Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

SKKN một số biện pháp rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 36 tháng tuổi ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.93 KB, 16 trang )

SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỸ THUẬT
“Một số biện pháp rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 -36 tháng tuổi
ở trường mầm non”
1. Phần mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là
thực hiện nhiệm vụ ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến sáu
tuổi. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm,
ngơn ngữ, tư duy, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên nhân cách của trẻ.
Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm
chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi. Khơi
dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các
cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người làm nhiệm vụ
giáo dục cần chú trọng ngay từ những năm tháng đầu đời của mỗi đứa trẻ. Trong đó
việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ là một phần quan trọng khơng thể thiếu được bởi
giáo dục nề nếp có ảnh hưởng đến sự phát triển tồn diện của trẻ. Thơng qua việc
làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt về nề nếp, trong sinh hoạt, đồng
thời giúp trẻ phát triển, củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì,
kỷ luật, nhằm góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ.
Giáo dục nề nếp thói quen cho trẻ ngay từ khi cịn bé khơng những tạo ra cho
trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện
quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động, sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kĩ
năng sống sau này.
Trẻ ở độ tuổi này đang trong thời kỳ phát triển. Chính vì vậy, tơi nhận thấy
rằng: Việc rèn nề nếp, thói quen để trẻ tham gia tích cực mọi hoạt động trong ngày
có hiệu quả là một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu ở trường mầm non. Vì trẻ độ tuổi
này chưa tách rời bố mẹ, gia đình, những người thân của bé nên khi mới đến
trường, nhập lớp trẻ thường biểu hiện thái độ sợ hãi, mọi thứ quanh bé đều lạ lẫm,
tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí cịn la khóc, khơng
ăn, khơng ngủ hoặc khơng tham gia vào mọi hoạt động trong nhóm, có thể trẻ
dường như khơng hồ nhập vào tập thể. Vậy! Làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ


vào nề nếp, thói quen ngay từ những ngày đầu? Những ngày mà trẻ khơng muốn
rời xa vịng tay u thương của bố mẹ đến với cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ,
đây không phải là vấn đề trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả các đồng nghiệp nói
1


chung. Là một người giáo viên mầm non trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ 24-36
tháng, tơi ln trăn trở, suy nghĩ để tìm ra biện pháp phù hợp để giúp trẻ có nề nếp
thói quen trong sinh hoạt hàng ngày. Với những thực tế trẻ ở độ tuổi lớp tôi phụ
trách tôi đã nghiên cứu và quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn nề nếp
thói quen cho trẻ 24 -36 tháng tuổi ở trườngmầm non” làm sáng kiến kinh nghiệm
trong năm học này.
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh
vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tơi là một giáo viên
mầm non đang dạy nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế
mạnh của trẻ trong phạm vi trường mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng
cho trẻ 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non.
Với đề tài này tôi biết đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều
bạn đồng nghiệp trong ngành. Đề tài tôi đang viết có những điểm mới sau: Tơi dành
sự quan tâm và hình thành ở trẻ những nề nếp thói quen trong các hoạt động hàng
ngày và phù hợp lứa tuổi của trẻ. Giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại.
Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể
chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết tự
phục phụ bản thân trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống.
2. Phần nội dung
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Lứa tuổi trẻ 24-36 tháng nhiều trẻ chưa có nề nếp thói quen trong các hoạt
động hàng ngày, trẻ được nng chiều một cách thái quá dẫn đến không biết đi vệ
sinh đún nơi quy định, không tự xuc cơm ăn, khơng biết tự đi giày, dép, khơng thích

tự đi mà thích được người lớn bế ẵm, xả rác bừa bãi…. Có rất nhiều ngun
nhân dẫn đến tình trạng này trong đó nề nếp là một nguyên nhân trọng tâm nhất.
Trong quá trình giáo dục hình thành và rèn nề nếp thói quen cho trẻ, những
khó khăn mà giáo viên và phụ huynh gặp phải khá nhiều. Nếu như giáo viên và phụ
huynh có những biện pháp giáo dục, tạo điều kiện cho trẻ có nề nếp thói quen thì
chắc chắn rằng mức độ phát triển của trẻ sẽ không chỉ dừng lại ở mức độ trung bình
là chiếm đa số như trẻ vốn hay thể hiện. Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì
vấn đề rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ Mầm non phải được chú trọng thường
xuyên, liên tục và khơng ngừng được đổi mới. Vì vậy, đội ngũ giáo viên phải
thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ Chun mơn nghiệp vụ, thường xun
được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời
2


