Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN một số biện pháp giúp trẻ 4 5 tuổi khuyết tật hòa nhập trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 23 trang )

UBND THỊ XÃ SƠN TÂY
TRƯỜNG MẦM NON SƠN ĐÔNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi
khuyết tật hòa nhập trong trường mầm non
Tên tác giả: Phùng Thị Mỹ Bình
Lĩnh Vực: Gi dục mẫu giáo

Năm học: 2018 - 2019

1/22


PHẦN A: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Trẻ em là mối quan tâm hàng đầu của gia đình, cộng đồng và tồn xã hội.
Trẻ em là mầm non của đất nước, do đó trẻ em cần được hưởng sự giáo dục, dạy
dỗ chu đáo của mọi người từ gia đình đến xã hội, đặc biệt là trẻ khuyết tật. Vì vậy
giáo dục trẻ khuyết tật là nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục.
Trẻ khuyết tật cũng là một tế bào của xã hội, trẻ phải có được cả xã hội quan
tâm giúp đỡ để trẻ được phát triển đầy đủ các mặt về thế chất, trí tuệ được tham
gia các hoạt động xã hội như các bạn khác, nhưng thực tế hầu hết trẻ khuyết tật
hiện nay vẫn chưa được nhìn nhận và có các biện pháp giáo dục đúng đắn. Cũng
vì mặc cảm với bạn bè và xã hội mà trẻ không được đến trường hay phụ huynh
cho trẻ đến các cơ sở giáo dục chuyên biệt dành riêng cho những trẻ đó.
Nếu cứ sống và học tập mãi với bạn bè khuyết tật, trẻ khuyết tật sẽ không
bao giờ khám phá ra những khả năng tiềm tàng mà chúng có. Vì vậy việc học tập
trong một lớp hịa nhập với trẻ bình thường giúp cho trẻ hiểu đúng về năng lực


của mình, từ đó chúng có thể tìm được cách phát huy những tiềm năng này và tự
phát triển.
Bản thân tôi là một giáo viên phụ trách nhóm lớp 4 – 5 tuổi ở trường mầm
non lại có học sinh bị khuyết tật trong độ tuổi của lớp mình, hằng ngày vừa
chứng kiến vừa chăm sóc bé tơi đã cảm nhận được sự thiệt thòi mà bé đang phải
gánh chịu. Song biện pháp giáo dục như thế nào để trẻ khuyết tật hịa nhập bắt
kịp với bạn bè cùng nhóm tuổi là cơng việc hết sức khó khăn và vất vả. Vì những
lí do trên nên tơi đã tìm tịi nghiên cứu và tổng kết được một số kinh nghiệm giáo
dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong thời gian qua tôi đã mạnh dạn làm đề tài “Một
số biện pháp giáo dục trẻ 4 – 5 tuổi khuyết tật hòa nhập trong
trường mầm non”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khi nhận cháu vào lớp tơi nhận thấy cháu thu mình ở một góc hoặc chơi
một mình, ít tiếp xúc với bạn bè. Làm thế nào để cháu nghe và hiểu được lời nói,
để cháu hịa nhập cùng học, cùng chơi với bạn bè, đó là nỗi băn khoăn trăn trở
của tôi. Xác định được các biện pháp giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong
trường mầm non nhằm phát huy hiệu quả của giáo dục toàn diện nhân cách giúp
trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, hòa nhập với bạn bè, với cộng đồng xã hội.
Đồng thời giáo dục lịng nhân ái, tình cảm yêu thương của các cháu với những
người bạn khuyết tật của mình.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về vấn đề giáo dục hịa nhập trẻ khuyết tật thơng qua các hoạt
động chăm sóc giáo dục trong trường mầm non. Đặc biệt là bé Nguyễn Minh
Đức lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi.

2/22


IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT – THỰC NGHIỆM
Trẻ khuyết tật của lớp 4 – 5 tuổi B4 trường mầm non Sơn Đơng.

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hồn thành nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
2. Phương pháp trải nghiệm
3. Phương pháp đánh giá
- Bắt đầu: Từ tháng 9 năm 2017
- Kết thúc: Tháng 5 năm 2018

PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Quyền của trẻ khuyết tật trong công ước về quyền trẻ em cũng nêu rõ mọi
trẻ em khuyết tật cần được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và đầy đủ trong những
điều kiện: Đảm bảo phẩm giá, thúc đẩy khả năng tự lực, tạo điều kiện dễ dàng
cho trẻ tham gia tích cực vào cộng đồng. Bên cạnh đó trẻ được chăm sóc đặc biệt
và tùy theo nguồn lực có sẵn, phải khuyến khích và đảm bảo dành cho trẻ em
khuyết tật và cho những người có trách nhiệm chăm sóc trẻ sự giúp đỡ mà trẻ yêu
cầu. Trẻ khuyết tật được thực sự tiếp cận và hưởng sự giáo dục đào tạo, các dịch
vụ y tế, dịch vụ phục hồi chức năng.
Giáo dục hòa nhập là xu hướng chung của hầu hết các nước trên thế giới
và đã được Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam xác định con đường chủ yếu để thực
hiện những quyền cơ bản của mọi trẻ em, đặc biệt là quyền được giáo dục. Đây là
cơ hội để mọi trẻ em trong đó chú trọng đến trẻ khuyết tật, trẻ khó khăn được tiếp
cận nền giáo dục bình đẳng, có chất lượng.
Là một giáo viên mầm non với lòng yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với nghề
nghiệp chúng ta phải làm thế nào để chất lượng giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật
trong trường mầm non ngày càng được nâng cao, góp phần hạn chế những khiếm
khuyết cho trẻ để trẻ vững bước vào đời, hòa nhập với cộng đồng và là những
con người có ích cho xã hội, cho đất nước.
Giáo dục hịa nhập là cơ hội để trẻ bình thường và trẻ khuyết tật hiểu đúng

