sách này được quán triệt

7
Đề án kinh tế chính trị

trong các nghành kinh tế và lấy việc khôi phục nông nghiệp làm nhiệm vụ hàng
đầu, là vấn đề cấp bách trước mắt.
2.2.b) Thực chất của chính sách kinh tế mới:
Toàn bộ nội dung của chính sách kinh tế mới có thể được khái quát thành
chính sách phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đặc biệt với một nước tiểu
nông quá độ lên chủ nghiã xã hội . Trong “Dàn ý dự thảo huấn thị của hội đồng
lao động quốc phòng” năm 1921, Lênin viết” thực chất của chính sách kinh tế
mới là phát triển đến mức tối đa lực lượng sản xuất, cải thiện tình cảnh của công
nhân và nông dân , sử dụng tư bản tư nhân và hướng nó vào con đường chủ
nghĩa tư bản nhà nước, ủng hộ toàn diện sáng kiến của địa phương, đấu tranh
chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề. Nó chứa đựng tinh thần huy động
mọi tiềm năng bên trong và bên ngoài để phục vụ cho nhiệm vụ cơ bản đó, tạo
ra động lực sản xuất cho nông dân và những người lao động khác, làm cho lợi
ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. Đó là chính sách củng cố khối liên minh
công nông-nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản trên cơ sở những mối
quan hệ mới, duy nhất, tức là những mối quan hệ thông qua các hoạt động, kinh
tế.
Nhưng thực chất của chính sách kinh tế mới là gì? Có thể gói gọn ở hai
điểm :
Một là : Nhà nước vô sản cho phép những người sản xuất nhỏ được tự do
buôn bán.
Hai là: đối với những tư liệu sản xuất của đại tư bản, Nhà nước vô sản áp
dụng một số nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin nói rõ thêm :”
Việc trao đổi hàng hoá, được coi là đòn xeo chủ yếu của chính sách kinh tế mới,
được đặt lên hàng đầu”.
Trước năm 1917, nước Nga Sa Hoàng tuy đã có chủ nghĩa tư bản nhưng
mới phát triển ở trình độ trung bình.

8
Đề án kinh tế chính trị

Điều kiện thực tế nước Nga khi giai cấp vô sản vừa giành được chính
quyền_ theo sự phân tích của Lênin, không phải là điều kiện của nước Đức thời
bấy giờ. Hồi ấy, nước Đức là đỉnh cao về kĩ thuật và về tổ chức có kế hoạch theo
kiểu đại tư bản chủ nghĩa. Với cơ số kinh tế-kĩ thuật ấy, nếu thay bằng nhà nước
kiểu khác về mặt xã hội và khác về nội dung giai cấp- tức là nhà nước Xô Viết,
nhà nước vô sản- thì sẽ có tất cả các điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cho nên nếu cách mạng vô sản giành được thắng lợi ở Đức hồi ấy thì chắc hẳn
nó sẽ thực hiện sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội một cách không khó khăn hoặc
ít khó khăn Cách mạng vô sản trong điều kiện ấy có thể chuyển trực tiếp lên
CNXH mà không phải qua những biện pháp quá độ đặc biệt.
Nhưng nước Nga là nước chậm tiến nhất ở Châu Âu, cho nên nước Nga
Xô Viết chỉ mới có nguyện vọng kiên quyết tiến lên con đường XHCN mà chưa
có nền móng kinh tế của nó.
Vậy làm thế nào để thực hiện được CNXH ở một nước mà tiểu nông
chiếm tuyệt đại bộ phận dân ? Trong một nước như vậy theo Lênin, cuộc cách
mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi triệt để với hai điều kiện.
+ Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến. Về điều kiện này, theo Lênin, tuy
đã làm nhiều hơn trước để có được điều kiện ấy, song cho đến lúc ấy vẫn còn
chưa đủ để cho điều kiện đó trở thành sự thật được.
+ Điều kiện thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện
sự chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền. Nhà nước với đại đa số
nông dân. Phải thoả thuận với nông dân vì lợi ích của hai giai cấp , mà 2 giai cấp
đó” có sự khác nhau sâu xa”. Theo Lênin người tiểu nông, chừng nào còn là tiểu
nông thì họ không ưa tất cả những gì mà người công nhân muốn. Nhưng vẫn
phải thoả thuận được với nông dân thì mới duy trì được chín quyền của giai cấp
công nhân, mới dựng được CNXH. Mà khi đã nói tới thoả thuận là phải nói tới