để thực hiện việc chăm sóc- giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn luyện nề nếp, thói quen cho
trẻ đạt kết quả cao.
Nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện thì sẽ khơng
đưa lại hiệu quả cao như mong đợi, tính chủ động tích cực sẽ không phát huy được
khả năng sáng tạo của trẻ, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ sẽ thấp, nó sẽ phát triển
một cách thụ động. Vì vậy, chỉ có Đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ thì mới tạo ra
được mơi trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt nhất cho trẻ phát huy khả
năng chủ động, sáng tạo một cách triệt để. Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói
riêng, đặc biệt là trẻ 24 - 36 tháng tuổi, nếu cô tạo điều kiện cho trẻ được trãi
nghiệm dưới nhiều hình thức, thơng qua mọi hoạt động hàng ngày ở mọi lúc, mọi
nơi...thì việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ sẽ được thuần thục hơn, kết quả sẽ
đạt cao hơn.
Trăn trở với những thực trạng trên của cháu lớp tôi, là giáo viên trực tiếp
đứng lớp, tôi luôn suy nghĩ, bằng phương pháp gì để giúp các cháu có nề nếp thói
quen trong cuộc sống hằng ngày của trẻ. Khi bước vào thực hiện đề tài này, bản thân
thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:

a. Thuận lợi:
Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo sâu sát, tích cực bồi
dưỡng chun mơn, nghiệp vụ, giúp đỡ, động viên tinh thần, tạo điều kiện mua sắm
cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc dạy và học. Nhằm đáp ứng nhu
cầu tổ chức các hoạt động giáo dục thói quen hành vi văn minh cho trẻ.
Đa số trẻ tích cực hứng thú tham gia vào các hoạt động chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục.
Bản thân tôi được sống trong tập thể đội ngũ đoàn kết, yêu thương, quan tâm
giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong công việc, cùng nhau học hỏi, trao đổi
kinh nghiệm. Từ đó tơi học được những điều hay lẽ phải, những kinh nghiệm quý
báu. Bản thân tơi u nghề, mến trẻ, ham tìm tịi, học hỏi, thích khám phá những cái
mới lạ. Với vai trị là người mẹ hiền thứ hai của trẻ tơi ln có tấm lịng bao dung,
độ lượng, tơi thường xun nghiên cứu các tài liệu, sáng tạo nhiều cái mới trong
công tác giảng dạy, có ý thức vươn lên, cố gắng rèn luyện bản thân trong mọi lĩnh
vực, ln có ý thức cố gắng rèn luyện về chuẩn mực đạo đức, nhân cách, hành vi để
làm gương cho trẻ noi theo.
Đa số phụ huynh quan tâm đến con em mình, thường xuyên đưa đón trẻ đi
học chun cần và trao đổi tình hình sức khỏe, học tập, vui chơi của trẻ khi ở nhà
cũng như ở trường với giáo viên phụ trách lớp.
3


Trẻ được tham gia nhiều các hoạt động trong chương trình, vì vậy trẻ đã có
một số nề nếp, kiến thức, kỹ năng nhất định, các con rất chăm ngoan thông minh,
nhanh nhẹn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giúp trẻ tiếp nhận nội dung giáo dục
tính tự lập cho trẻ.
Môi trường lớp của các bé rất khang trang, sạch sẽ, thoáng mát, cơ sở vật chất
đầy đủ, tạo cho trẻ ln có cảm giác hứng thú đi học. Trẻ đi học chun cần cao
ln đảm bảo q trình dạy và học của cơ và trị khơng bị gián đoạn.
b. Khó khăn:

Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi ở giai đoạn phát triển lời nói đang phát triển
do đó khả năng giao tiếp về ngơn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Trẻ đang sống
trong mơi trường gia đình, được ơng bà , bố mẹ u thương chăm sóc. Khi đến
trường là nơi hồn tồn mới mẻ xa lạ với trẻ, do đó trẻ chưa quen với nề nếp, thói
quen của lớp, tính dụt dè, nhút nhát, cá tính...cong nhiều ở trẻ
Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều cho là lứa tuổi bé việc rèn nề
nếp cho trẻ chưa quan trọng
Xuất phát từ những khó khăn và thuận lợi trên nên tôi đã nghiên cứu và thấy
mình phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề rèn nề nếp thói quen cho trẻ để trẻ ln chủ
động, linh hoạt, tự tin trong cuộc sống.
Để thấy rõ được thực trạng hiện nay, tôi đã khảo sát ngay từ đầu năm học tại
lớp của mình, để từ đó có các biện pháp phù hợp rèn luyện cho trẻ.
* Khảo sát thực tiễn:
TT
1
2
3
4
5
6
7
Qua khảo sát tôi thấy trẻ lớp tơi đa

