TIỂU LUẬN:
Báo cáo thực tập tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam
I/ Giới thiệu khái quát Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam :
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNoPTNT Việt Nam) được thành lập tháng 3/1988 khi bắt đầu chuyển đổi
hệ thống Ngân hàng từ một cấp sang hai cấp. Ngân hàng nông nghiệp được hình
thành từ một số cấp vụ, phòng và chi nhánh cơ sở phụ thuộc Ngân hàng Nhà
nước mang nặng tính chất cơ chế tập trung bao cấp. Thời gian đầu mới đi vào
hoạt động những khó khăn hạn chế của Ngân hàng nông nghiệp tưởng chừng như
không thể vượt qua.Tài sản có rất nhỏ chỉ khoảng 1.500 tỷ đồng, trong đó chủ
yếu là cho vay ngắn hạn, dư nợ trung hạn chỉ chiếm khoảng 5% tổng dư nợ. Hoạt
động thuần tuý tín dụng trong nước, 85% dư nợ thuộc doanh nghiệp Nhà nước và
gần 15% dư nợ thuộc kinh tế tập thể, hầu như chưa cho vay cá thể hộ nông dân,
chưa có hoạt động kinh doanh dịch vụ đa năng.Thực hiện cơ chế lãi suất âm, lãi
suất đầu vào lớn hơn lãi suất đầu ra, dẫn đến ngân hàng thua lỗ. Nguồn vốn nhỏ
bé trong đó trên 90% vay Ngân hàng Nhà nước, vốn huy động dưới 10%. Các
hình thức huy động vốn đơn điệu, trình độ cán bộ nhân viên hạn chế, hầu hết
chưa được đào tạo nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại. Trình độ công
nghệ lạc hậu, hệ thống kế toán, thông tin thủ công.
Đứng trước những khó khăn đó, NHNo&PTNT đã tập trung khắc phục
những yếu kém này, coi đây là điều kiện để tồn tại và phát triển. Những biện
pháp mạnh được áp dụng là: Tập trung chuyển mạnh sang cho vay trực tiếp hộ
nông dân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Tỷ trọng dư nợ hộ nông dân từ chỗ
hầu như không có, trước năm 91, nay đã tăng 30%- 55% vào những năm tiếp
theo, tới nay là trên 65%. Dư nợ doanh nghiệp Nhà nước từ 85% nay giảm dần
tới nay còn khoảng 28%. Doanh nghiệp tư nhân, cá thể trên 10% cùng với thay
đổi cơ cấu dư nợ, hoạt động tín dụng tăng trưởng mạnh, tới cuối năm 2000 tổng
dư nợ đạt gần 4000 tỷ tăng 21 lần so với năm 91; là Ngân hàng thương mại có
vốn điểu lệ lớn nhất Việt Nam với 1568 chi nhánh và 25 ngàn cán bộ – nhân viên
toàn hệ thống. Từ năm 1992 ngân hàng đã thực hiện cơ chế lãi suất dương, hạch
toán tiết kiệm chi phí nghiệp vụ, đưa thu nhập của nhân viên từng bước phụ
thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh. Từ năm 93 ngân hàng đã có lãi và lãi
tăng trưởng liên tục tới nay. Đẩy mạnh, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn;
từ nhiều năm nay vốn tự huy động đã chiếm trên 90% tổng nguồn vốn. Mở rộng
các nghiệp vụ kinh doanh đa năng. Từ đầu năm 1993, thực hiện thanh toán quốc
tế kinh doanh ngoại hối. Tới nay, NHNo&PTNT chiếm trên 10% doanh số thanh
toán quốc tế của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, có quan hệ với hơn 600 Ngân
hàng đại lý trên thế giới, đã và đang mở các hoạt động thuê mua tài chính kinh
doanh vàng bạc, chứng khoán, bảo hiểm nhân thọ, mua bán nợ. Ngân hàng đã sắp
xếp lại bộ máy, tuyển nhân viên có trình độ và giảm khoảng 1/3 biên chế. Tăng
cường đào tạo kể cả khảo sát tu nghiệp tại nước ngoài cho nhân viên. áp dụng và
trang bị công nghệ hiện đại, hệ thống vi tính nối mạng tới chi nhánh huyện, tham
gia hệ thống SWIFT- Society for Worldwide Inter-bank Financial
Telecommunication-(từ năm 1995) thực hiện thanh toán điện tử trong toàn hệ
thống, máy rút tiền tự động ATM…. Bên cạnh đó Ngân hàng nông nghiệp đã
tham gia tích cực các công tác xã hội như: phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh
hùng, xoá đói giảm nghèo, ủng hộ đồng bào lũ lụt, hỗ trợ tài năng trẻ; tài trợ giải
bóng bàn các đội mạnh toàn quốc ….
Theo tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc ký kết Hiệp định
Thương mại Việt- Mỹ, tham gia AFTA và chuẩn bị tham gia WTO, trong vòng
8-10 năm tới, các Ngân hàng nước ngoài được thực hiện đầy đủ nghiệp vụ như
Ngân hàng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là một cơ hội lớn và một thách
thức lớn đối với Ngân hàng nông nghiệp. Mặc dù đã đạt được những thành tựu
nói trên, song so với yêu cầu của tiến trình phát triển và hội nhập Ngân hàng
nông nghiệp đang còn nhiều những hạn chế đó là :
+ Vốn điều lệ còn hạn hẹp
+ Một số khoản dư nợ không sinh lời do thực hiện cho vay chính
sách, nợ khoanh được duyệt nhưng chưa cấp vốn, làm hạn chế khả năng kinh
doanh.