9
Đề án kinh tế chính trị

sự nhượng bộ lẫn nhau vì thế theo Lênin” thoả thuận là một khái niệm rất rộng,
nó bao gồm cả một loạt biện pháp và bước quá độ”. Lênin khẳng định: chừng
nào cách mạng chưa nổ ra ở các nước khác, thì chỉ có thoả thuận với nông dân
mới có thể cứu vãn được cuộc cách mang xã hội chủ nghĩa”. Đó là lý do phải lùi
về CNTB nhà nước.
Sự thoả thuận giữa 2 giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên
không vững chắc vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có,
không muốn có hình thức quan hệ ấy nữa và không muốn tiếp tục sống mãi như
thế. Do đó phải thiết lập những mối quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh
tế và phải thoả mãn được những yêu cầu, nghĩa là như thế nào? Tìm đâu ra cách
giải quyết vấn đề thoả mãn những yêu cầu của nông dân. Về thực chất, có thể
kiếm ra hàng hoá và lương thực. Nếu không có gì để trao đổi, mà buôn bán thì
tự do trao đổi và tự do buôn bán chỉ là mảnh giấy lộn. Muốn chấm dứt tình trạng
thiếu hàng hoá thì phải khôi phục được công nghiệp. Nhưng trong điều kiện
nước Nga khi đó không thể nghĩ tới khôi phục công nghiệp. Khi không đảm bảo
cung ứng mức tối thiểu về lương thực và nhiên liệu .lối thoát duy nhất để ra khỏi
sự bế tắc này trứoc mắt là phảI phát triển nông nghiệp cảI thiện đời sống nông
dân . với quan đIúm này lê Nin đã tưng bị phê phán là chủ nghĩa cơ hội . lê Nin
phảI thuyết phục mọi người rằng , mặc dù công nhân cung khó cũng phảI bị tha
hoá… Nhưng để giảI quyết tình trạng này phảI giúp nông dân bầng bất cứ giá
nào để tăng nhanh nông sản phẩm . “ Bây giờ việc tăng sản phẩm đang trở thành
đIều then chốt , hơn đá thử vàng ” Chúng ta trông chờ” Trung nông trong nông
nghiệp “
Bởi vì chính trung nông mới là tầng lớp sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp.
Chính sách tự do cho trao đổi là nhằm “ Kiếm ra hâng hoá “

10
Đề án kinh tế chính trị
Căn cứ vào tâm lý người tieu dùng . Theo Lê Nin tong nào tiểu nông còn là

tiểu nông thì ngưòi đó cần được một sự kích thích , một sự thúc đẩy ,một sự cổ
vũ thích hợp , với cơ sở kinh tế của người đó , tức là thích hợp với một nền kinh
tế cá thể , qui mô nhỏ . Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích nông dân ,
đIều chủ yếu là phảI mang lại cho người tiểu nông một sự khuyến khích một sự
thúc đẩy trong hoạt động kinh doanh của họ bằng một tổ chức kinh tế thích ứng
với nền kinh tế của trung nông .cụ thể là nhà nước chỉ thu của nông dân một số
thuế nhất định và ấn đình trước số thuế đó thực tế đã chứng minh đIều đó là
đúng chính sách tự do buôn bán là tự do thoả thuận với nông dân một cách thực
tế, khéo léo, khôn ngoan và mềm dẻo .
Nhưng cũng từ chính sách tự do trao đổi trong nông dân và vì chính sách
đó mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Trước hết , tự do trao đổi là tự do buôn bán , mà tự do buôn bán theo quan
đIểm của Lê Nin thời đó tức là lùi lại chủ nghĩa tư bản.Tự do buôn bán và tự do
trao đổi là việc trao đổi hàng hoá giữa những người sở hữu nhỏ. Thứ trao đổi
hàng hoá ấy không thể không dẫn đến chỗ phân hoá những người sản xuất hàng
hoá ra thành những kẻ sở hữu tư bản và người sở hữu sức lao động, nghĩa là
khôI phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Cho nên sự phát triển trao đổi tư nhân ,
tức là phát triển chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi, khi có
hàng triệu người sản xuất nhỏ. Lê Nin chỉ rõ, tự do buôn bán là khôI “ khôI phục
chủ nghĩa tư bản trên một mức độ lớn “ là tự do của chủ nghĩa tư bản. Với
chính sách kinh tế mới, chủ nghĩa tư bản sẽ nảy nở những nơI mà trước đây ,
chúng không nảy nở được. Trong nông nghiệp giai cấp CuLắc sẽ nảy nở nhiều
hơn trước, như vậy không những vì thế mà có thể ngăn cấm được. Từ đó thấy
được sự cần thiết phảI “ dung nạp chủ nghĩa tư bản, vì nó cần cho đông đảo
quần chúng nông dân và cho tư bản tư nhân là người là người phảI buôn bán để
thoả mãn được nhu cầu của nông dân. Vì thế, cần phảI tổ chức công việc như thế

11
Đề án kinh tế chính trị
nào để cho tiến trình bình thường của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và của việc