Nội dung khảo sát
Thói quen nề nếp đi học đều
Thói quen nề nếp chào hỏi
Thói quen cất đồ dùng đồ chơi
Thói quen nề nếp vệ sinh)
Thói quen nề nếp học tập
Thói quen nề nếp giờ ăn

Thói quen nề nếp giờ ngủ
số cịn chưa nề nếp thói quen bản thân,

chưa có thói quen trong các hoạt động hàng ngày. Trẻ lớp tơi cịn ln ỉ lại, dựa dẫm
vào cơ giáo trong lớp, nếu khơng có cơ giúp hoặc nhắc nhở thì trẻ khơng biết phải
làm gì. Từ những thuận lợi, khó khăn và kết quả khảo sát trên, tơi nhận thấy muốn
giáo dục trẻ có nề nếp đạt hiệu quả cao, trước hết bản thân tơi cần phải tích
4


cực nghiên cứu, tìm tịi để tìm ra các biện pháp thực hiện hữu hiệu để giúp các cháu
của lớp tơi có được nề nếp thói quen trong cuộc sống hàng ngày.
2.2. Các biện pháp:
2.2.1. Rèn nền nếp thói quen cho trẻ thơng qua hoạt động đón trả trẻ:
Trẻ ở độ tuổi 24-36 tháng, trẻ bắt đầu được đến lớp trẻ chưa quen vơí thói
quen sinh hoạt ở trường mầm non.
Qua giờ đón trả trẻ tơi thường dạy trẻ một số thói quen như: Chào cơ khi đến
lớp, chào cơ khi ra về. Trẻ tự cất dép đúng nơi quy định, trẻ cất ba lô đúng nơi quy
định, trẻ uống nước song biết cất cốc đúng nơi quy định,... đồng thời giáo có thể rèn
luyện cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan, Lời chào
buổi sáng, Mẹ yêu không nào. Cháu chào ông ạ! Những hoạt động đó giáo viên tập
đi tập lại cho trẻ sẻ trở thành thói quen tốt.
Để rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ cần có sự luyện tập lặp đi lặp lại. Đối
vơí một việc ngày đầu trẻ chưa biết nhưng nếu được sự hướng của cô và được thực
hiện lặp đi lặp lại nhiều lần trong ngày sẻ hình thành cho trẻ một thói quen và kỹ
năng thực hiện thao tác đó cũng dần được nâng lên.
2.2.2. Rèn nền nếp cho trẻ thông qua hoạt động học,vui chơi:
Việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ phải thực hiện song song cùng lúc vơí
các hoạt động giáo dục khác như: Giáo dục phát triển ngôn ngữ; Giáo dục phát triển
nhận thức; Giáo dục phát triển thể chất; Giáo dục phát triển thẫm mĩ. Đặc biệt là

giáo dục phát triển ngôn ngữ, khi trẻ phát triển ngôn ngữ, trẻ có khả năng nghe, hiểu
và diễn đạt mong muốn vơí cơ giáo sẻ giúp cho việc giáo dục nề nếp thói quen cho
trẻ dễ dàng hơn.
Ví dụ: Thơng qua câu chuyện “Cháu chào ông ạ” tôi dạy trẻ thói quen chào
hỏi ngươì lớn lễ phép hay thơng qua bài thơ bạn mơí tơi hướng dẫn trẻ kỹ năng chơi
vơí bạn đồn kết, u thương...
Hoặc thơng qua hoạt đơng nhận biết tập nói (trị chuyện về các loại trang
phục của trẻ) tơi đã rèn luyện cho trẻ thói quen ăn mặc gọn gàng, sạch sẻ phù hợp
theo mùa.
Thông qua hoạt động học rèn cho trẻ thói quen ngồi học ngay ngắn, tích cực
trả lơì các câu hỏi của cơ, cho trẻ lên đọc thơ, hát cho cả lớp cùng nghe qua đó rèn
luyện cho trẻ thói quen mạnh dạn tự tin trong học tập...
Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học mà chơi, chơi mà học, trong giờ vui chơi trẻ
được thực hành trải nghiệm nhiều vai chơi khác nhau phản ánh sinh hoạt cuộc sống của
người lớn. Tôi tiến hành rèn nề nếp cho trẻ vào vui chơi, qua đó trẻ được đối thoại
5