giá trị của nhau xóa bỏ sự cách biệt mặc cảm, xa lánh để trẻ có trách nhiệm với
nhau hơn giúp trẻ khuyết tật được học tại nơi trẻ sinh sống cùng gia đình khơng
có sự tách biệt môi trường sống. Tạo điều kiện giúp trẻ khuyết tật được phát triển
về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách và chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Tất cả những quyền lợi mà trẻ khuyết tật có được địi hỏi giáo viên phải
chăm sóc tận tình trong học tập và sinh hoạt, được trẻ trong lớp cảm thông, giúp
đỡ. Đặc biệt được ban giám hiệu nhà trường các cô giáo có các biện pháp quan
tâm giúp đỡ trẻ hịa nhập.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở trường mầm non đang là 1 xu
hướng phổ biến trên thế giới nói chung và đặc biệc đang được triển khai ở Việt
Nam. Có thể nói giáo dục hịa nhập là mơ hình giáo dục trẻ tự kỷ có hiệu quả
nhất. Trong vài năm qua mơ hình giáo dục hòa nhập ở Việt nam đã thực hiện
3/22


dưới sự chỉ đạo của sở giáo dục và phòng giáo dục, trường mầm non Sơn Đông
đã huy động động trẻ bị khuyết tật ra lớp hòa nhập theo chương trình. Cùng với
sự phát triển giáo dục nói chung, giáo dục hịa nhập trẻ khuyết tật trong trường
mầm non nói riêng đã có bước chuyển biến khá tích cực. Nhận thức được sự cần
thiết của việc giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật, hầu hết phụ huynh ở địa phương
nơi tơi cơng tác có trẻ khuyết tật đều mạnh dạn đưa trẻ ra lớp học hịa nhập giúp
trẻ thích nghi với môi trường tập thể. Trong năm học 2017 - 2018 trường đã tiếp
nhận số trẻ bị khuyết tật nhiều hơn so với năm trước, trong đó lớp tơi có 1 cháu bị
khuyết tật dạng chậm phát triển trí tuệ, ngơn ngữ kém. Vì vậy ngay từ đầu năm
học tơi đã trăn trở suy nghĩ một số biện pháp giúp trẻ khuyết tật hòa nhập tại lớp
4 – 5 tuổi B4. Nên tôi đã mạnh dạn đưa nội dung này vào việc viết đề tài nghiên
cứu SKKN để góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp trồng người, mang lại
điều tốt đẹp nhất cho thế hệ tương lai của đất nước.

BI. THỰC TRẠNG
1. Khảo sát thực tế
- Năm học 2017 - 2018, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công
phụ trách lớp 4 – 5 tuổi B4 tại khu trung tâm trường mầm non Sơn Đơng. Lớp có
3 giáo viên.
- Lớp tơi có tổng số 54 cháu, trong đó có 26 cháu nữ và 28 cháu nam, có
cháu Nguyễn Minh Đức bị khuyết tật “chậm phát triển trí tuệ, ngôn ngữ kém”,
cháu sinh ngày 30/6/2013. Cơ thể cháu phát triển bình thường nhưng trí tuệ và
ngơn ngữ của cháu phát triển kém, cháu thường khơng nói mà chỉ ú ớ khi muốn
biểu lộ điều gì, cháu hay ngồi một mình khơng chơi đùa cùng các bạn, khơng
tham gia vào các hoạt động của lớp, cháu còn hay đi ngồi ra quần mà khơng biết
và khả năng tự phục vụ bản thân còn hạn chế như xúc cơm, mặc quần áo, ....
Vì vậy vấn đề đặt ra đối với tơi lúc này là cần phải tìm hiểu rõ đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ để tìm ra những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ giúp trẻ học tập tốt
hơn và hịa đồng với các bạn.
Với tình hình thực trạng như trên trong quá trình thực hiện đề tài, tơi đã
gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
2. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo về cơ sở vật chất đặc biệt là sự
chỉ đạo sát sao về chun mơn của phịng giáo dục và đào tạo thị xã trong đó có
nội dung giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
- Ban giám hiệu nhà trường quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho giáo
viên được tập huấn học hỏi kinh nghiệm về giáo dục trẻ khuyết tật.
- Được sự quan tâm chia sẻ của các bậc phụ huynh, của bạn bè đồng
nghiệp những vất vả khi cơ giáo có học sinh khuyết hòa nhập.
- Được sự phối kết hợp đồng đều giữa 3 giáo viên trong lớp cùng nhiệt
tình chăm sóc - giáo dục trẻ nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng
3. Khó khăn
Trong q trình thực hiện đề tài này bên cạnh những thuận lợi trên tơi cịn
gặp một số khó khăn sau:

- Giáo viên khơng được đào tạo về chuyên biệt giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật mà chỉ được tập huấn, kiến tập về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.

4/22


- Đồ dùng đồ chơi dành riêng cho trẻ khuyết tật khơng có gây khó khăn

cho giáo viên trong q trình giáo dục trẻ
- Trẻ chưa được học qua lớp nhà trẻ và mẫu giáo 3 – 4 tuổi nên chưa có nề
nếp, kiến thức và kỹ năng nhất định.
- Trẻ chậm phát triển trí tuệ, ý thức tự vệ sinh cá nhân kém gây khó khăn
cho giáo viên trong việc dành nhiều thời gian cho việc vệ sinh cho trẻ.
- Trẻ hiếu động khơng kiểm sốt được hành vi của bản thân.
Từ những khó khăn trên tơi đã tiến hành khảo sát các tiêu chí dành cho trẻ
khuyết tật là bé Nguyễn Minh Đức theo từng tuần của tháng 9 như sau:
Nội dung khảo sát
Trẻ biết tự ăn uống
Biết súc miệng chải răng
Trẻ biết tự rửa tay
Trẻ biết tự đi vệ sinh
Trẻ biết tự mặc quần áo
Biết chơi cùng nhau
Biết phát âm, nói rõ câu, từ...
Hiểu khi nghe cơ và các bạn nói
Biết đi lại một mình, biết cầm nắm các đồ
dùng
Tham gia các hoạt động học tập, vui chơi
Biết tô màu, cầm bút....
Thực hiện vận động tinh trong giờ tạo hình

Thực hiện các vận động thơ
Tn theo các quy định của lớp
Ghi chú:

Rõ rệt: +
Chưa rõ rệt: +_
Chưa được: _
Từ kết quả trên tôi thực sự băn khoăn làm sao để trẻ có được kỹ năng, sớm
hịa nhập với cơ giáo và bạn bè, làm sao trẻ có thể tự tin trong giao tiếp, sống biết
quan tâm chia sẻ và hợp tác với mọi người xung quanh. Vì vậy qua thời gian
giảng dạy và tiếp xúc với cháu Đức, tơi đã tìm ra được một số biện pháp giáo dục
hòa nhập trẻ khuyết tật cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi.