lưu thông tư bản chủ nghĩa. Có thể có được , vì đIều đó cần thiết cho chân dân,
ở đây đã diễn ra một đIều mà chính Lê Nin cũng phảI nói “ hình như là người
đời , chủ nghĩa tư bản tư nhân lại đóng vai trò tự do chủ nghĩa xã hội”, “ có thể
dùng chủ nghĩa tư bản tư nhân để xúc tiến chủ nghĩa xã hội”. Nhưng , muốn
không thay đổi bản chất của mình , nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho
chủ nghĩa tư bản được phát triển trong một trừng mực nào đó và chỉ với đIều
kiện là thương nghiệp tư nhân và tư bản tư nhân phảI phục ting sự đIều tiết của
nhà nước , phảI tìm cách hướng chúng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà
nước bằng một tổ chức nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước từ
bên trên.
Như vậy trong điều kiện nhà nước vô sản, tự do trao đổi tự do mua bán tất
dẫn đến sự phục hồi chủ nghĩa tư bản đuới hình thức chủ yếu chủ nghĩa tư bản
nhà nước.
Trong đIều kiện một nhà nước chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm ưu thế,
hàng hoá chỉ có thể có được từ nông dân từ nông nghiệp. Và như vậy chỉ có
nông sản hàng hoá này thay trao đổi với nông sản hàng hoá khác, đIều đó sẽ
không kích thích nông dân nông nghiệp phát triển. PhảI có những hàng hoá mà
nông dân cần. Mà muốn có những hàng hoá đó phảI dựa vào sự phát triển thủ
công nghiệp cà công nghiệp. Nhưng trong một nước bị tàn phá kiệt quệ sau 7
năm chiến tranh , tuyệt đại đa số phân dân là nông dân cũng bị phá sản, sẽ không
giảI quyết được vấn đề này, “ nếu không có sự giúp đỡ của tư bản…” Lê Nin nói
rõ “ đIều đó chúng ta không tự mỉnh làm được, nếu không có sự giúp đỡ của tư
bản nước ngoàI. Người nào không chìm đắm trong ảo tưởng mà nhìn thẳng vào
thực tế, thì phảI hiểu rõ đIều đó. Theo Lê Nin cần phảI “du nhập” chủ nghĩa tư
bản bên ngoàI bằng những hợp đồng buôn bán với các nước tư bản bên ngoàI
bằng những hợp đồng buôn bán với các nước tư bản lớn bằng chính sách tô

12
Đề án kinh tế chính trị
nhượng, tóm lại bằng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà

nước.
2.2.c) Biểu hiện cụ thể về việc sử dụng chính sách này
2.2.c1:Bàn về thuế lương thực:
a) Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH ở nước Nga, theo Lê Nin,
trong chế độ có bất cứ ai cũng thừa nhận là có những thành phần , những bộ
phận ,những mảnh của CNST và CNXH. Vởy rõ ràng trong tình hình này
CNTBNN về kinh tế cao hơn rất nhiều so với tình hình kinh tế hiện nay.
CNTBNN không có gì là đáng sợ với chính quyền Xô Viết vì nước Xô Viết là
một nước trong đó chính quyền của công nhân và nông dân đã được đảm bảo.
Năm 1918-1920 diễn ra cuộc nội chiến ở Nga, tình trạng kinh tế bị tàn phá
nặng nề đã kìm hãm sự phục hồi của lực lượng sản xuất làm cho chính sách vô
sản hao tổn sức lực. Thêm vào đó, nạn mất mùa năm 1920 đã đẩy nền kinh tế
Nga vào tình trạng suy thoáI nghiêm trọng. Để khắc phục được tình trạng đó, bắt
buộc phải dùng những biện pháp cấp tốc cấp thiết nhất để cải tiến đời sống
nhân dân, không thể làm như vậy được. Như vậy không có sự sửa đổi trong
chính sách lương thực. Một trong những đIều sửa đổi là thay thế chế độ trưng
thu bằng chế độ lương thực. Thực chất của việc thay thế đó là hình thức quá độ
từ chế độ “cộng sản thời chiến” sang chế độ trao đổi sản phẩm CNXH bình
thường. Chính sự suy thoáI nghiêm trọng đó đã làm bước quá độ ấy trở thành
cần thiết và cấp bách vì không thể khôI phục nhanh chóng nền đại công nghiệp.
Chỉ có chính sách “ thuế lương thực” mới phù hợp với những nhiệm vụ của giai
cấp vô sản, mới có thể củng cố được cơ sở vật chất CNXH và đưa CNXH đến
thắng lợi hoàn toàn.
Vậy tại sao cần phảI thay việc trưng thu bằng thuế lương thực. Vì việc
trưng thu tỏ ra cực kỳ nặng nề và bất tiện cho nông dân. Thuế lương thực thấp
hơn việc trưng thu hai lần. Người dân nào cũng biết rõ số thuế phảI nộp. Do đó ,

13
Đề án kinh tế chính trị
sẽ có rất ít tình trạng lộng quyền khi thu thuế. Nông dân sẽ càng có lợi trong

việc tằng diện tích gieo trồng, trong việc cảI thiện kinh doanh của mình, chăm lu
tằng thu hoạch.
Như vậy “thuế lương thực sẽ giúp vào cảI thiện nền kinh tế nông dân. Bây
giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm, hăng háI hơn và đó chính là
đIểm chủ yếu”.
2.2.c2) Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết sử dụng CNTBNN.
Như đã nói ở trên , việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chế
độ thu thuế chính là chuyển từ chế độ “ cộng sản thời chiến” sang chính sách
“inh tế mới” có nghĩa là nông dân đã được tự do mua bán những nông sản thừa
ngay sau khi đã nộp thuế, mà thuế lương thực chỉ chiếm một phần rất nhỏ các
sản phẩm. Tức là “ sau khi đã nộp đầy đủ thuế hiện vật , nông dân có quyền tự
do trao đổi lúa mì còn lại của anh ta” sự trao đổi mua bán được coi là “một hình
thức mới của CNTB ở mức độ nào đó, là một thứ CNTB được giai cấp công
nhân tự giác cho phép tồn tại và hạn chế. Lê Nin nhấn mạnh nhiều lần rằng nuế
có kinh tế nhỏ, có tự do trao đổi là CNTB xuất hiên và phát triển, không thể nào
trách khỏi sự thật đó. Như vậy CNTBNN nếu hiểu một cách ngắn gonj “ là một
thứ CNTB mà chúng ta có thể hạn chếm, có thể qui định giới hạn, CNTB nhà
nước gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là giai cấp công nhân, là bộ
phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên phong của chúng ta.
Trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga Xô
Viết Lênin đã chỉ rõ rằng việc khuyến khích tự do buôn bán trên cơ sở thừa nhận
sự tồn tại của chế độ sử hữu tư nhân và tư liệu sản xuất trong một nước tiểu
nông thì tình tự phát triển tư sản sẽ chiếm ưu thế. Theo đó sự phát triển kinh tế
tiếp theo sẽ là sự phát triển TBCN nhưng không thể ngăn cấm mà chính sách
duy nhất đúng là hướng sự phát triển của CNTB vào con đường CNTBN .
CNTBNN là một bước tiến lớn để chiến thắng tình trạng vô chính phủ và là giảI