những câu chào hỏi lễ phép, câu cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng hai tay. Tôi theo dõi
quan sát lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Bên cạnh
đó tơi thống nhất với cơ giáo cùng nhóm sắp xếp các góc chơi phù hợp vơí đầy đủ các
loại đồ chơi khác nhau. Trong q trình tổ chức cho trẻ chơi tơi dạy trẻ học thuộc và
thường xuyên hát các câu hát “Bạn ơi hết giờ rồi, nhanh tay cất đồ chơi, nhẹ tay thôi
bạn nhé, cất đồ chơi đi nào” sau khi kết thúc chơi các câu hát đó có ý nghĩa nhắc nhỡ
trẻ cất dọn đồ dùng, đồ chơi nhẹ nhàng, và biết giữ gìn đồ dùng, đồ chơi, dần dần tạo
cho trẻ thói quen cất dọn đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định.

Qua hoạt động vui chơi cháu mạnh dạn dần, thành thạo dần trong giao tiếp,
trong ứng xử, chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình.
2.2.3. Rèn nền nếp thói quen cho trẻ thơng qua hoạt động vệ sinh.

Như chúng ta đã biết, những thói quen vệ sinh, hành vi văn minh ở trẻ không
phải tự nhiên mà có, lại càng khó đạt được ở lứa tuổi trẻ 24-36 tháng. Chính vì vậy
vai trị của giáo viên và người lớn dạy bảo, hướng dẫn cho trẻ trong giai đoạn này là
rất cần thiết và vô cùng cấp bách.
Do đó cơng tác chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh cá nhân cho trẻ trong trường
mầm non là một nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục Mầm non.
Đối với lớp tơi đang phụ trách thì đây cũng là một trong những công tác luôn được
nhà trường hết sức quan tâm chú trọng đến.
Trẻ ở giai đoạn này trẻ hay bắt chước nhưng lại mau quên. Nếu không nhắc
nhở thường xuyên, không hướng dẫn cụ thể thì trẻ khơng thể hình thành thói quen
được. Tạo cho trẻ có thói quen vệ sinh trước khi ăn khơng chỉ đảm bảo sức khỏe
cho trẻ, phòng tránh được các dịch bệnh thường gặp dễ xâm nhập vào cơ thể non
nớt của trẻ mà còn rèn cho trẻ ý thức tự giác, biết rửa tay trước khi ăn và sau khi đi
vệ sinh. Đó là một thói quen khơng thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Trước bữa ăn, tôi cùng với các giáo viên trong lớp đã cho trẻ ngừng mọi hoạt
động vui chơi và chỉ định chỗ ngồi cho trẻ, không cho trẻ đùa nghịch, chạy nhảy
hoặc di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác.
Nên cho trẻ chọn một chỗ ngồi cố định. Khi trẻ đã ổn định chỗ ngồi, tôi tiến
hành cho trẻ trong từng bàn xếp hàng để đi vệ sinh. Khác với các lớp mẫu giáo, trẻ
nhà trẻ chưa thể tự rửa tay một mình được nên cần có sự giúp đỡ của giáo viên trong
lớp. Sau khi trẻ đi vệ sinh xong trẻ sẽ được cô giáo lau mặt mũi và rửa tay theo đúng
quy trình rửa tay cho trẻ mà các cơ đã được đào tạo.
Vệ sinh sạch sẽ trước khi ăn sẽ giúp trẻ thấy thoải mái, phấn khởi, trẻ tự tin
hơn khi tham gia vào hoạt động ăn cùng các bạn.
6


2.2.4. Rèn nền nếp thói quen cho trẻ thơng qua hoạt động tổ chức bữa ăn,
giấc ngủ
Thật vậy, cứ đến bữa ăn của gia đình mà trẻ được ngồi cùng mâm, cũng có