5/22


IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TRẺ 4 – 5 TUỔI KHUYẾT
TẬT HÒA NHẬP TRONG TRƯỜNG MẦM NON.
1. Biện pháp 1: Khảo sát dạng tật của trẻ
Là một giáo viên trực tiếp phụ trách lớp có trẻ bị khuyết tật bản thân tơi đã
tìm hiểu về hồn cảnh gia đình cũng như tìm hiểu nguyên nhân, đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ có những điểm chậm phát triển trí tuệ và bất ổn về mặt tinh thần
* Đặc điểm tâm lý trẻ khuyết tật
- Khả năng vận động của trẻ: Kỹ năng vận động thô (đi, đứng, ngồi, chạy,
nhảy bình thường), kỹ năng vận động tinh (cầm vật nhỏ cịn khó khăn, sự di
chuyển của ánh mắt cịn chậm chạp, sự khéo léo của các chi còn yếu, kỹ năng
cầm bút, cầm kéo còn yếu…).
- Cảm giác, tri giác: Chậm chạm, phân biệt kém.
- Tư duy: Chủ yếu là tư duy cụ thể, tính khơng liên tục, tính logic kém.
- Trí nhớ: Hiểu chậm, quên nhanh, ghi nhớ một cách máy móc bên ngồi

- Chú ý: Thời gian chú ý ngắn, khó tập trung vào 1 cơng việc thiếu tính
bền vững.
- Ngơn ngữ: Rất hạn chế, vốn từ ít, phát âm khơng rõ, nói khơng đủ câu,
người lớn nói trước trẻ bắt chước theo.
- Hành vi: Không làm chủ được hành vi của bản thân. Đi lại chạy nhảy tự
do một cách vô ý thức, không ngồi 1 chỗ được lâu.
- Thần kinh: Có những lúc la hét, ném đồ dùng, đồ đặc, cào cấu mọi người
xung quanh. Trẻ ngủ rất ít.
- Vệ sinh cá nhân: Thường là khơng biết tự vệ sinh cá nhân, trẻ không biết
đi tiểu đại tiện đúng nơi quy định, ý thức vệ sinh cá nhân kém.
Với đặc điểm khuyết tật của trẻ là chậm phát triển trí tuệ, thần kinh khơng
ổn định, trẻ không biết tự vệ sinh cá nhân nên bản thân giáo viên ở lớp luôn phải
đặc biệt chú ý đến trẻ và từ đó đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp với trẻ để
trẻ cùng được học tập giao lưu với bạn bè trong lớp.
2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở
trường mầm non
Giáo dục một đứa trẻ bình thường đã khó, giáo dục một đứa trẻ khuyết tật
lại càng khó khăn hơn. Vì lẽ đó giáo dục trẻ khuyết tật là phương thức giáo dục
chung trẻ khuyết tật với trẻ khơng khuyết tật. Hịa nhập khơng chỉ đơn giản là
đưa trẻ khuyết tật vào trong một chương trình giáo dục chung với trẻ bình
thường. Trong hoạt động giáo dục hòa nhập, giáo viên phải cùng một lúc giải
quyết 2 nhiệm vụ: Giáo dục trẻ khuyết tật và giáo dục trẻ khơng khuyết tật.
Để chun đề giáo dục hịa nhập trẻ khuyết tật đạt hiệu quả cao tôi luôn kết
hợp với BGH nhà trường và phụ huynh học sinh, đưa ra một số biện pháp cụ thể
để giúp trẻ khuyết tật tự tin hòa nhập vào trường mầm non.
Khi nhận cháu Đức vào lớp tơi cũng có nhiều băn khoăn lo lắng, vì trí tuệ
của cháu kém, khả năng tự phục vụ khơng có. Nhưng xuất phát từ tình thương, từ
trách nhiệm của người giáo viên, kiên trì, nhẫn nại, sự tỉ mỉ chu đáo cho dù phải
lặp đi lặp lại nhiều lần trong ngày, trong tuần để dạy dỗ cháu. Qua q trình tiếp
xúc đó tơi cũng đã lập ra kế hoạch dành cho cháu Đức theo các chủ đề sự kiện

như sau:

6/22


KẾ HOẠCH GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT HÒA NHẬP THEO
CHỦ ĐỀ, SỰ KIỆN NĂM HỌC 2017 – 2018
Thời gian
Tháng 9

Tháng 10
- Trẻ biết tên đồ dùng - Dạy trẻ biết ý nghĩa của hoa tươi, bưu cá
nhân, đồ dùng vệ thiếp dùng để làm gì?
sinh.
- Trẻ nhận biết được
hoa
dùng để tặng cho bà,
cho
20/10.

-Trò chuyện về người
thân
Tháng 11 của
dùng trong nhà.
- Trẻ biết một số
nghề nghiệp trong xã
hội.
- Trẻ biết 1 số
thơ,
hát có nội dung ngắn

trong kế hoạch tháng.
- Trẻ biết tên gọi một - Dạy trẻ tên gọi, đặc điểm nổi bật, lợi
Tháng 12 số đặc điểm nổi bật ích của các loại hoa có, 1 số loại cây ăn
của cây, quả, hoa quả (cây bưởi, cây cam) và 1 số loại hoa:
7/22
quen thuộc.


- Trẻ có 1 số hiểu biết
sơ đẳng về
22/12, ngày lễ
sinh
- Dạy trẻ dán hoa tặng chú bộ đội.
- Dạy trẻ đi lên cầu thang, tập lấy ghế, bê

ghế ngồi vào bàn ăn, cất ghế đúng nơi qui
định
- Biết tên gọi, đặc - Dạy trẻ biết, tên gọi và 1 số đặc điểm
điểm,
sống, ích lợi, của một
Tháng 1 số con
Chó, mèo,...
- Trẻ có một số hiểu - Dạy trẻ về tên gọi, đặc điểm, môi biết về
các con vật trường sống, ích lợi, của một số con vật sống dưới
nước, sống dưới nước, trong rừng qua sự
trong rừng.
- Dạy trẻ cách quan tâm, chăm sóc tiếp
cận với các con vật.
- Dạy trẻ 1 số bài thơ, câu chuyện ,bài hát
có trong KH tháng.

- Dạy trẻ kỹ năng sử dụng kéo, gấp khăn.
- Trẻ biết về những - Dạy trẻ biết về thời tiết mùa xuân, hoa
Tháng 2 nét đặc trưng ngày đặc trưng về mùa xuân, biết về ngày tết:
Tết cổ truyền.
- Dạy trẻ 1 số bài hát, tết…. GD trẻ: Khơng bẻ cành, gắt lá, hái bài
thơ có trong kế hoa….
hoạch tháng.