+ Chất lượng tài sản có chưa cao
+ Hệ thống kế toán đang áp dụng còn khác biệt so với hệ thống kế
toán Ngân hàng quốc tế – trong đó rõ nhất là cách thức tính toán trích lập quỹ rủi
ro – dẵn tới không đánh giá đầy đủ hoạt động kinh doanh cũng như không phù
hợp với thông lệ quốc tế; các công cụ điều hành như kế hoạch cân đối, quản lý
rủi ro… chưa phù hợp với Ngân hàng thương mại hiện đại; bộ máy tổ chức cán
bộ cồng kềnh, hành chính hạn chế khả năng kinh doanh. Trình độ cán bộ nhân
viên còn nhiều bất cập; mặc dù đã có những bước tiến lớn so với 10 năm trước
nhưng công nghệ thông tin Ngân hàng còn chưa đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng
thương mại hiện đại.
Quá trình phát triển và hội nhập đang đòi hỏi hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam phải có những bước cải cách căn bản và Ngân hàng nông
nghiệp cũng đã xây dựng kế hoạch cơ cấu lại nhằm tiếp tục đưa Ngân hàng
nông nghiệp vẫn là Ngân hàng thương mại hàng đầu vững mạnh trong cạnh
tranh ở Việt Nam cho giai đoạn 2001-2010 tới năm 2010 ngang tầm các Ngân
hàng thương mại tiên tiến trong khu vực và có uy tín cả trên thế giới.
Sau hơn 10 năm phát triển từ một Ngân hàng nhỏ bé yếu kém, Ngân
hàng nông nghiệp đã trở thành một trong những Ngân hàng thương mại lớn nhất
Việt Nam, được tạp chí ASIAWEEK xếp đứng thứ 355/500 Ngân hàng lớn nhất
Châu á và thứ 46/50 Ngân hàng lớn nhất Đông Nam á. Đây là một vị thế, nền
tảng vững chắc giúp cho Ngân hàng nông nghiệp ngày càng phát triển hơn.
II/ Sở giao dịch –đầu mối hoạt động của NHNo&PTNT
Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam gọi tắt là: Sở giao dịch
Tên giao dịch nước ngoài Banking Operation Center – Vietnam Bank
for Agriculture and Rural Development.
Trụ sở số 2 phố Láng Hạ - quận Ba Đình – thành phố Hà Nội.
Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam có hơn 90 đơn vị thành viên hoạt
động trải rộng khắp mọi miền đất nước, nhưng việc hạch toán kế toán được thực
hiện thống nhất toàn hệ thống. Sở giao dịch là đơn vị thành viên thực hiện chức
năng trực tiếp kinh doanh đa năng và chức năng sở đầu mối trong toàn hệ thống
NHNo&PTNT Việt nam.
Sở giao dịch NHNo PTNT Việt Nam có đặc thù là ngoài việc phải
đảm bảo hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng của một đơn vị thành viên còn
phải đảm nhận nhiệm vụ là sở đầu mối của toàn hệ thống theo uỷ quyền của
Tổng giám đốc NHNo PTNT Việt nam. Bởi vậy sự tăng trưởng và phát triển
của Sở giao dịch có liên quan mật thiết và ảnh hưởng đến hoạt động của toàn hệ
thống NHNo PTNT Việt nam. Theo uỷ quyền của Tổng giám đốc, Sở giao
dịch đầu mối phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Đầu mối thanh toán quốc tế; đầu
mối quản lý tài khoản nội tệ, ngoại tệ; đầu mối mua bán ngoại tệ và đầu mối hạch
toán các loại vốn quỹ của NHNo PTNT Việt Nam.
Thực hiện làm đầu mối thanh toán quốc tế, Sở đã duy trì tốt mối quan
hệ với các tổ chức trong và ngoài nước có liên quan đến mạng SWIFT, đảm bảo
hệ thống SWIFT của NHNo PTNT Việt nam hoạt động liên tục, thông suốt và
an toàn trong thanh toán quốc tế của toàn hệ thống. Đến nay Sở đã thiết lập được
681 Ngân hàng đại lý tại 74 nước trên thế giới, đáp ứng được yêu cầu thanh toán
xuất nhập khẩu và chi trả kiều hối cho khách hàng. Trong 6 tháng đầu năm 2001,
Sở đã thực hiện chuyển tiếp hơn 30.000 điện SWIFT, tăng 145,5 % so với cùng
kỳ năm 2000. Phát hành và thanh toán gần 2500 L/C, trị giá gần 3000 triệu$.
Chuyển tiền đi gần 5000 món, trị giá 400 triệu $, chuyển tiền đến hơn 2000 món,
trị giá 120 triệu $.Sở cũng đx tham gia đào tạo nghiệp vụ thanh toán quốc tế cho
cán bộ thừa hành trong hệ thống NHNo&PTNT luôn luôn đảm bảo mọi dự trữ
bắt buộc, an toàn thanh toán. Đồng thời, còn tận dụng vốn khả dụng đi kinh
doanh tiền gửi và đầu tư hối phiếu kho bạc…. Đảm bảo khả năng thanh toán của
toàn hệ thống. Đến 30/06/01, số dư tiền gửi kỳ hạn 155 triệu $ và 45 tỷ đồng, số
dư đầu tư tín phiếu kho bạc 353 triệu USD và số dư đầu tư trái phiếu chính phủ
hơn 40 tỷ đồng.