14
Đề án kinh tế chính trị
pháp hữu hiệu để tiến lên CNXH bằng con dường chắc chắn nhất. “CNTBNN là

sự chuẩn bị vật chất cho CNXH , là phòng chờ đI vào CNXH, là một thang lịch
sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là CNXH thì không còn nấc thang nào ở
giữa”.
3. CNTBNN trong nhà nước vô sản.
Từ sự phân tích đIều kiện thực tế của nhà nước Nga Xô Viết, Lenin đã đI
đến kết luận: Thứ CNTB ấy là có lợi và cần thiết”, là “ đIều đáng mong đợi”
Lênin đã luận cứ như thế nào về cáI “có lợi” này?
a) Trước hết theo Lênin cần phải nhận thức rõ thực hành CNTB nhà
nước sẽ có lợi cho ai? ở đây cần phải là chính sách “độc thoại”, “cưả quyền ”.
Bản thân CNTB nhà nước chính đã là sự kết hợp liên hiệp, phối hợp nhà nước
Xô Viết , nền chuyên chính vô sản với CNTB. “ Kết hợp liên hợp, phối hợp nhà
nước Xô Viết nền chuyên chính vô sản với CNTB là “một khối với CNTB bên
là một khối với CNTB ở bên trên” và đương nhiên sẽ không có CNTB nhà nước
nếu không có những đIều kiện cho họ , đIều kiện ấy theo Lênin chính là những
“cống vật”. Trong đIều kiện trên thế giới chỉ có một chính quyền Xô Viết, xung
quanh là cả một hệ thống các nước tư bản. Muốn tồn tại, chính quyền Xô Viết
không thể bỏ qua sự thật ấy. “ Hoặc là chiến thắng toàn bộ giai cấp tư sản ngay
lập tức hoặc là phảI nộp “cống vật”.
Khi thực hiện tô nhượng một hình thức của CNTB nhà nước, rõ ràng là nhà
tư bản thu được lợi nhuận không phảI thông thường mà là “bất thường”, “siêu
ngạch” hoặc có được loại nguyên liệu họ không tìm được hoặc khó tìm được
bằng cách khác. ĐIều này rất có ý nghĩa thực tiễn và đặc biệt có ý nghĩa với
nước ta hiện nay khi thực hành CNTB nhà nước. Nhà tư bản được “lập lại” ,
được “du nhập” ,“không phảI vì lợi ích củng cố chính quyền Xô Viết, mà vì lợi
ích bản thân họ”. Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia lợi ích đó
thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức “trả giá” cho sự lạc hậu

15
Đề án kinh tế chính trị
cho sự kém cỏi của mình. Nhưng không có cách nào khác mà là đIều cần phảI

học. PhảI học phân chia lợi ích theo qui luật ngự trị, trong kinh doanh đó là sự
phân chia theo sức mạnh kinh tế kỹ thuật. PhảI trả giá , phảI có một vàI hi sinh ,
nhưng cáI giá ấy là bao nhiêu? Kinh nghiệm và thực tiễn sẽ chứng tỏ”. Vấn đề là
không cần che giấu sự thật: PhảI nộp cống vật , nhưng đối với nhà nước vô sản
thì sự dung nạp và du nhập CNTB sẽ mang lại những lợi ích cơ bản và lâu dài.
Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiếm soát và đIều tiết có thể
đẩy nhanh ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản
xuất trong nông nghiệp mà ổn đĩnh xã hội , thoát ra khỏi khủng hoảng , thoát ra
tình cảnh giảm sút, “tín nghiêm của nông dân đối với chính qưyền Xô Viết, khắc
phục tình trạng trộm cắp của công nặng nề và nạn đầu cơ nhỏ lan tràn…” Nói
về tầm quan trọng của vấn đề này Lênin chỉ ra răng chính quyền vô sản có giúp
đỡ cho sự phát triển đó được không , hay là bon tư bản nhà nước và CNXH.
Theo Lênin chính là giai cấp tiểu tư sản cộng với CNTB tư nhân cùng nhâu đấu
tranh chống lại cả CNTB nhà nước lẫn c CNXH . Nó chống lại bất cứ sự can
thiệp , kiểm kê và kiểm soát nào của nhà nước , dù là CNTB nhà nước hay
CNXH . không hiểu được vấn đề này thì sẽ gây ra nhiều vấn đề về kinh tế.
CNTB nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng được tình
trạng hỗn độn , tình trạng suy sụp về kinh tế , hiện tượng lỏng lẻo, những tập
quán những thói quen , địa vị kinh tế của giai cấp ấy là quan trọng hơn hết . Bởi
vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại là
một mối nguy hại lớn nhất, đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong ,
cũng vì thế mà chế độ tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga lên CNXH bằng con
đường chắc chắn nhất. Nừu khôI phục được tìn trạng này thì “tất cả những con
chủ bàI đều nằm trong tay công nhân và sê bảo đảm cho CNXH được củng cố” .
CNTB nhà nước là công cụ để khắc phục được “kẻ thù chính trong nội bộ
” đất nước , kẻ thù của các giai cấp khác nhau. Lênin nói rằng “không thể giảI