bát thìa để ăn thì bé thích lắm, chúng ln tay sử dụng thìa để xúc cơm, thức ăn
(mặc dù được ít). Một số phụ huynh sợ con bẩn nên khơng cho trẻ dùng bát thìa
hoặc tự xúc cơm ăn, như vậy vơ tình chúng ta đã kìm hãm muốn ăn uống của trẻ.
Để tập cho trẻ tự cầm thìa xúc cơm ăn, tơi xới cho trẻ một ít ăn trước, ăn hết lại xới
thêm, để tăng thêm lòng tin ăn uống cho bé. Tránh ép bé ăn, để tránh sinh ra bực bội
mà trẻ chán ăn. Trước khi ăn giáo viên tập cho trẻ biết mờicô, mời bạn ăn.
Ví dụ: Trẻ tự xúc cơm ăn:
Giáo viên hướng dẫn trẻ ăn từ tốn, không làm rơi vãi cơm, nếu có vãi thì nhặt
vào khay, vỏ hoa quả, bánh kẹo thì vứt vào thùng rác tất cả những yếu tố trên sẽ
giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng
sống tự lập sau này.
Qua giờ ăn trẻ có thể học được những kỹ năng mà cơ đã dạy trẻ ngay từ ban
đầu đó là trẻ biết mời cô và các bạn cùng ăn cơm, tự xúc cơm ăn, biết nhặt cơm rơi
vãi ở bàn khi ăn, biết cách cầm thìa thế nào cho đúng và trẻ ăn ngon miệng ăn hết
xuất của mình
Phối hợp với giáo viên trong lớp theo dõi sát sao từng trẻ lười ăn, ăn chậm
từ đó nắm được đặc điểm riêng cá tính của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh.
Ví dụ: Cháu Lan Anh hay ngậm cơm, nhả bã
thịt Cháu Hoài An chỉ ăn cơm canh
Cháu Thục Linh không ăn cháo...
Phối hợp với giáo viên trong lớp cùng dạy trẻ, kiên trì như hướng dẫn trong giờ
ăn.
Ví dụ: Khi dạy trẻ tập xúc cơm cơ nói con cầm thìa xúc cơm thật khéo như
vậy tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được đi biểu
diễn ở nhiều nơi được nhiều người biết đến và yêu quý.
Kết hợp với phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp. Có như
vậy việc dạy trẻ của cơ giáo mới có kết quả cao.
Bên cạnh rèn cho trẻ có được nề nếp trong bữa ăn là quan trọng nhưng để trẻ
có thể có một thói quen và giấc ngủ tốt cũng là một phần không thể thiếu đối với trẻ
Việc tạo cho trẻ một tâm thế yên tâm thoải mái khi ngủ ở trường vơí cơ giáo

và các bạn là vơ cùng cần thiết. Và để cho trẻ có thói quen ngủ đúng giờ, đủ giấc, có
một giấc ngủ sâu, nhẹ nhàng tơi thường hát cho trẻ nghe những bài hát ru hoặc
7


mở nhạc nhỏ cho trẻ nghe những làn điệu dân ca quen thuộc để giấc ngủ đến vơí trẻ
được tự nhiên và thật thoải mái mà khơng bị gị bó. Bên cạnh đó tơi chuẩn bị đầy đủ
chăn, chiếu gối cho trẻ. Sau khi trẻ ngủ dậy tôi hướng dẫn trẻ tự thu xếp gối của
mình vào nơi quy định. Thơì gian đầu tơi thực hiện và hướng dẫn các nội dung
trong việc rèn luyện thói quen nề nếp cho trẻ trong giờ ngủ, những nội dung đó cứ
lặp đi lặp lại hàng ngày sau đó trở thành thói quen cho trẻ. Trẻ đã có thói quen ngủ
đúng giờ, đủ giấc ngủ đúng chổ của mình, sau khi ngủ dậy có thói quen thu dọn đồ
dùng của mình để đúng nơi quy định.
2.2.5. Giáo viên , tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn và kiến
thức kỹ năng về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ
Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt hiệu quả
cao. Xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ tơi đã đi sâu
nghiên cứu, tìm tịi, tham khảo...những tài liệu có nội dung về đề tài, học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu được tầm quan
trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ thể của lớp, của bản thân. Từ đó tìm ra
biện pháp thực hiện hữu hiệu nhất
Ln tham gia các buổi tập huấn chun mơn do Phịng, Cụm liên trường và
nhà trường tổ chức.
Thường xun tìm tịi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan
trọng của việc đưa trẻ vào nề nếp, thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng
ngày của trẻ.
Tham gia tốt các đợt thao giảng, dự giờ bạn đồng nghiệp để học hỏi thêm
kinh nghiệm về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho bản thân.
Thường xuyên rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ phù hợp, đúng quy trình
của độ tuổi 24 - 36 tháng.