Như vậy Sở luôn đảm bảo hạch toán điểm hoà vốn nội ngoại tệ trong
toàn bộ hệ thống được kịp thời, chính xác và an toàn.
Được giao nhiệm vụ làm đầu mối mua bán ngoại tệ trên thị trường liên
Ngân hàng, mua bán ngoại tệ trên thị trường liên Ngân hàng, mua bán ngoại tệ
với Ngân hàng nông nghiệp, Sở đã tập hợp nhu cầu của các chi nhánh thành viên
Ngân hàng nông nghiệp và trình lên ngân hàng nhà nước để xin mua ngoại tệ.
Do đó cơ bản để đáp ứng được nhu cầu thanh toán của các chi nhánh cho một số
mặt hàng chiến lược như xăng dằu phân bón, thuốc trừ sâu và trả nợ cho các
khoản bảo lãnh vay mía đường đến hạn.
III/ Hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch
1Tình hình chung :
Năm 2000 Nhà nước ban hành chính sách quản lý xuất nhập khẩu mới
cho cả thời kỳ 2001-2005 thu hẹp phạm vi hàng hoá do nhà nước quản lý đồng
bộ với nhiều cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu. Điều này tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung
song cũng gây ra sức cạnh tranh lớn làm giảm ưu thế vốn có của những doanh
nghiệp trước đây có ưu thế độc quyền.
Trong quý II/2001 do sự biến động suy giảm về nhập khẩu của một số
nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản đã khiến xuất khẩu của những nước Châu á
trong đó có Việt Nam gặp nhiều khó khăn.Tính riêng 9 tháng đầu năm 2001 cán
cân thương mại nhập siêu khoảng 400 triệu USD.
Tỷ giá hối đoái biến động tăng, sự khan hiếm ngoại tệ gây khó khăn và
ảnh hưởng lớn đến hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng. Sở giao dịch
còn đang vấp phải sức cạnh tranh lớn từ phía các Ngân hàng thương mại trên địa
bàn cũng như các Ngân hàng nước ngoài có bề dày kinh nghiệm về thanh toán
quốc tế được hỗ trợ bởi khả năng cung ứng vốn và ngoại tệ dồi dào kỹ năng
Marketing hiện đại và năng động. Nguyên nhân trên đã ảnh hưởng lớn tới mảng
hoạt động kinh doanh đối ngoại nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng của Sở
giao dịch.
2 Công tác chuyên môn nghiệp vụ: Đơn vị: USD
Stt
Nội dung hoạt
động
Giá trị thực
hiện 9
tháng/2000
Giá trị thực
hiện 9
tháng/2001
T
ỷ lệ %
tăng
giảm so
với 9
tháng/20
00
T
ỷ lệ
%tăng
giảm tuyệt
đối so 9
tháng/2000
1
Thư tín d
ụng
hàng xuất
a/ Thông báo L/C
b/ Đòi tiền
395,581
547,567
455,650
700,063.78
15 2
-27.8
60,069
152,496.78
2
Thư tín d
ụng
hàng nhập
a/ Mở thư tín
dụng
b/ Thanh toán
L/C
64,219.,886
41,220,262
46,900,584.19
34,257,810.53
-26.96
-16.7
-
17,319,301.
81
-
6,962,451.4
7
3
Nh
ờ thu
a/ thông báo nhờ
thu
b/ Thanh toán
nhờ thu
1,843,516
1,878,213
1,737,146.40
1,236,940.18
-5.7
-34.14
-106,369.60
-641,272,82
4 Chuyển tiền đi 23,526,436
29,923,151.83
27.18
6,396,688.8
3
5
B
ảo lãnh KQ
100%
24,484,057
28,426,055
-41.65
-201,630.95
T
ổng
(1b + 2a + 3b +
4)
90,172,102
78,760,739.98
-12.65
-
11,411,362.
02
Nhìn chung hoạt động thanh toán quốc tế trong 9 tháng đầu năm 2001
giảm so với cùng kỳ năm 2000, tổng doanh số thanh toán đạt được 78,760,739.98
đô la Mỹ giảm 12, 65% so với 9 tháng đầu năm 2000, đặc biệt doanh số mở thư
tín dụng giảm 26, 96% so với cùng kỳ năm 2000 do giảm số lượng giao dịch của
một số công ty có giao dịch thanh toán thường xuyên tại Sở giao dịch trong năm
2000 như Prosimex, Hà Anh, Mecanimex, Machino 4, …… Các công ty TNHH
vẫn duy trì được quan hệ thanh toán thường xuyên nhưng gía trị giao dịch nhỏ.
Mặt khác trong quý 3 việc thực hiện quy định tại quyết định số 447/QD-NHNo –
QHQT thời gian đầu gây ra tâm lý e ngại cho khách hàng (yêu cầu khách hàng
ký sẵn giấy nhận nợ khi thực hiện mở L/C bằng vốn tự có ký quỹ dưới 100 giá trị
L/C). Mặt khác do giá ngoại tệ tăng nên khá ch hàng có xu hướng chuyển sang
thanh toán bằng hình thức chuyển tiền.