16
Đề án kinh tế chính trị
quyết vấn đề này bằng biện pháp xử bắn hoặc những lời tuyên bố sấm sét” bởi vì

cơ sở kinh tế của tệ đầu cơ là tầng lớp những kể tiểu tư hữu và CNTB tư nhân,
có đại diện của mình trong mỗi người tiểu tư sản.
CNTB nhà nước còn đựơc xem là công cụ “đấu tranh chống chủ nghĩa
quan liêu và tác phong lề mề”. Vì sao và thông qua chính sấch kinh tế gì mà có
thể thực hiên được nhiệm vụ này ? Lênin phân tích về nguồn gốc kinh tế của chủ
nghĩa quan liêu ở nước Nga, của những người sản xuất nhỏ , cảnh khốn cùng
của họ , tình trạng dốt nát của họ , tình trạng không có đường sá , nạn mù chữm
tình trạng không có sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng
thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Thông qua CNTB và CNTB nhà nước mà giai cấp công nhân có thể
học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức được một nền sản xuất
lớn. Khi ấy giai cấp vô sản Nga so với bất cứ giai cấp vô sản các nước phát triển
nào khác là giai cấp tiên tiến hơn về trình độ chính trị của nước mình và về sức
mạnh của chính quyền công nghiệp, nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu
nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một
CNTB nhà nước có qui củ. Về trình độ văn hoá về mức chuẩn bị chuẩn bị
cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất, coi đó là luận đIểm
của những hạng người “trong vỏ ốc ” không biết rằng sẽ không bao giờ có ,
không thể có sự tương xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng như của xã
hội, mà chỉ có thể trảI qua hàng loạt lần làm thử … thì mới có thể xây dựng lên
CNXH hoàn chỉnh… CNTB nhà nước nếu thực hiện đựơc sẽ giúp chính quyền
Xô Viết khắc phục được tình trạng lạc hậu ấy . Cũng qua đây mà học tập được
cách quản lý của những “người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm” trong
những xí nghiệp hết sức to lớn, thực sự giám nhận được việc cung cấp sản phẩm
cho hàng chục triệu người.

17
Đề án kinh tế chính trị
CNTB nhà nước thông qua sự “du nhập” của tư bản từ bên ngoàI là hình
thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại, qua đó hy vọng có được trình độ trang bị

cao của CNTB . Nếu không lợi dụng kỹ thuật đó thì không xây dựng tốt được cơ
sở cho nền đại sản xuất của chính quyền Xô Viết.
CNTB nhà nước còn mang lại cáI lợi hơn là : Thông qua sự phát triển
của nó mà fục hồi được giai cấp công nhân. Nừu CNTB được lợi thế thì sản
xuất công nghiệp sẽ tăng lên giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên.
Nừu CNTB được khôI phục lại thì cũng có nghĩa là khôI phục lại giai cấp vô sản
và tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp . Vì chiến tranh , vì bị phá sản nên đã
mất tính giai cấp, nghĩa là đã bị đẩy ra ngoàI con đường tồn tại giai cấp của
mình và không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vô sản nữa. ĐôI khi về hình
thức nó đã được coi là giai cấp vô sản nhưng nó không có gốc về kinh tế.
Chính là vì ý nghĩa của việc thực hiện CNTB Nhà nước như vậy , mà
Lênin đã nói rằng “đIều có lợi và cần thiết”, “đIều mong đợi” trong đIều kiện
của chính quyền Xô VIết.
b) Những hình thức của CNTB nhà nước.
Lênin chẳng những là người Mác xit đầu tiên nêu ra luận đIểm về việc bổ
sung CNTB làm phương tiện để tăng lực lượng sản xuất, mà còn chỉ đạo thực
hiện chủ trương này trong thực tiễn. Và đó mới là đIều quan trong nhất. Khi giảI
thích vì sao dùng danh từ CNTB
Nhà nước Lênin đã nói “đIều mà tôI luôn quan tâm đến đó là mục đích
thực tiễn…”. Theo Lênin mục đich thực tiễn ấy là tìm ra nhừng hình thức cụ thể
để thực hiện . Cần lưu ý rằng đối với Lênin , mặc dù thời gian sống quá ngắn
ngủi song tư tưởng về sự phong phú , đa dạng của những hình thức là tư tưởng
của người mà ta cần quán triệt. Lênin không bị trói buộc CNTB nhà nước chỉ
vào một số hình thức , đã tồn tại tư tưởng của Lênin là “… ở những nơI nào có
những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói

18
Đề án kinh tế chính trị
chung , thì ở đó có CNTB Nhà nước, dưới hình thức này hay hình thức khác, ở
trình độ này hay trình độ nọ”.