Trẻ Mầm non nói chung và trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ được
hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi mà học”, học ở mọi lúc mọi
nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ
thì bản thân tơi khơng ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để làm Đồ
dùng, Đồ chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm bảo tính an tồn cho trẻ
sử dụng hợp lí, phù hợp với nội dung, với độ tuổi. Đồ dùng, đồ chơi sắp xếp gọn
gàng, vừa tầm với trẻ dễ thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái và vui vẽ.
Ví dụ: Cháu mới nhập lớp đang cịn khóc vì nhớ Bố, Mẹ, nhớ người thân...tơi
có thể bế cháu đến các góc chơi cho trẻ xem tranh vẽ cảnh: Cô và các bạn đang xếp
nhà cho Búp Bê. Để trẻ tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi nhớ nhà
8


thì tơi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình ảnh và hỏi trẻ: “Tranh vẽ về ai đây?
Cịn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì? Con thấy các bạn chơi có vui
khơng? Bây giờ, cô và con cùng chơi xếp nhà cho em Búp Bê nhé!”
Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày
giúp trẻ hứng thú hơn tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh động
hơn và hứng thú hơn. Đây cũng là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả
năng tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn.
2.2.6. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt
động trong ngày.
Động viên, khuyến khích giúp cho trẻ thêm tự tin, hy vọng và có lịng tin để
nhìn thẳng vào hồn cảnh. Động viên cũng là một cách giúp đỡ rất hiệu quả làm cho
trẻ tăng thêm niềm tin, tính kiên trì và chủ động. Khi động viên trẻ, tôi chú trọng
đến các phương pháp như biểu dương, tán thưởng những thành tích trẻ đã đạt
được và khuyên bảo tôi dùng lời lẽ khéo léo và thái độ tình cảm để thương lượng
thuyết phục trẻ.
Ví dụ: Cơ khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quàn áo, đầu tóc gọn
hàng, sạch đẹp. Biết chào cơ khi đến lớp, khơng khóc nhè, thơng qua các bài hát, bài

thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn
hoặc cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về
một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp cịn nột vài cháu hay nhõng nhẽo khơng nghe
lời cô do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ...tôi dựa vào lúc có điều kiện, trong giờ
hoạt động nào đó mà trẻ có thể học tập, bắt chước. Tơi đã tranh thủ cơ hội đó để
thay đổi trẻ bằng mọi hình thức. Từ sự giúp đỡ của cơ giáo mà tính nhõng nhẽo của
trẻ mất dần. Được cơ tạo điều kiện giúp đỡ, do được rèn luyện trẻ đã thực sự hịa
nhập vào nề nếp , khn khổ của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin
2.2.7. Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự
lập cho trẻ:
Những bài học trẻ được học ở trường giúp trẻ phát triển đúng yêu cầu ở độ
tuổi, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và nhận thức,
giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, tích cực và chủ động khi tham gia các hoạt động cùng cô
và bạn.
Tuy nhiên để cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất,
tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục rèn nề nếp thói quen cho trẻ, còn về nhà
cha mẹ lại cho trẻ tự do muốn làm gì thì làm khơng có nề nếp. Chính vì khơng
muốn tình trạng đó xảy ra nên tơi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong
9


những giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến
trẻ ở trường và đặc biệt là rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Bởi khơng phải phụ huynh
nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó.
Xây dựng góc tuyên truyền trong lớp có bài tuyên truyền về tất cả các nội
dung như : “ Kết quả đánh giá trẻ, kết quả sức khỏe của trẻ,các hình ảnh về các hoạt
động của trẻ”. Qua đó phối hợp với phụ huynh để phụ huynh hiểu hơn về những
thói quen nề nếp của trẻ để có thể rèn luyện cho trẻ thêm khi ở nhà
Tôi luôn tuyên truyền với phụ huynh hiểu thế nào là rèn nề nếp thói quen cho
trẻ, tự làm những việc trong khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng

dẫn trẻ làm không nên làm giúp trẻ, hay khi trẻ đã biết làm rồi thì người lớn nên
khun khích động viên trẻ làm đi làm lại nhiều lần để trở thành các kỹ năng cần
thiết trong cuộc sống của trẻ.
* VD: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi rất được bố mẹ nuông chiều khơng bao giờ

tự làm một việc gì, đến lớp thì đợi cơ và bạn làm giúp. Tơi đã trị chuyện với phụ
huynh để họ nắm bắt được tình hình của con mình và tơi tun truyền cho họ các
phương pháp về giáo dục nề nếp thói quen cho trẻ cho trẻ ngay từ nhỏ để phụ huynh
có thể áp dụng tại gia đình. Tơi có thể gợi ý cho họ về cách là rèn nề nếp thói quen
cho trẻ “Anh chị cứ để trẻ tự cất dép, máng cặp đi vì mỗi ngày ở trường trẻ phải tự
làm được đấy chị ạ, chị cứ để bé tự lấy thử xem….”
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát ý thức của trẻ trong các điều
kiện và tình huống hàng ngày như quan sát xem trẻ có biết tự chơi xong có biết tự đi
cất đồ chơi gọn gàng hay cần bố mẹ nhắc nhở. Trẻ có thích tự xúc cơm ăn hay
khơng….để từ đó có những biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm.
Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tơi thấy trẻ
của lớp tơi ln có nề nếp thói quen trong các hoạt động, trẻ mạnh dạn tự tin, các kỹ
năng tự phục vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ người khác luôn thành
thạo và rất vui vẻ nhiệt tình.
* Kết quả đạt được:

Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài, với sự quyết tâm của bản
thân, sự kết hợp song song với một số biện pháp thiết thực, phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ. Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24-36 tháng tuổi ở lớp tôi phụ
trách đã đạt được một số kết quả sau:
* Đối với trẻ:
Bằng các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa
mãn nhu cầu tự thức hiện các thói quen trong các hoạt động hàng ngày và đặc biệt
trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các thói quen tự phụ vụ thói quen
10



giữ gìn vệ sinh trở nên tốt hơn, khơng cần cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực
hiện một cách tự nguyện và thích thú.
* VD: Các hoạt động: Tự tháo dép và cất đúng nơi qui định, tự đi vệ sinh

đúng nơi quy định, tự xúc cơm ăn, lấy gối để ngủ … tích cực tham gia vào các hoạt
động của tập thể, của lớp. Từ đó những thói quen tốt của trẻ được hình thành và sẽ
phát triển bền vững.
* Kết quả sau thực hiện

TT
1
2
3
4
5
6
7
- 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi

dậy tính tị mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
- 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội; kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp;
biết chơi đoàn kết với bạn bè.
- Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt cao và ít gặp khó khăn khi đến

lớp, có thói quen tự vệ sinh cá nhân, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi, tự chuẩn bị mang
dép, mang cặp trước khi ra về, sau các hoạt động trẻ biết tự cất bàn, ghế....
* Đối với giáo viên:
Sau khi thực hiện những biện pháp trên tơi thấy trẻ đã có nề nếp thói quen

trọng các hoạt động hàng ngày, đã có những kỹ năng cần thiết phù hợp với độ tuổi.
Trẻ tự tin, mạnh dạn khi tham gia các hoạt động giúp cho việc tổ chức các hoạt động
giáo dục của cơ giáo đạt kết quả tốt.
Ngồi ra giáo viên cịn rèn cho bản thân của mình được tính kiên trì, nhẫn nại
và kìm nén được cảm xúc của mình hơn. Giáo viên chịu khó trị chuyện với trẻ, trả
lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la mắng, giải quyết hợp lý, cơng bằng với
mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp.


Giáo viên luôn lắng nghe ý kiến của trẻ không gị bó áp đặt trẻ. Cơ ln là
người chỉ dẫn, truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống cần thiết cho bản thân trẻ.
11


Giáo viên ln tích cực đổi mới phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích
cực ở trẻ. Khai thác tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Giáo dục trẻ như thế nào để trẻ
cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để
trẻ được thể hiện mình, được bộc lộ bản thân mình trước mọi người. Đặc biệt với
những tình huống đưa ra khơng chỉ giúp trẻ có kỹ năng ứng biến khi gặp tình huống
tương tự mà cịn giúp trẻ có kỹ năng biết cách suy luận, suy đốn tìm ra cách giải
quyết ở các tình huống khác và hình thành cho trẻ kỹ năng sau này.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều hơn
cho trẻ. Biết giúp đỡ nhau, đoàn kết với nhau để cơng việc trong nhóm, cũng như
của chính bản thân trẻ được tốt hơn. Ngồi ra trẻ có kỹ năng tự giải quyết các tình
huống mà trong nhóm xảy ra.
Giáo viên mạnh dạn hơn, tự tin hơn, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường
xuyên với cha mẹ trẻ để cùng có những biện pháp phù hợp rèn tính tự lập cho trẻ tốt
nhất.
* Đối với phụ huynh:
- Cha mẹ luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục


trẻ ở nhà trường.
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên

trong việc giáo dục trẻ, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức.
- Qua trao đổi với phụ huynh, nhiều phụ huynh cũng nhận thấy rằng có rất