Doanh số hoạt động L/C xuất giảm so với cùng kỳ năm 2000 chỉ đạt
700,063.78 đô la Mỹ giảm 27,8%. Nguyên nhân chủ yếu do chỉ có một số khách
hàng trực tiếp giao dịch thanh toán tại Sở giao dịch là BAROTEX, Xí nghiệp
may xuất khẩu, Xí nghiệp đá Thái Hà, Prosimex, khách hàng của chi nhánh Phú
Thọ. Nhưng hiện tại còn có giao dịch chứng từ hàng xuất tại Sở giao dịch chỉ còn
BAROTEX và chi nhánh Phú Thọ nên lượng giao dịch cũng như giá trị giao dịch
không nhiều và không thường xuyên.
Doanh số chuyển tiền trong 9 tháng đầu năm đạt 29,923,151,83 đô la
Mỹ tăng 27,18% so với 9 tháng đầu năm 2000. Thực chất giá trị tăng chủ yếu do
giá trị thực hiện của từng giao dịch chuyển tiền tăng còn lượng giao dịch vẵn giữ
ổn định như cùng kỳ năm 2000.Tính đến 20/08/2001 tổng thu phí dịch vụ đạt
1,65 tỉ đồng, tiến hành trích ký quỹ 7,583 tỉ VND và 1,126000 đô la Mỹ.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại Sở giao dịch trong 9 tháng đầu năm
2001 tuy các chỉ tiêu kinh doanh đạt được chưa cao nhưng tương đối ổn định.Các
nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại như thanh toán quốc tế, tín dụng ngoại tệ, thanh
toán biên giới, hoạt động bảo lãnh …. đi vào nề nếp, thực hiện an toàn và hiệu
quả.
2.1Thanh toán quốc tế : Đến cuối tháng 9/2001 đã có hơn 70 chi
nhánh thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế tăng 8 chi nhánh so với năm
2000.Doanh số thanh toán quốc tế tính đến cuối tháng 9 là 1035 triệu USD đạt
53,8% so với năm 2000. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã thu hút được khách
hàng, đặc biệt là khách hàng xuất nhập khẩu lớn, có khả năng tài chính ổn định
liên quan đến những mặt hàng chủ lực như gạo cà phê, phân bón, xăng dầu.
2.2Thanh toán biên giới: Ngay 19/6/2000, Văn phòng Chính Phủ đã
có công văn số 2472/VPCP-KTTH và ngày 20/7/2000 Ngân hàng Nhà nước có
công văn số 944/CV-QLNH 1 cho phép chính thức triển khai hoạt động thanh
toán biên giới đã đạt kết quả tốt, tăng cường, năng cao uy tín với các doanh
nghiệp, có hàng trăm doanh nghiệp đã thông qua NHNo&PTNT Việt Nam thanh
toán với Trung Quốc tăng trưởng nhanh và đảm bảo an toàn, hiệu qủa. Đây là
một loại hình dịch vụ vừa đem lại lợi nhuận cho NHNo vừa đáp ứng nhu cầu
thanh toán của các doanh nghiệp và cá nhân trong giao dịch thương mại biên giới
giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Doanh số tính đến 30/9/2001 là 783 tỷ
đồng đạt 65%, chuyển tiền là 1,435 tỷ đồng, đạt 55%. Thu đổi qua biên giới là
780 tỷ đồng đạt 63%, thu phí nghiệp vụ là 2013 tỷ đồng đạt 64% so với năm
2000.
2.3Mua bán ngoại tệ: Trong 9 tháng đầu năm, doanh số mua vào đạt
435 triệu USD, doanh số bán ra đạt 567 triệu USD. Văn bản 901/Ngân hàng nông
nghiệp -03 của Tổng giám đốc về việc thực hiện thí điểm cho vay ưu đãi tài trợ
hàng xuất khẩu mua USD đối ứng bước đầu đã phát huy được tác dụng, làm tăng
khối lượng ngoại tệ mua cho hệ thống.
2.4Dịch vụ kiều hối: Từ khi triển khai Quyết định 170/1999/QD-TTg
ngày 19/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ khuyến khích người Việt Nam gưỉ tiền
về nước, nhiều chi nhánh đã triển khai loại dịch vụ trả tiền kiều hối và đạt kết quả
tốt. Doanh số thu kiều hối tính đến 30/9/2001 là 8,1 triệu USD tăng 2, 78%,
doanh số chi kiều hối đạt 4,6 triệu USD, giảm 0.97% so với cùng kỳ năm 2000.
2.5 Hoạt động bảo lãnh : Trong 9 tháng đầu năm 2001 Sở đã thực
hiện mở 12 khoản L/C trả chậm ngắn hạn. Doanh số bảo lãnh trong 9 tháng đầu
năm là 2536 745 USD, chủ yếu là bảo lãnh nhập khẩu phân bón, máy ủi phục vụ
trong xây dựng. Số dư bảo lãnh ngắn hạn là 3521 426 USD, bằng 67% so với
cùng kỳ năm 2000, số dư bảo lãnh dài hạn là 68500584USD , bằng 68% so với
cùng kỳ năm trước do các khoản bảo lãnh trung, dài hạn từ năm trước đến hạn trả
nợ đã được Sở giao dịch thanh toán cho nước ngoài.