Thời Lênin có những hình thức:
1. Tô nhượng: Trong cuốn “bàn về thuế lương thực ,Lênin quan niệm thuế
tô nhượng là một giao kèo , một sự liên kết , liên minh giữa chính quyền nhà
nước Xô Viết, nghĩa là nhà nước vô sản, với CNTB nhà nước chống lại thế lực
tự phát tiểu tư hữu. người nhận tô nhượng là nhà tư bản ”. Tô nhượng là chính
quyền Xô Viết kí hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy , nhà tư bản được
xây dựng một vàI thứ : Nguyên liệu, hầm mỏ , xí nghiệp , quặng hay thậm chí
một xưởng riêng biệt . Chính quyền nhà nước XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu
sản xuất của mình : Nhà máy, vật liệu, hầm mỏ (Trong thực tế không phảI chỉ có
như vậy. Trong bức thư ngày 5-12-1921 , lênin còn nói đến việc tô nhượng quay
phim và mua phim ở nước Nga và kinh doanh những phim ấy ở ý). Nhà tư bản
tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản
xuất XHCN , và thu lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra , rồi nộp cho nhà nước
XHCN một phần sản phẩm tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có
lợi. Nhà tư bản kinh doanh theo phương thức tư bản cốt để thu được lợi nhuận
bất thường , siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu mà họ không tìm được
hoặc khó tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô Viết cũng có lợi : Lực
lượng sản xuất phát triển , số lượng sản phẩm tăng lên.
Hình thức tô nhượng là sự “du nhập” CNTB từ bên ngoàI vào. Tất cả khó
khăn trong nhiệm vụ này là phảI suy nghĩ , phảI cân nhắc hết mọi đIều khi kí
hợp đồng tô nhượng và sau đó phảI biết theo dõi việc chấp hành nó.
Thời Lênin hình thức tô nhượng được coi là phổ biến hơn cả,với cách
đặtđặt vấn đề của Lênin , có thể quan niệm đó là hình thức “làm ăn”với tư bản
nước ngoàI nói chung.
Trong báo cáo về tô nhượng , lênin đã nêu ra những đIều cần chú ý:

19
Đề án kinh tế chính trị
•Để thực hành CNTB nhà nước cần phảI từ bỏ áI quốc địa phương của một
số ngưòi cho rằng, tự mình có thể làm lấy, không chấp nhận trở lại ách nô dịch

của tư bản. Lênin nêu rõ cần phảI sẵn sàng chịu đựng cả một loạt hi sinh thiếu
thốn và bất lợi miễn sao có được một sự chuyển biến quan trọng và cảI thiện
tình trạng kinh tế trong các ngành công nghiệp chủ yếu. Cũng phảI dự kiến rằng
trong thời gian đầu không thể tránh khỏi sai lầm, nhưng dù sao cũng phảI cố đạt
được đIều đó. “Bất cứ người nhận tô nhượng nào cũng cũng vẫn là nhà tư bản,
và nó cũng sẽ cố gắng phá hoại chính quyền Xô Viết còn chúng ta thì lại phảI cố
lợi dụng lòng tham của nó.”
•Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cảI thiện đời sống công nhân trong
xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình ở nước ngoài. ĐIều
trọng yếu nhất khi thực hành chế độ tô nhượng là nâng cao số lượng sản phẩm
lên. Nhưng đIều đặc biệt quan trọng thậm chí càng quan trọng hơn là cảI thiện
ngay tức khắc đời sống công nhân trong các xí nghiệp đó. CảI thiện đời sống
của công nhân trong các xí nghiệp tô nhượng và ngoàI tô nhượng được xem là
“cơ sở của chính sách tô nhượng”.
•NgoàI ra ngưòi nhận tô nhượng phảI bán thêm cho chính quyền Xô Viết
từ 50 đến 100% số lượng tiêu dùng cho các công nhân ở các xí nghiệp tô
nhượng cùng với giá bán như trên, làm như vậy là để cảI thiện đời sống công
nhân khác.
•Vấn đề trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng, trả bằng ngoại
tệ , bằng phiếu đặc biệt hay bằng tiền Xô Viết thì sẽ được qui định riêng trong
từng thoả thuận hợp đồng. Có đIều về phương diện hình thức trả lương, chính
quyền Xô VIết không hề trói buộc các nhà tư bản. Vấn đề đối với nhà nước là
phảI biết thích ứng với mọi điều kiện sao cho có thể đấu tranh được với họ để
cảI thiện tới một mức nào đó đời sống của công nhân.