nhiều điều con mình có nề nếp thói quen nhưng trước đó phụ huynh nghĩ con mình
cịn bé và ln làm hộ trẻ. Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ
dịu dàng, ít quát mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, không cung
phụng trẻ thái quá.
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp
Rèn nề nếp thói quen cho trẻ rong mọi hoạt động hàng ngày sẽ giúp trẻ hình
thành một số thói quen và thái độ tốt với công việc, dạy bé các bài học có giá trị về
cuộc sống, khơng phải mọi thứ đều có sẵn mà phải do con người làm việc mới có.
Để trẻ có nề nếp thói quen cho trẻ được tốt, cha mẹ và giáo viên cần luôn bên
cạnh để khuyến khích động viên trẻ. Người lớn khơng làm hộ trẻ mà cần tạo cơ hội
cho trẻ làm để hình thành ở trẻ ý thức và suy nghĩ “con có thể tự làm được” trước
các việc, tin tưởng trẻ và cho trẻ tự làm, dù lúc đầu có thể là chưa đúng, có sai sót
nhưng dần dần trẻ sẽ tự phục vụ được bản thân.
Qua một năm học thực hiện theo các hình thức đó tơi thấy đã đạt được hiệu
quả rõ rệt. Đặc biệt, với những hình thức giáo viên đưa ra, trẻ nhận thức rất nhanh
12


và biết ứng dụng trong cuộc sống thông qua việc trẻ được trải nghiệm trong hoạt
động học tập, vui chơi và vệ sinh. Từ đó, tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin. Thông qua
việc trẻ được thảo luận, suy nghĩ tìm ra cách giải quyết đã giúp trẻ phát triển ở nhiều
mặt: Trẻ phát triển được các kỹ năng phán đốn, suy luận, biết đưa ra quyết định

của mình. Bên cạnh đó, ở các lĩnh vực trẻ cũng có những tiến bộ rõ rệt.
Rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ mầm non là một vấn đề quan trọng, mà
mỗi giáo viên cần phải có những biện pháp thực hiện giáo dục lồng ghép thông qua
các hoạt động trong chương trình giáo dục mầm non. Rèn nề nếp thói quen cho 24
-36 tháng tuổi là quá trình giáo dục lâu dài, ở mọi lúc mọi nơi. Bằng sự chủ động
linh hoạt vận dụng các nội dung rèn nề nếp thói quen cho trẻ hằng ngày vào các
hoạt động khác nhau làm cho trẻ hứng thú, tập trung, giúp trẻ thể hiện được sự khéo
léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu giữa bạn bè.
Giáo dục, rèn luyện rèn nề nếp thói quen cho trẻ là nhiệm vụ trọng tâm của
cấp học mầm non hiện nay. Vì vậy mỗi cơ giáo chúng ta phải biết tạo mọi cơ hội
cho trẻ được trãi nghiệm nhiều ở mọi lúc, mọi nơi, từ đó trẻ tự giác thực hiện nhiệm
vụ một cách tích cực.
Nề nếp thói quen của trẻ phát triển tốt, trẻ sẽ tự tin vào khả năng tự điều
khiển, tự kiểm soát được mình, tự lập quyết định việc hình thành và phát triển trí
tuệ, xúc cảm, tư duy sáng tạo, tính thẩm mỹ, đồng thời quyết đốn được những cơng
việc, dần dần phát triển toàn diện về nhân cách để trở thành người hữu ích cho gia
đình và xã hội tương lai.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
* Đối với phụ huynh:
Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ có thói quen
và được tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống, liên tục.
Phụ huynh cần trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, ni
dưỡng và giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà.
Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các
nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi nhằm
giúp trẻ có thói quen hành vi văn minh tốt.
* Đối với nhà trường:
Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tham mưu với các cấp, ban ngành,
đoàn thể, các tổ chức và cá nhân để huy động có nguồn kinh phí mua sắm các loại
đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị phù hợp phục vụ các hoạt động trong nhóm lớp, mở

rộng diện tích lớp học cũng như khuôn viên của nhà trường để cho trẻ có một sân
chơi thật thoải mái.
13


Tạo điều kiện cho giáo viên được tham dự các lớp tập huấn do Phòng giáo
dục tổ chức.
* Đối với Phòng Giáo dục & Đào tạo:
Quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng
để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
* Đối với địa phương:
Tạo điều kiện về nguồn kinh phí cho nhà trường tăng trưởng cơ sở vật chất,
tu sửa nâng cấp trường lớp tạo điều kiện cho trẻ hoạt động.
Trên đây là Sáng kiến cải tiến kỹ thuật được áp dụng trong năm học này.
Những gì đạt được cịn rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp
theo. Kính mong sự góp ý bổ sung của các đồng chí đồng nghiệp, Hội đồng khoa
học Nhà trường và Hội đồng khoa học của ngành để bản thân có được những kinh
nghiệm q báu, giúp cho cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường được tốt hơn đáp
ứng yêu cầu giáo dục mầm non trong giai đoạn hiện nay./.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.

14


Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................


15



×