III/ Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch
1 Kết quả hoạt động kinh doanh bảo lãnh :
NHNo&PTNT Việt Nam luôn được biết đến như Ngân hàng thương
mại Việt Nam uy tín nhất không chỉ trong nước mà cả trên thị trường quốc tế; là
Ngân hàng vai trò quan trọng trong quan hệ đối ngoại, giao dịch thanh toán quốc
tế. NHNo&PTNT là một trong những Ngân hàng đầu tiên trong hệ thống Ngân
hàng thương mại Việt Nam thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. Ngân hàng
đã sớm đưa nghiệp vụ bảo lãnh trở thành một loại hình dịch vụ quan trọng và đã
thu được những thành quả đáng kể. Bên cạnh việc mang lại lợi nhuận cho Ngân
hàng, nghiệp vụ bảo lãnh còn nâng cao uy tín và thúc đẩy các hoạt động kinh
doanh khác cho Ngân hàng nông nghiệp, mang lại những lợi ích to lớn hơn.
Sở giao dịch là đơn vị thành viên thực hiện chức năng trực tiếp kinh
doanh đa năng và chức năng Sở đầu mối trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt
Nam vì vậy hoạt động bảo lãnh đã sớm trở thành một nghiệp vụ kinh doanh được
Sở quan tâm và chú trọng.
Ngay sau ngày đất nước thống nhất, để giúp Việt Nam khắc phục được
hậu quả nặng nề của chiến tranh, một phong trào viện trợ và cho Việt Nam vay
vốn đã dấy lên ở khắp nơi trên thế giới. Chúng ta đã nhận được những khoản tín
dụng trị giá lớn với lãi suất ưu đãi, thời gian hoàn vốn dài và các hình thức cấp
tín dụng phong phú, đa dạng. Ngoài ra các thương nhân, các doanh nghiệp lớn ở
nước ngoài cũng đã cấp cho các tổ chức kinh tế ở Việt Nam những khoản vay
thương mại trung và dài hạn. Đặc biệt là trong những năm gần đây NHNo
PTNT Việt Nam đã luôn nhận được những dự án tài trợ lớn như : Dự án Tài
chính Nông thôn II –WB ( tổng số vốn 85 triệu USD), Dự án phát triển cây chè
và cây ăn quả ADB có tổng số vốn là 40,2 triệu USD, Dự án Chương trình Tín
dụng Nông nghiệp AFD II 30 triệu EUR, Dự án Hỗ trợ ngành Nông nghiệp Việt
Nam 30 triệu DKK tương đương 4,5 triệu USD do chính phủ Đan Mạch tài
trợ…Tất cả chương trình trên đều hướng vào mục tiêu mở rộng tín dụng phát
triển nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu vật nuôi tạo công ăn việc làm,
cải thiện đời sống các hộ gia đình tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Từ khi trở thành một Ngân hàng thương mại hoạt động độc lập, nghiệp vụ
bảo lãnh đã có nhiều thay đổi và không còn tình trạng bảo lãnh ồ ạt, thụ động
theo chỉ thị khả thi của từng dự án, đảm bảo thực hiện đầy đủ quy định về bảo
lãnh Ngân hàng, kiên quyết từ chối các dự án không có hiệu quả và không có khả
năng trả nợ.Tất cả những điều đó làm tăng uy tín NHNoPTNT và niềm tin của
khách hàng đối với Sở thể hiện ở nhu cầu bảo lãnh ngày càng tăng cả về số món
bảo lãnh lẵn giá trị mỗi món bảo lãnh.
Tổng doanh số bảo lãnh của Sở giao dịch:
Doanh số bảo lãnh của sở giao dịch 1998-2001
Đơn vị triệu USD
Năm
Khoản mục
1998 1999 2000 2001
Dư bảo lãnh
đầu năm
54364 40651 41646 40390
Dư bảo lãnh
cuối năm
40651 41646 40390 46873
Tăng so với
năm trước
13717 995 1256 6483
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh)
Từ bảng trên ta thấy doanh số bảo lãnh tại Sở giao dịch trong những
năm qua có chiều hướng tăng giảm không ổn định. Trong năm 98-99 doanh số
bảo lãnh tăng nhanh chóng từ (13717) triệu USD lên (995) triệu USD nhưng
mức thấp nhất đạt trên 29.000 triệu USD, vì năm 98 chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính Châu á cộng với chủ trương của ban lãnh đạo Ngân hàng nông
nghiệp. Đến năm 1999 doanh số bảo lãnh tăng nhanh chóng lên 41.646 triệu
USD so với cuối năm 2000 do vẫn còn các món bảo lãnh mía đường đã quá hạn
thanh toán của các chi nhánh: Linh Cảm (đến hạn 28/12/2000)và Kontum (đến
hạn 30/12/2000).Sang năm 2001 số lượng bảo lãnh có tăng lên cả về mặt chất
lượng do những chính sách khuyến khích xuất khẩu hợp lý của Nhà nước cũng
như đường lối chỉ đạo đúng đắn của ban Giám đốc Sở, tuy nhiên hoạt động kinh
doanh của Sở cũng bị ảnh hưởng sau sự kiện khủng bố vào WTC –New York –
Mỹ (11/9),và sự trì trệ của những nền kinh tế lớn như Nhật Bản các nước thuộc
liên minh Châu Âu nên đã giảm sút vào những tháng cuối năm.