20
Đề án kinh tế chính trị
•ĐIều kiện về thuê mướn , về sinh hoạt vật chất , về trả lương cho các công
nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoàI được qui định theo sự thoả thuận
tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. Công

đoàn không có quyền đòi áp dụng các mức lương của Nga , cũng như các luật lệ
của Nga về thuế mướn nhân công đối với các thuế mướn đó . Nên nhớ rằng, tô
nhượng là hợp đồng ký với một quốc gia tư sản cho nên người cộng sản nào
muốn ký hợp đồng tô nhượng trên cơ sở các nguyên tắc cộng sản thì : Lênin nói
rằng nên: “bỏ ngưòi đó vào nhà thương đIên.” cũng tương tự như vậy nếu đảng
viên cộng sản nào trong chính sách tô nhượng mà lại muốn thể hiện chủ nghĩa
cộng sản của mình vào trong bản hợp đồng , cố nhiên việc thuê mướn công nhân
và nhân viên nước ngoàI , tổng số cũng như từng loại phảI theo tỷ lệ phần trăm
so với công nhân , nhân viên Nga, tỷ lệ này sẽ thoả thuận trong hợp đồng.
•Còn đối với những công dân Nga , chuyên gia có trình độ cao nếu các xí
nghiệp tô nhượng muốn mời thì phảI được sự đồng ý của các cơ quan chính
quyền trung ương. Theo tinh thần không thể để các chuyên gia ưu tú nhất làm
việc ở các xí nghiệp tô nhượng. Tuy không cấm hoàn toàn nhưng việc thi hành
hợp đồng phảI được giám sát từ trên xuống và từ dưới lên.
•PhảI tôn trọng pháp luật ở nước Nga , chằng hạn các đạo luật về đIều kiện
lao động , về kỳ hạn phát lương vv. Nừu người nhận tô nhượng yêu cầu phảI ký
hợp đồng với các công đoàn . Ký hợp đồng với các công đoàn chính là nhằm
xoá bỏ mối lo ngại của tư bản đối với các công đoàn ở Nga. NgoàI những hàng
tiêu dùng và thiết bị máy móc nhập vào cho xí nghiệp tô nhượng người nhận tô
nhượng còn phảI nhập thêm cho ta . ví dụ 25% số cần thiết của họ , bán cho ta
theo giá thoả thuận.
PhảI nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp
với pháp luật của nhà nước Nga và của nước ngoài. ĐIều này phảI được qui định
tỉ mỉ trong từng hợp đồng , bởi vì đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ

21
Đề án kinh tế chính trị
nghĩa là ở chỗ nó không có khả nằng chăm lo đến việc sử dụng đất đai và sức
lao động một cách khoa học và đúng đắn . Những qui tắc khoa học – kỹ thuật là
biện pháp đấu tranh chống hiện tượng đó.

2. Hợp tác xã.
Thoạt tiên Lênin cũng quan niệm hợp tác xã cũng là một hình thức của
CNTB nhà nước , nhưng sau này Lênin lại có quan niệm hơI khác. Trong một
tác phẩm cuối cùng của mình , Lênin viết : “Cần phảI viện đến một cáI gần như
CNTB nhà nước. TôI muốn nói đến chế độ hợp tác xã” , tiếp ngay sau đó Lênin
lại nói “thường thường trong hoàn cảnh nước ta , chế độ hợp tác xã là hoàn toàn
đồng nhất với CNXH”. Có thể hiểu quan niệm của Lênin về chế độ hợp tác xã là
như thế nào ?
Căn cứ vào những thời đIểm lịch sủ trước và sau có thể nhận thấy rằng,
thoạt đầu Lênin quan niệm các hợp tác xã đều là hình thức của CNTB nhà
nước . Về sau này, từ thực từ thực tiễn nước Nga Lênin đã phân biệt tổ chức
kinh tế này trong những chế độ khác nhau. Nghĩa là trong thực tế tồn tại hai chế
độ hợp tác xã : CNTB và XHCN. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong
lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức CNTB nhà nước.
Trong một nước tư bản chủ nghĩa hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập
thể. Còn trong đIều kiện kinh tế mới – như chính quyền Xô Viết , đã hình thành-
như Lênin nói , một kiểu xí nghiệp thứ 3 , tức là xí nghiệp hợp tác xã , trước đây
về nguyên tắc chưa thành một loại riêng biệt . Những xí nghiệp hợp tác xã này
được coi là một hình thức của CNTB nhà nước. Đặc trưng của xí nghiệp này là
sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu XHCN
chính cống. Dưới chế độ tư bản tư nhân những hợp tác xã là tổ chức tư bản tập
thể cho nên chúng khác với xí nghiệp tư bản chủ nghĩa , cũng như những xí
nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Còn một con đường khác mà Lênin
gọi là con đường của CNTB hợp tác xã. Vì quan niệm nếu có tự do bán lương

22
Đề án kinh tế chính trị
thực thì tất yếu CNTB sẽ phát triển, cho nên phảI hướng sự phát triển ấy vào con
đường phát triển của CNTB hợp tác xã. Hợp tác xã kết hợp xí nghiệp tư bản tư
nhân với xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống là bước chuyển từ một hình