- Cung cấp kiến thức
Tháng 3 sơ đẳng về ngày 8/3
- Trẻ biết tên gọi, đặc phương tiện giao thông gần gũi với trẻ.Tổ
điểm đặc trưng của chức cho trẻ quan sát qua tranh, video về một
số phương tiện các PTGT gần gũi qua hoạt động khám giao thông
gần gũi phá.
với trẻ: Xe đạp, xe - Tổ chức cho trẻ chơi các trị chơi (Đèn
máy, ơ tơ
- Biết một số quy
định cơ bản khi tham
gia
giao
đường bộ.
- Trẻ biết tên gọi, đặc chơi đúng nơi qui định cách đóng và mở
điểm đặc trưng của cửa.
8/22
một số
giao thông đường sắt


đường
không và 1 số qui

định giao thông cơ
bản khi tham gia giao
thơng .
- Trẻ biết lợi ích của
một số hiện tượng tự
Tháng 4 nhiên gần gũi với trẻ.
- Tổ chức các hoạt động khám phá về

nước.
- Tổ chức các hoạt động khám phá về các
hiện tượng tự nhiên: Nắng, mưa, sấm,
chớp… qua quan sát và trải nghiệm.
- Biết bảo vệ cơ thể - Tổ chức các hoạt động nhận biết, trò khi

thời tiết: Mặc chuyện về thời tiết mùa hè : Nắng, mưa, quần áo
phù hợp với sấm, chớp… qua các quan sát và trải
Tháng 5 thời
trời
mưa khi trời mưa….
- Cung cấp kiến thức
sơ đẳng
kính yêu.
- Dạy trẻ 1 số bài thơ, câu chuyện, bài hát
có trong kế hoạch tháng.
3. Biện pháp 3: Xây dựng môi trường lớp học thân thiện

Môi trường học thân thiện với trẻ là nơi thực hiện và tôn trọng quyền trẻ
em, là môi trường học tập hịa nhập, nơi đó khơng hề có sự phân biệt đối xử, giúp
trẻ sống hịa đồng, là mơi trường giáo dục hiệu quả, tạo điều kiện cho trẻ phát
triển toàn diện, trẻ cảm thấy thoải mái, hứng thú, giúp trẻ phát triển tự nhiên, lành

mạnh trên cơ sở các mối quan hệ gần gũi, thân thiện và hợp tác: Giáo viên - giáo
viên, giáo viên - trẻ, trẻ - trẻ, phụ huynh - nhà trường - cộng đồng. Vậy muốn xây
dựng lớp học thân thiện, tôi đã tập trung làm tốt các việc sau:
3.1. Xây dựng môi trường vật chất
Mơi trường vật chất trong trường, lớp mầm non chính là các đồ dùng, trang
thiết bị phục vụ công tác chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục của cơ và trẻ. Ở trường
mầm non đồ dùng đồ chơi chính là sách, tranh truyện đồ dùng đồ chơi, của trẻ.
Thơng qua đó, trẻ dễ dàng nhận biết, phân biệt, khám phá thế giới xung quanh.
Đặc biệt, nó cịn quan trọng hơn nhiều đối với việc chăm sóc, giáo dục trẻ khuyết
tật.

9/22


.
Xây dựng nội quy của lớp học: Chúng tôi đã xây dựng nội quy cụ thể cho
từng góc chơi. Ví dụ: Góc “kể chuyện” tơi đã dùng các ký hiệu hình ảnh quy định
kỹ năng góc xem sách, tranh chuyện, trẻ không được xé sách truyện, không vẽ
lên sách truyện…. Góc xây dựng: Tơi đã dùng các ký hiệu hình ảnh để trẻ có
kỹ năng chơi, khơng tranh giành đồ chơi, không chạy nhảy trong khi chơi, biết
cất đồ chơi gọn ngàng…. Góc “Bé thao tác vai ” tơi dùng các ký hiệu hình ảnh
để hướng dẫn kỹ năng để trẻ chơi, khơng la hét, nói to, biết chơi cùng nhau và
biết cất đồ chơi gọn gàng.... Ngồi ra tơi cịn xây dựng các hình ảnh để nhắc nhở
trẻ biết tiết kiệm nước, khi lấy nước uống và không sờ vào ổ điện sẽ gây nguy
hiểm cho trẻ. Bên cạnh việc xây dựng nội dung quy định của từng góc chơi, tơi
cịn xây dựng những góc mở, bài tập mở thật gần gũi, dễ hiểu để thu hút sự tham
gia của cháu Minh Đức.

(Hình ảnh: Các góc cho trẻ hoạt động)
Để thu hút được sự tham gia của trẻ trong các góc chơi, tơi đã tận dụng các

ngun vật liệu đã qua sử dụng để hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo theo
kế hoạch nhằm phục vụ các hoạt động giáo dục và trang trí mơi trường học tập
của lớp. VD: Làm cây đàn phục vụ tiết âm nhạc từ vỏ chai nước rửa bát, làm
những con rối từ mảnh vải vụn, làm cầu trượt, xích đu từ các bìa cát tơng bỏ....
Với việc xây dựng nội quy lớp học bằng những hình ảnh, ký hiệu đơn giản,
cụ thể, dễ hiểu đã giúp cháu Minh Đức dễ dàng thực hiện theo. Qua đó góp phần
vào việc định hình và xây dựng những hành vi mong đợi ở trẻ. Lớp học được
trang trí đẹp với nhiều đồ dùng, đồ chơi sáng tạo, nhiều góc mở tại các góc chơi
giúp cho cháu Đức lớp tơi rất ham thích đến lớp, cháu biết chơi ngoan và thực
hiện đúng nội quy góc chơi, chơi đồn kết, phối hợp chơi nhịp nhàng với các bạn
trong nhóm. Chính vì vậy việc tiếp thu kiến thức của cháu cũng dễ dàng và đạt
hiệu quả cao hơn.
3.2. Xây dựng môi trường tinh thần
Là người trực tiếp chăm sóc và giáo dục bé Minh Đức nên tôi luôn tạo điều
kiện để cháu tham gia môi trường giáo dục thân thiện nhất. Minh Đức sẽ cảm
thấy vui vẻ, thoải mái và an toàn, giúp cháu phát huy được mặt mạnh và nhanh
chóng hịa nhập với mơi trường giáo dục bình thường. Chính vì vậy, trong năm
qua tơi đã tiến hành một số việc sau:
a. Tiếp nhận trẻ khuyết tật, tìm hiểu về trẻ khuyết tật thơng qua việc tìm
hiểu thói quen sinh hoạt của trẻ từ gia đình