Nếu không kể đến rủi ro phải thanh toán thay cho khách hàng thì với
mức phí bảo lãnh bình quân 1%/năm so với tổng dư nợ bảo lãnh, dịch vụ này đã
đem lại cho Ngân hàng nông nghiệp khoảng trên dưới 1 triệu USD mỗi năm, góp
phần làm tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ của Sở trong tổng các
nguồn thu của Sở. Điều này phù hợp với xu thế kinh doanh của Ngân hàng hiện
đại.
2.Nguyên nhân và giải pháp
Trong thời gian qua, sở dĩ Sở đạt được những kết qủa đáng khích lệ
này là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
2.1Nguyên nhân khách quan:
Một là: Sự chuyển đổi nền kinh tế theo định hướng của Đảng và Nhà
nước từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường làm cho việc cung cấp và
tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ đều tuân theo tín hiệu của thị trường, tự do hoá thương
mại trong nước, bãi bỏ hầu hết các hạn chế về nhập khẩu phi mậu dịch, mở rộng
kinh doanh vàng bạc và nới lỏng việc chuyển đôỉ đồng tiền Việt Nam đối với
ngoại tệ. Với việc áp dụng lãi suất thực và huy động tiền mặt từ thị trường vào
tiết kiệm đã chấm dứt tình trạng phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Do vậy
mà lạm phát được kiềm chế, ổn định về tiền tệ, phát triển kinh tế xã hội làm môi
trường thuận lợi cho thương mại và tín dụng ngày càng được mở rộng, thúc đẩy
nhu cầu bảo lãnh phát triển.
Hai là: Pháp lệnh Ngân hàng ra đời đã phân định rõ ràng chức năng
của ngân hàng nhà nước, các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng. Nhờ
vậy mà các Ngân hàng thương mại có thể chủ động trong việc mở rộng tín dụng,
đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Thêm vào đó là sự ổn định của tỷ giá hối
đoái thúc đẩy việc sản xuất hàng xuất khẩu. Đó là một đóng góp to lớn đẩy mạnh
hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng.
Ba là: Việc mở rộng và đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại đã
đem lại những thành quả quan trọng, mở rộng quan hệ tài chính với các tổ chức
Tài chính tín dụng quốc tế, Ngân hàng thế giới(WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) đã đem lại cho nền kinh tế nguồn vốn đáng kể trong đầu tư phát triển.
2.2Nguyên nhân chủ quan:
Ngoài những thuận lợi do khách quan mang lại thì thành quả của
nghiệp vụ bảo lãnh tại Sở trong những năm qua còn có sự đóng góp rất lớn của
tập thể cán bộ, nhân viên Ngân hàng. Cụ thể :
Thứ nhất: Sự đổi mới toàn diện và đồng bộ của ban lãnh đạo Ngân
hàng, định hướng và đưa ra những biện pháp chỉ đạo đúng đắn, vận dụng sáng
tạo theo hoàn cảnh kinh doanh cụ thể đưa cả Sở đi lên. Với việc không ngừng cải
tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị máy móc hiện đại đã đáp ứng được nhu cầu
ngày càng tăng của khách hàng. Sở luôn coi trọng công tác tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Ngân hàng nhất là việc tuyển chọn những cán bộ
giỏi về chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cho công tác bảo lãnh và tái bảo
lãnh.
Thứ hai: Sở đã thực hiện phân chia quản lý khách hàng theo từng tổ,
mỗi cán bộ tín dụng tập trung quản lý 5,6 doanh nghiệp lớn. Do đó có khả năng
đi sâu, đi sát vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Trên cơ sở đó, Ngân hàng có thể đưa ra quyết định đúng đắn trong khâu thẩm
định dự án, kết hợp với việc kiểm soát chặt chẽ công tác bảo lãnh, phát hiện kịp
thời những khiếm khuyết để hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra.
Thứ ba: Sở đã phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng bạn trong và
ngoài nước phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, với khách hàng, làm
thông suốt hoạt động bảo lãnh cũng như các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
2.3 Một số giải pháp:
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, trong thời gian qua, nghiệp vụ
Bảo lãnh của Sở vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu bảo lãnh ngày càng tăng của
nền kinh tế. Trong khi nhu cầu bảo lãnh của nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng thì
doanh thu về nghiệp vụ bảo lãnh tại Sở lại không ổn định. Sau khủng hoảng tài
chính và một vài vụ đổ bể lớn từ hoạt động Bảo lãnh, Ngân hàng nông nghiệp
nói riêng và các Ngân hàng thương mại khác nói chung đang có xu hướng hạn
chế bớt hoạt động này. Em xin đưa ra một số giải pháp
2.3.1 Cần thực hiện phân tán rủi ro trong hoạt động bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh của NH là một loại hình hoạt động có độ rủi ro cao.
Khi người được bảo lãnh không có khả năng hoặc cố tình không thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ của mình đối với người nhận bảo lãnh thì NH phải đứng ra trả thay.