thức đại sản xuất này sang một hình thức đại sản xuất khác , thì chế độ hợp tác
xã theo con dường theo con dường thứ hai là bước chuyển tù tiểu sản xuất sang
đại sản xuất trong một thời kỳ lịch sử “10 hay 20 năm” con đường theo chế độ
này về sau Lênin quan niệm là “hoàn toàn đồng nhất với CNXH”.
Như vậy , theo cách đặt vấn đề của Lênin , ở thời đIểm ấy đã có hai quan
niệm khác nhau về cùng một chế độ hợp tác xã . Một loại là một tổ chức quần
chúng chính thức tham gia vào một cách tự giác ; một tổ chức có thể kết hợp lợi
ích tư nhân , lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc nhà nước kiểm soát và kiểm
tra lợi ích đó , làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung. Chế độ hợp tác
xã kiểu này có ý nghĩa đặc biệt trước hết là về phương diện nguyên tắc , sau là
về phương diện bước quá độ sang một chế độ bằng con dường giản đơn nhất, dễ
tiếp thu nhấtđối với nông dân. Trong hoàn cảnh mới , chế độ này là hoàn toàn
đồng nhất với CNXH và nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp
tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên mảnh đất XHCN . Với chế độ
hợp tác xã này , “… khi các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội , khi giai cấp vô
sản , với tư cách là giai cấp đã thắng giai cấp vô sản – thì chế độ của những xã
viên hợp tác xã văn minh là chế độ XHCN”.
3. Hình thức liên doanh.
Đây là hình thức tư bản nhà nước mà hai bên cùng quản lý kinh
doanh , cùng hưởng lợi và cùng chia sẻ rủi ro. Trong đó vừa có các nhà tư bản tư
nhân Nga và tư bản nước ngoàI , vừa có những người cộng sản cùng tham gia
(T45-T97). Theo quan niệm này thì các công ti cổ phần mà nhà nước bán cổ
phiếu cho tư nhân hay nhà nước nhà nước mua cổ phiếu của công ti cổ phần do
nhà tư bản phát hành cũng là một hình thức của CNTB nhà nước.

23
Đề án kinh tế chính trị
4.Hình thức tư bản tư nhân thuê tàI sản của nhà nước.
Hình thức này giống hình thưc tô nhượng , nhưng đối tượng tô nhượng
không phảI là tư bản nước ngoàI mà là tư bản trong nước . Hình thức này được

coi là hình thức riêng biệt để phân biệt nó với hình thức tương tự nhưng đối
tượng thuê chỉ là tư bản trong nước.
Theo hình thức này nhà nước cho các nhà tư bản tư nhân thuê một xí
nghiệp ,hoặc một vùng mỏ , khu rừng…phương thức cho thuê là thông qua một
hợp đồng giữa nhà nước với nhà tư bản. Cũng giống như hợp đồng tô nhượng ,
ở đây nhà nước chỉ cho thuê quyền sử dụng tàI sản nhà nước trong những đIều
kiện và giới hạn nhất định và thời gian ngắn hơn so với tô nhượng.
5 Hình thức gia công đặt hàng , đại lý.
Theo hình thức này nhà nước lôI cuốn nhà tư bản với tư cách là một nhà
buôn , trả cho họ số tiền hoa hồng nhất định để họ bán sản phẩm của nhà nước
và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. Hoặc nhà nước đặt hàng cho tư nhân
hoặc lôI kéo họ làm một số dịch vụ khác cho nhà nước.
6 Sự đIều tiết của nhà nước đôI với tư bản tư nhân , sản xuất nhỏ cá thể
thông qua các đòn bẩy kinh tế:
Đây cũng được coi là một hình thức của CNTB nhà nước . Thông qua
hình thức này , nhà nước thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát các hoạt động của các
tổ chức kinh tế tư nhân về khối lượng và chủng loại sản phẩm được sản xuất , về
giá cả và chất lượng hàng hoá , thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường cung
ứng vốn, tư liệu sản xuất , lợi nhuận và đIều tiết lợi nhuận , quan hệ giữa tư bản
và lao động làm thêm.
4> Vai trò của CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH
4.1. CNTBNN tạo đIều kiện khai thác các nguồn lực trong nước.
Một là : Khai thác các nguồn tàI nguyên thiên nhiên.

24
Đề án kinh tế chính trị
Có những vùng đất đai , khoáng sản ,nhiên liệu… mà khả năng của nhà
nước cũng như các đơn vị kinh tế hiệp tác và cá thể không thể khai thác do thiếu
vốn , do trình độ quản lý công nghệ kém…Thông qua các hình thức của
CNTBNN , nhất là các hình thức tô nhượng và liên doanh với tư bản nước ngoàI

, những nguồn lực tiềm tàng đó sẽ biến thành sản phẩm hàng hoá đưa vào trong
lưu chuyển trên thị trường , góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Hai là: Sử dụng nguồn nhân lực dồi dào
Các hình thức CNTBNN không những góp phần tạo nhiều chỗ làm việc
mà còn đòi hỏi nâng cao trình độ lành nghề của người lao động và tăng thu nhập
cho người lao động, tạo ra tình hình về yêu cầu lao động lớn hơn cung rất
nhiều , đIều đó thúc đẩy việc đào tạo nghề , kích thích mọi người nhất là lớp trẻ
hăng háI học tập , nâng cao trình độ chuyên môn . Như vậy CNTBNN không
những góp phần giảI quyết tình trạng thất nghiệp mà còn góp phần tác động vào
việc cảI biến cơ cấu lao động.
Ba là: Huy động các nguồn vốn tồn đọng trong các tầng lớp nhân dân.
Việc nhất quán quan đIểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ,
khuyến khích các nhà đầu tư trong nước yên tâm bỏ vốn và huy động vốn trong
dân để kinh doanh . Các doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức công ti cổ phần ,
cũng như việc các công ti cổ phần hoà một số doanh nghiệp nhà nước thông qua
bán cổ phiếu cho tư nhân, mở ra một triển vọng rất lớn trong việc huy động
nguồn vốn nói trên.
4.2 CNTBNN tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH.
Việc sử dụng tốt các hình thức của CNTBNN sẽ thúc đẩy nhanh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng CNH-HĐH.

25

×