10/22


Tôi đặc biệt quan tâm đến cháu Minh Đức là trẻ khuyết tật của lớp tôi. Ngay từ
lần đầu tiên tiếp xúc tơi đã có ấn tượng với cháu. Tơi quan tâm đến sức khỏe,
nhận thức, hành vi của cháu. Qua trò chuyện trao đổi với phu huynh của cháu tơi
đã hiểu thêm về cháu để tiếp tục có những biện pháp giáo dục chuyên biệt giúp
cháu sớm hòa nhập với mơi trường giáo dục bình thường.
b. Xây dựng tập thể lớp tốt biết đoàn kết, yêu thương và giúp đỡ bạn

Tôi luôn tạo điều kiện để cho cháu Minh Đức được vui chơi hòa nhập với
các bạn trong lớp. Khi đó Minh Đức sẽ được hoạt động nhóm, vui chơi với bạn
tạo ra mối liên hệ tình bạn, mối giao tiếp với các bạn khác, giúp cháu phát triển
ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp xã hội. Tôi luôn nhắc nhở và khích lệ các trẻ trong
lớp gần gũi với bạn, thường xuyên rủ bạn chơi cùng, không may bị bạn làm đau
cũng không giận, không buồn hoặc đánh lại bạn....
Ngồi các giờ hoạt động ngồi trời, tơi cịn tổ chức cho Minh Đức với các
bạn tại lớp được vui chơi tại các nơi công cộng. Tôi cho trẻ đi dạo, đi tham
quan… giúp trẻ được làm quen với môi trường nơi cơng cộng, dạy trẻ có hành vi
ứng xử phù hợp như để đồ vật đúng chỗ, vứt rác đúng nơi quy định…. Đồng
thời tôi cho trẻ xây dựng mối quan hệ giúp đỡ bạn, tránh bắt nạt, xa lánh đối với
bạn kém may mắn hơn mình.

Hình ảnh: Bé Minh Đức đang chơi cùng cô và các bạn
c. Xây dựng mối quan hệ giữa cô và trẻ
Tôi luôn quan sát để tìm hiểu sở thích, thói quen của cháu Minh Đức:
Cháu thích ăn gì? Ghét ăn gì? Cháu thích đồ chơi, đồ dùng gì? Hoạt động nào
của lớp mà cháu thích tham gia nhất?… từ đó tạo ra các tình huống để thu hút sự
chú ý của Minh Đức đồng thời vận dụng các phương pháp dạy học một cách
khéo léo nhất để giúp cháu học tập tốt nhất.
* Gần gũi, tận tình khun bảo
Tơi ln thật sự gần gũi với Minh Đức để cháu có cảm giác cơ là mẹ, là
người thân, khơng có cảm giác sợ hãi mà tìm thấy ở cơ giáo sự tin cậy, lịng u
thương và kính trọng. Từ đó giúp cháu Minh Đức tự tin hơn trong học tập và giao
tiếp. Khi cháu có những hành động khơng đúng như: ăn vạ, cướp đồ ăn của bạn.
Tơi ln dành thời gian phân tích để Minh Đức hiểu bằng lời nói nhẹ nhàng, ánh
mắt trìu mến để cháu có hành vi đúng một cách tốt nhất.
11/22



Khi Minh Đức tham gia vào các hoạt động tôi luôn bổ sung các kiến thức
mà cháu tiếp thu chậm cũng như những kiến thức mà cháu còn chưa tiếp thu
được.
Tơi đã hiểu nhiều hơn về cháu Minh Đức. Vì vậy các biện pháp tác động
đến cháu đạt hiệu quả cao. Cháu đã biết yêu cô giáo và các bạn, thích được đến
lớp để chơi và học cùng các bạn. Các bạn trong lớp có cái nhìn thân ái, gần gũi,
đồng cảm giúp đỡ bạn Minh Đức trong học tập hay trong các hoạt động khác của
lớp để cháu khắc phục bớt những khó khăn trong sinh hoạt, trong giao tiếp. Phục
hồi các chức năng, khả năng giao tiếp và khả năng học tập để nhanh chóng hịa
nhập với các bạn với mơi trường học tập bình thường.
4. Biện pháp 4: Rèn một số kỹ năng sống cho trẻ khuyết tật
Ngoài việc học những kiến thức về thế giới xung quanh, Minh Đức phải
được rèn luyện về kỹ năng sống. Đây là môn học đặc thù trong trường chuyên
biệt. Cháu chưa có kỹ năng tự phục vụ như đi vệ sinh, rửa tay..., chưa hiểu những
qui định về kỹ năng giao tiếp ứng xử trong xã hội. Một vấn đề quan trọng nữa là
cháu Đức chưa nhận biết được sự nguy hiểm nên có thể có những hành động như
sử dụng kéo, cho tay vào ổ điện,... ảnh hưởng đến an tồn của bản thân. Do đó,
việc rèn luyện kỹ năng sống ở mức độ cơ bản này đối với cháu là điều bắt buộc
phải có. Dạy kỹ năng bảo vệ an tồn: Tơi ln nhắc trẻ khơng được cho tay vào
cây nước có bên nóng, khơng chơi với dao, kéo…. Dạy kỹ năng tự phục vụ: Tôi
luôn tạo điều kiện cho cháu Minh Đức được tự phục vụ
bản thân như: Tự đi vệ sinh đúng nơi quy định, hướng dẫn trẻ tự xúc ăn, tự cầm
cốc uống nước, tự biết đi vệ sinh khi có nhu cầu….
Rèn luyện kỹ năng lễ giáo: Tôi luôn giáo dục cháu Đức biết chào cô, bố
mẹ khi đi đến lớp, chào cô và các bạn khi ra về. Thời gian đầu năm Đức chưa biết
nói, tơi hướng dẫn cháu sử dụng tay để chào, tơi thường dạy trẻ nói từng từ để tạo
thành câu “Vâng ạ, con xin, con chào cơ, mình chào các bạn...”. Ngồi ra tơi cịn
dạy trẻ biết cảm ơn khi có người khác giúp đỡ, biết xin lỗi khi cướp đồ ăn của
bạn hay làm sai một việc gì đó. Kích thích giác quan: Trẻ mất khả năng xử lý
thông tin đầu vào của giác quan. Sự mất khả năng này có thể xảy ra ở một hay cả