Các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường luôn phải đối mặt với nhiều loại rủi
ro khác nhau như rủi ro lãi suất, rủi ro về tỷ giá, rủi ro do kém thích nghi cạnh
tranh, rủi ro chính trị , các trường hợp bất khả kháng…. Có những trường hợp rủi
ro vượt ra ngoài tầm kiểm soát của con người và không thể tránh khỏi. Các
doanh nghiệp đã tìm đến hoạt động bảo lãnh của NH sẽ phải chịu rủi ro đó. Cũng
như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, NH cũng phải hoạt động an toàn và có lãi
để tồn tại và phát triển, vì vậy cần phải tìm ra các biện pháp để giảm bớt tối đa
các rủi ro do hoạt động bảo lãnh gây ra. Có một số giải pháp để đạt tới mục đích
này:
NHNo PTNT – Sở giao dịch cần phải đa dạng hoá các hoạt động bảo
lãnh nhằm phân tán rủi ro. Hiện nay, NH chủ yếu vẫn tập trung vào bảo lãnh mở
L/C trả chậm và vay vốn nước ngoài trong khi đây là loại hình bảo lãnh có độ rủi
ro cao nhất. Cần phải tăng cường mở rộng hoạt động bảo lãnh trong nước, khai
thác tối đa tiềm năng này.
NHNo PTNT có thể thực hiện các nghiệp vụ của thị trường mở để
chuyển bớt rủi ro cho một đối tác thứ ba. Chẳng hạn việc bán đi một quyền trả
nợ, có nghĩa là NH sẽ bán quyền bảo lãnh cho một NH thứ ba với mức phí thấp
hơn. Nghiệp vụ này hoàn toàn khác nghiệp vụ tái BL của NH vì nghiệp vụ tái
bảo lãnh xảy ra khi đối tác không tin vào khả năng tài chính của NHNoPTNT
nên yêu cầu một NH khác tái BL. Còn với nghiệp vụ bán quyền trả nợ này,
NHNo hoàn toàn nắm quyền chủ động, chỉ đơn giản là để giảm bớt rủi ro. NHNo
cũng có thể tham gia vào thị trường kỳ hạn, mua một hợp đồng quyền chọn mua,
chọn bán khoản bảo lãnh, thực hiện nghiệp vụ SWAP…
2.3.2 Xây dựng chính sách phí bảo lãnh linh hoạt, phù hợp với từng đối
tượng khách hàng.
Phí bảo lãnh là giá cả dịch vụ BL mà khách hàng phải trả cho NH. Theo
qui định của NHNNVN , các Ngân hàng thương mại được phép thu phí BL
không vượt quá 2%/năm tính trên số tiền bảo lãnh và không dưới 300000 đồng.
Qui định chung này chưa thể hiện được chính sách ưu đãi, linh hoạt của NH đối
với khách hàng và cũng chưa chỉ ra được sự khác biệt về mức độ rủi ro của từng
khoản bảo lãnh. NHNo PTNT nên chia khách hàng ra từng nhóm để áp dụng
mức lệ phí khác nhau:
Những khách hàng lớn, có uy tín cao với NH, khách hàng là bạn hàng
lâu dài, số tiền bảo lãnh lớn và độ rủi ro thấp thì NH nên thu phí thấp nhất.
Những khách hàng có vốn tự có trung bình, chưa có quan hệ lâu dài với
NH và chỉ đạt mức độ tin cậy nhất định với NH thì nên thu phí cao hơn.
Những khách hàng lần đầu tiên quan hệ với NH, những khách hàng nhỏ
có độ tin cậy không cao thì NH áp dụng mức phí cao nhất theo qui định của Ngân
hàng nhà nước .
Sự phát triển của tín dụng và thương mại, đặc biệt là sự phát triển của tín
dụng quốc tế và ngoại thương, trong điều kiện nước ta hiện nay đã làm cho nhu
cầu bảo lãnh ngày càng tăng. Với lợi thế là NH giữ vai trò chủ đạo trong kinh
doanh thanh toán quốc tế, NHNo luôn đi đầu về thực hiện nghiệp vụ BL với uy
tín khắp cả nước cũng như trong khu vực. Cùng với đội ngũ cán bộ tín dụng giàu
khả năng và kinh nghiệm, NHNo có thể giảm mức phí BL xuống để gia tăng nhu
cầu BL, tạo thêm nhiều cơ hội trong việc lựa chọn các dự án BL khả thi tốt nhất.
Mặc dù khi giảm phí bảo lãnh, lợi nhuận tính theo tỷ lệ phí thu của mỗi khoản
BL sẽ giảm, nhưng do số lượng xin BL lớn nên có thể lựa chọn được các dự án
BL an toàn hơn. Giảm lợi nhuận xuống một phần nhỏ để thu được mức an toàn
cao cũng là một sự đánh đổi hợp lý. Hơn thế nữa, khi giảm phí BL, doanh số BL
có thể tăng cao nên tổng lợi nhuận không giảm hoặc giảm không đáng kể và sẽ
tăng lên trong tương lai. Bên cạnh đó, NH sẽ tăng lợi nhuận thu được từ các dịch
vụ liên quan đến quá trình BL như dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thanh toán, kinh
doanh ngoại tệ…. Hoạt động BL phát triển làm tăng uy tín của NH, giúp tìm
kiếm thêm các khách hàng mới và tăng lợi nhuận trong các hoạt động khác nhờ
mối liên hệ này.