năm giác quan hoặc mất khả năng ở một hoặc nhiều hệ thống trên. Do vậy tùy
vào khả năng của bé Minh Đức mà tôi tạo điều kiện để giúp Mimh Đức dần dần
tiến đến chức năng cảm nhận gần như bình thường.
+ Để phát triển xúc giác tơi cho trẻ vẽ, nặn, dán, chơi với cát, sỏi…
+ Để phát triển thính giác tơi cho trẻ lắng nghe, chơi các trị chơi âm nhạc,
hay nâng cao khả năng nghe nhạc nhằm giúp trẻ hát, vận động phù hợp theo giai
điệu, lời bài hát, dạy trẻ nhận biết từ từ màu 3 màu cơ bản (xanh, đỏ, vàng)….
+ Để kích thích khứu giác, vị giác: Tôi luôn hỏi trẻ trong giờ ăn các con
thấy thức ăn có ngon khơng? Mùi vị của nó như thế nào? Hay khi cho trẻ uống
sữa tơi hỏi trẻ: Con thấy sữa có vị gì? Tơi ln động viên trẻ trả lời. Nếu trẻ
không trả lời được tôi gợi ý câu trả lời. Nếu trẻ trả lời đúng, tôi động viên khen
thưởng trẻ.
Việc rèn kỹ năng sống cho trẻ đòi hỏi giáo viên phải quan tâm và giáo dục
trẻ mọi lúc mọi nơi. Ban đầu cháu không biết đi vệ sinh đúng nơi quy định khiến
giáo viên rất vất vả. Sau những lần như vậy cô ân cần hỏi cháu và dặn cháu “Lần
sau khi đi vệ sinh con phải vào nhà vệ sinh nhé”. Thời gian đầu cháu chưa

12/22


thành thói quen nên giáo viên ln phải nhắc nhở trẻ và hỏi trẻ có đi vệ sinh
khơng để cho trẻ đi thường xuyên. Dần dần trẻ có thói quen đi vệ sinh giống như
các bạn và được một số bạn trong lớp dắt đi cùng nên cháu cảm thấy tự tin và tự
biết cách đi vệ sinh đúng cách.
Ngoài ra khả năng nhận thức của cháu chậm nên khi rèn các kỹ năng vệ
sinh khác như: Rửa tay, rửa mặt, lau mặt của cháu cũng rất yếu. Hàng ngày cô
cho trẻ thực hiện vệ sinh giống các bạn và cô chú ý quan sát sửa sai cho trẻ. Đến
buổi chiều cô thấy kỹ năng vệ sinh nào của con cịn yếu cơ lại ơn lại cho cháu và
cùng cháu làm lại kỹ năng theo đúng các bước. Bên cạnh giáo dục kỹ năng trên
lớp cho cháu tôi cũng kết hợp với phụ huynh phải rèn trẻ vệ sinh ở nhà đúng cách

và tạo thói quen cho trẻ. Tơi ln trao đổi với phụ huynh để phụ huynh hiểu tầm
quan trọng của giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân.
Cháu Đức không ý thức được cách bảo quản đồ dùng đồ chơi cũng như
cháu không biết cách để đồ dùng cá nhân hay đồ đùng đồ chơi đúng nơi quy
định. Ban đầu cháu đến lớp cháu có những hành động như vứt ném đồ dùng
quanh lớp, cháu xé các tranh ảnh treo trên tường của cô, quần áo cháu vứt rất bừa
bãi. Khi trực tiếp giảng dạy cháu, cháu cũng khơng hợp tác với cơ, sau các lần
cháu có những hành động sai như vậy tôi đã rất nghiêm khác phê bình cháu, và
giáo dục trẻ đó là hành vi không nên. Lần sau con không được làm vậy. Thời gian
đầu 3 cô giáo đã luôn quan sát và uốn nắn cho trẻ các hành động sai và kịp thời
sửa sai cho trẻ . Ví dụ khi cháu vứt áo của cháu ở lớp, tôi đã bảo cháu nhặt áo lên
và bảo cháu lần sau con không được làm như vậy. Áo con phải gấp gọn gàng và
để vào ngăn tủ của mình. Cơ cùng trẻ gấp gọn áo và cùng trẻ cất ở ngoài tủ. Sau
nhiều lần như vậy cháu đã biết cách gấp và cất quần áo đúng nơi quy định. Sau
những lần trẻ biết nghe lời tôi ln động viên khuyết khích trẻ khiến trẻ rất hứng
thú và hợp tác cùng cơ.

(Hình ảnh: Cháu Đức đang gấp áo)
Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho cháu Minh Đức tôi nhận thấy cháu
tiến bộ hơn. Cháu biết tránh xa những vật nguy hiểm, khơng an tồn, biết tự
phục vụ bản thân, ngoan, lễ phép, các giác quan của cháu đã dần dần có những
bước tiến chuyển.

13/22


5. Biện pháp 5: Quan tâm trẻ mọi lúc mọi nơi
5.1. Hoạt động đón trẻ

Giờ đón trẻ là lúc cơ cần tạo khơng khí vui vẻ, lơi cuốn trẻ đến trường.

Tôi đã sử dụng, tận dụng triệt để các biện pháp giao tiếp mắt - mắt, nhận biết và
diễn tả cảm xúc thân thiện, ân cần, chào hỏi để gần gũi, tác động tới trẻ.
5.2. Hoạt động thể dục sáng
Cháu Minh Đức gặp khó khăn về vận động, cũng như việc phối hợp các
vận động. Việc cho cháu tham gia vào các hoạt động, các bài tập thể dục sáng
qkhông những giúp cho sự vận động của cơ thể cháu dễ dàng hơn, hiệu quả hơn
mà còn hỗ trợ giác quan định hướng về không gian và ý thức về cơ thể. Bởi vậy
trong quá trình cháu Minh Đức tập, tơi ln khuyến khích, động viên để trẻ tập
tốt hơn trong các lần sau.
5.3. Hoạt động học
Trong hoạt động học để không làm ảnh hưởng đến các bạn khác tôi thường
cho cháu Minh Đức ngồi gần cô để dễ quan sát. Cháu Đức bị chậm phát triển trí
tuệ vì thế cháu rất hay qn nên rất khó cho tơi trong việc dạy cháu. Cháu thường
hay lơ đãng không chú ý, tôi phải nhắc nhở cháu nhiều lần. Đối với các bài thơ
khi dạy cháu tôi thường đọc rất chậm từng câu ngắn trong bài thơ, có những từ
khó tơi giảng giải cho cháu hiểu và đọc lại nhiều lần nhấn mạnh để trẻ đọc theo
cô. Mỗi ngày tôi dành riêng cho cháu 15 phút để dạy cháu đọc thơ và trị chuyện
cùng cháu.
VD: Tơi dạy cháu bài thơ “Mẹ và con”. Cô đọc: Cây ngô là - Trẻ đọc theo
là mẹ. Cô đọc: Bắp ngô là – Trẻ đọc là con. Tuy cháu chưa đọc được tròn câu mà
chỉ đọc vuốt đuôi theo cô nhưng tôi thấy cháu rất vui và hứng thú đọc.
Đối với giờ kể chuyện ngoài việc kể cho cháu nghe cùng các bạn trong
lớp, đến hoạt động chiều tơi lấy sách tranh truyện có hình ảnh ra để đọc cho cháu
nghe, kể cho cháu nghe nhiều lần và cho cháu chỉ vào truyện để cháu biết tên các
nhân vật trong câu chuyện, ngồi ra cơ gợi ý hỏi trẻ về tính cách của các nhân
vật.

(Hình ảnh: Cô đang kể chuyện cho các bé nghe)

14/22



Cháu Đức khơng có khả năng nhớ lâu nên khi dạy cháu vẽ cháu không
chịu vẽ hoặc vẽ không theo yêu cầu cảu cô, cầm bút bằng tay trái và vẽ bậy vào
sách. VD: Tôi yêu cầu cháu tô màu vàng cho quả dài, màu đỏ cho quả tròn nhưng
cháu tơ màu xanh cho quả trịn và tơ màu đỏ cho quả dài.... Vì vậy tơi
thường quan tâm chú ý đến cháu nhiều hơn, quan sát đến cháu ở mọi hoạt động,
cầm tay cho cháu tập vẽ, chỉ dẫn cháu cách tơ màu bền đẹp khơng lem ra ngồi,
cầm bút bằng tay phải, không vẽ bậy váo sách làm bẩn sách, để kích thích trẻ cơ
gắng tơi thường khăn ngợi trẻ kịp thời khi trẻ ngoan và làm theo yêu cầu của cô.
Do ngôn ngữ bị hạn chế nên trẻ khó nhận ra mối quan hệ giữa các sự vật
hiện tượng xung quanh khi trẻ tìm hiểu về mơi trường xung quanh.
5.4. Chơi ngoài trời
Hoạt động ngoài trời giúp trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh. Muốn tiếp
xúc được với thế giới xung quanh thì trẻ phải sử dụng hệ thống các giác quan.
Nhưng ở trẻ khuyết tật lớp tôi lại mất khả năng xử lý thông tin đầu vào của các
giác quan. Sự mất khả năng này có thể xảy ra ở một hay cả ở năm giác quan hoặc
mất khả năng. Do vậy, khi cho trẻ khuyết tật tham gia hoạt động ngồi trời, tơi đã
thiết kế một số hoạt động giúp trẻ dần tiến đến chức năng cảm nhận bình thường
để tri giác các sự vật.
- Chơi với cát và nước
- Ném bóng vào rổ
- Mèo đuổi chuột, kéo co,…

(Hình ảnh: Hoạt động chơi ngồi trời)
5.5. Giờ hoạt động góc
Cháu Minh Đức thường gặp khó khăn trong việc hiểu cảm xúc của người
khác, không biết thể hiện nhu cầu, mong muốn, thái độ của mình cho người khác
hiểu. Cháu ln muốn tách mình ra khỏi tập thể lớp (ngồi 1 mình và khóc), ln
né tránh giao tiếp, không biết sự luôn phiên, không biết luật chơi và đặc biệt cịn

gặp khó khăn với các trị chơi đóng vai.

15/22


Mà trị chơi đóng vai là trị chơi chủ đạo trong hoạt động góc nên khi tổ
chức hoạt động góc, tơi ln tạo điều kiện để Minh Đức được hịa đồng với các
bạn trong lớp, nắm được luật chơi, cách chơi, biết chơi đồn kết với bạn. Nên tơi
đã sử dụng các hoạt động sau tại các góc:
- Góc tạo hình: Vẽ, nặn, dán hình con gà con, di màu con cá to, trang trí
khung ảnh, ….
- Góc thao tác vai: Chơi với bộ đồ chơi nấu ăn, cho em bé ăn, ....
- Góc âm nhạc: Nghe tiếng hát tìm đồ vật, thi xem ai nhanh, thi làm ca sỹ,
Nghe giai điệu đốn tên bài hát, ….
- Góc bé khéo tay: Dạy trẻ trang trí khung ảnh gia đình của bé (ảnh gia
đình cháu Minh Đức), di màu con gà con, nặn hịn bi, nặn con lật đật.…
- Góc vận động: Chơi gắp cua bỏ giỏ, chơi lăn bóng, truyền bóng, ....
- Góc rèn kỹ năng: Cắt móng tay, gấp quần áo, cài khuy áo.
- Góc thư viện của bé: Xem sách, truyện, xem lô tô, cùng làm tập sách với
cơ.

(Hình ảnh: Bé Minh Đức đang chơi ở góc sách truyện cùng các bạn)
5.6. Hoạt động ăn
Do trẻ khuyết tật nên trẻ khơng như các bạn bình thường khác, Minh Đức
cũng biết tự xúc cơm ăn nhưng cô phải nhắc nhở nhiều lần và rèn luyện thường
xuyên cháu mới thực hiện được. Cháu xúc ăn còn rất vụng về, hay làm đổ cơm ra
ngồi và thường hay ngồi đợi cơ đến bón cơm cho mình. Tơi động viên cháu nên
tự xúc ăn và chỉ dẫn cháu cách xúc cơm không làm rơi vãi, khen ngợi cháu kịp
thời khi cháu làm tốt.