2.3.3 NHNo cần tham gia vào việc xác định thời hạn BL
trước khi nhận BL
Theo qui định chung, thời hạn BL căn cứ vào thời hạn thực hiện
nghĩa vụ được BL của khách hàng đối với bên nhận BL. Trong hoạt động BL,
NH không được quyền chọn thời hạn BL mà phụ thuộc vào hợp đồng cơ sở giữa
bên xin BL và bên thụ hưởng. Đặc biệt trong một số loại hình BL như BL vay
vốn, BL mở L/C nhập hàng trả chậm… thời hạn BL rất quan trọng. Trong nhiều
trường hợp, thời hạn BL rất quan trọng. Trong nhiều trường hợp, thời hạn BL
không khớp với thời gian của một hay một số vòng luân chuyển vốn của đơn vị
vay. Điều đó dẫn đến tình trạng khi đến hạn trả nợ vốn vay, đơn vị được BL vẫn
chưa kết thúc vòng luân chuyển vốn nên chưa trả nợ được và NH phải trả nợ thay
và phải cho vay bắt buộc đối với khách hàng.Vì vậy, NH phải tiến hành đàm
phán với bên cho vay để xác định được một khoảng thời gian BL hợp lý, phù hợp
với tình hình luân chuyển vốn của khách hàng, đảm bảo khả năng trả nợ của
khách hàng nhận bảo lãnh khi đến hạn.
2.3.4 Về mức bảo lãnh
BLNH là hoạt động hạch toán ngoại bảng không sử dụng đến vốn của NH
nhưng nó lại liên quan chặt chẽ đến hoạt động nội bảng của NH. Trong trường
hợp khoản BL thành công tức là bên xin BL thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình
thì NH chỉ đóng vai trò là người thanh toán hộ. Nhưng nếu người xin BL không
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình với đối tác thì NH phải đứng ra thanh toán.
Khi đó, tài khoản cho vay bắt buộc của NH đối với khách hàng tăng lên, NH phải
chuyển cơ cấu tài sản hấp dẫn sinh lời sang để bù đắp, đảm bảo tính thanh khoản
của NH. Vì vậy, để chấp nhận một khoản BL, NH phải có chủ trương tăng huy
động hoặc giảm cho vay, đầu tư hoặc dự tính khả năng có thể chuyển đổi từ tài
sản hấp dẫn khi rủi ro xảy ra. NH không được phép duy trì tình trạng có khoản
BL đã quá hạn mà vẫn chưa thanh toán cho người thụ hưởng BL như đã xảy ra
trong thời gian qua.
Hiện nay ở NHNo, hạn mức BL hoàn toàn do các chi nhánh tính toán dựa
trên tình hình hoạt động BL năm trước và tỷ lệ tăng trưởng dự tính của nền kinh
tế, sau đó đưa lên NHTƯ xét duyệt. Cách làm này hoàn toàn chưa mang tính
khoa học mà mang tính chủ quan của các cán bộ nghiệp vụ nên rất dễ có sai sót,
đồng thời cũng dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc của Ngân hàng nhà nước. Vì
vậy, việc xác định hạn mức BL là vô cùng quan trọng. Một mặt, cần phải dựa
trên những cơ sở thống nhất và rõ ràng, mặt khác, phải linh hoạt trong một số
trường hợp để đạt hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó NHNo cần điều chỉnh lại việc ký quỹ của khách hàng. Với
các loại bảo lãnh dự thầu, BL thực hiện hợp đồng, BL bảo đảm chất lượng sản
phẩm, BL hoàn thanh toán NH đều yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% lãi suất tiền
gửi không kỳ hạn. NHNo nên giảm mức ký quỹ xuống trong một số trường hợp
chỉ nên yêu cầu thế chấp mà không cần ký quỹ và phải trả lãi suất hợp lý theo
từng thời hạn với số tiền ký quỹ của khách hàng.
Kết Luận :
Sở kinh doanh hối đoái – NHNo&PTNT Việt nam tuy mới thành lập
nhưng đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp : tạo được nhiều nguồn ngoại tệ dồi dào
để cho vay, doanh số cho vay đạt khá, hoạt động thanh toán quốc tế phong phú
có nhiều chất lượng cao, lợi nhuận đem lại đáng kể thực hiện nhiều hình thức cho
vay đa dạng trên cơ sở L/C, hình thức bảo lãnh kết hợp với đầu tư phát triển sản
xuất hàng hoá xuất khẩu. Bảo lãnh Ngân hàng nhằm đảm bảo quyền lợi của các
bên tham gia vào hoạt động kinh tế, là một biện pháp chống rủi ro được sử dụng
rộng rãi trong quan hệ kinh tế đối nội và đối ngoại.
Tài liệu tham khảo
1 Các văn bản pháp qui về nghiệp vụ BL của NHNN và NHNo &PTNT
Việt Nam.
2Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
1998 - Định xuân trình
3 Các văn bản pháp qui về bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài
của NHNNvà NHNo&PTNT Việt Nam.
4 Tín dụng tài trợ xuất, nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại
tệ, Nhà xuất bản Thống kê- GS.TS .Lê văn tư.
5 Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2000-2001 của Sở kinh
doanh- NHNo&PTNT Việt Nam.
6 Bảo lãnh Ngân hàng và tín dụng dự phòng, Nhà xuất bản Thống kê
1997- LÊ NGUYÊN
7 Tài liệu hội nghị tập huấn nghiệp vụ Bảo lãnh Ngân hàng, Tháng
10/2000, Vụ tín dụng, NHNN Việt Nam.
8 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ năm 2000-2001
9 Thời báo Ngân hàng năm 2000-2001
10 Tạp chí Ngân hàng 2000-2001