16/22


(Hình ảnh: Cháu Đức tự xúc ăn)
5.7. Giờ ngủ
Là giờ được nghỉ ngơi sau khi tham gia vào các hoạt động một cách tích
cực. Trong giờ ngủ, tơi quan tâm đến bé Minh Đức như: hát ru bé ngủ, bật nhạc
các ca khúc có giai điệu êm dịu đối với trẻ để trẻ dễ đi vào giấc ngủ, nếu bé khó
ngủ cơ bé trẻ sang phịng khác giỗ dành hoặc cùng chơi với trẻ.
5.8. Hoạt động chiều
Sau khi ngủ dậy, tôi tổ chức cho Minh Đức và các bạn trong lớp sử dụng
các bài tập nhẹ nhàng: Trò chơi kéo cưa lừa xẻ, lộn cầu vồng, chim sẻ và ô tơ,
gieo hạt và các trị chơi dân gian khác.... Khi tổ chức hoạt động chiều tôi tổ chức
rèn các kỹ năng sống, các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động:
Dạy trẻ kỹ năng đi dép, cất ba lơ, cắt móng tay, chải tóc, đi vệ sinh đúng nơi qui
định…. Cùng trẻ làm các đồ dùng đồ chơi tự tạo

(Hình ảnh: Cơ và trẻ cùng làm đồ chơi tự tạo)

17/22


Như vậy, bằng sự gần gũi, ân cần thân thiện của cô và các bạn trong lớp từ
lúc bé Minh Đức đến trường cho đến lúc được cha mẹ đón về, bé được học
những kiến thức, học được cách cư xử đúng đắn, thích hợp được hịa đồng với
các bạn trong lớp. Sự quan tâm, chăm sóc của các cơ mọi lúc, mọi nơi giúp Minh
Đức nhanh chóng rút ngắn khoảng cách, có sự tương tác giữa bé Minh Đức với
các bạn trong lớp, đưa bé hịa nhập với mơi trường bình thường.
6. Biện pháp 6: Tổ chức các hoạt động tập thể
Tổ chức các hoạt động tập thể trong trường mầm non là tổ chức cho trẻ

tham gia các ngày hội, ngày lễ, các hoạt động giao lưu, thăm quan, các buổi văn
nghệ, các trò chơi dân gian nhằm tạo cho trẻ khuyết tật có một sân chơi bổ ích,
giao lưu với các bạn và tăng cường sự tham gia của trẻ, giáo dực trẻ kỹ năng tự
giải quyết vấn đề.
Đối với các ngày lễ hội tôi quan tâm tạo điều kiện cho trẻ được giao lưu
với các bạn trong trường, lớp tạo tâm thế vui vẻ, phấn khởi, hào hứng cho trẻ
tham gia.
Đối với các hoạt động giao lưu, thăm quan, tơi tổ chức hoạt động ngồi
trời, hoạt động góc, hoạt động thăm quan, giao lưu.Vì vậy tơi tích cực liên hệ với
giáo viên các khối, lớp khác trong trường cho trẻ được giao lưu với nhau thông
qua các trò chơi vận động (Lộn cầu vồng, mèo đuổi chuột, ném bóng vào rổ, kéo
co, …).

(Hình ảnh: Cơ và trẻ đi dã ngoại ở đền thờ Vua Lê)
Qua việc tổ chức các hoạt động tập thể tôi thấy cháu Minh Đức lớp tơi
ngày càng bình tĩnh, tự tin, thoải mái, vui vẻ hơn trong giao tiếp với cô và các
bạn. Khả năng giao tiếp, điều chỉnh hành vi của trẻ đã được cải thiện rất nhiều.
7. Biện pháp 7: Phối hợp với phụ huynh
Gia đình và nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng trẻ trong những tháng đầu
đời, nhà trường và gia đình đều có những ưu thế riêng. Chính vì vậy việc kết hợp
giữa hai lực lượng này là yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ
khuyết tật. Từ đầu năm khi bắt đầu nhận chủ nhiệm lớp và thấy cháu Đức có đặc
điểm của một trẻ khuyết tật tôi đã không ngần ngại trao đổi với phụ huynh là bố
mẹ cháu về đặc điểm của trẻ từ khi sinh ra đến bây giờ như thế nào? Vì sao cháu
lại bị như vậy.

18/22


Tơi rất đồng cảm với gia đình cháu, ban đầu bố mẹ cháu tỏ ra rất e ngại và

khơng thích khi cô giáo đề cập về vấn đề cháu chậm phát triển trí tuệ hơn các
bạn. Vì bản thân phụ huynh hay né tránh khơng nhìn nhận được sự thật mà khẳng
định con mình vẫn bình thường như những trẻ bình thường. Qua nhiều lần trao
đổi trực tiếp với phụ huynh về tình hình của cháu ở trên lớp cũng nên dần dần bố
mẹ cũng đã hiểu về những khiếm khuyết của cháu và gia đình đã cho cháu đi
khám tại các bệnh viện lớn.
Sau khi gia đình cho cháu khám về bệnh tình của cháu, bản thân tơi giáo
viên của cháu cũng đã kịp thời thỏi thăm về kết quả bệnh của cháu và động viên
gia đình cố gắng uốn nắn cháu để cháu sẽ hoàn thiện hơn.
Đặc biệt sau các lần đón trả trẻ tơi và phụ huynh cũng luôn trao đổi thường
xuyên về hoạt động hằng ngày của cháu: Cháu có đặc điểm hay chạy nhảy tự do,
hay đùa với các bạn trong lớp một cách thái quá (đẩy, đánh các bạn trong lớp),
cháu ngủ rất ít mà khi tỉnh dậy cháu lại chạy nhảy đi lại khắp lớp. Khi tham gia
các hoạt động tập thể cháu rất nhút nhát, sợ sệt. Đó là một số đặc điểm của cháu
mà chúng tôi nắm được để hằng ngày động viên khuyết khích trẻ tự tin tham gia
vui chơi cùng với các bạn.
Giáo viên vận động phụ huynh tìm đọc kham khảo các tài liệu có liên quan
để giáo dục thêm cháu ở nhà. Phụ huynh cũng rất lo cho bệnh tật của con nhưng
hầu hết các phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng trong việc giáo dục con, họ chưa
dành nhiều thời gian cho các con của mình. Đặc biệt trẻ khuyết tật trẻ cần được
giáo dục từ chính những người thân trong gia đình một cách khoa học.

Ảnh: Giáo viên trao đổi tài liệu với phụ huynh)
Gia đình cháu cũng rất hài lịng và cảm thấy vui vẻ khi được các cô quan
tâm và bù đắp cho cháu như vậy và hứa sẽ cùng nhà trường chăm sóc giáo dục
cháu tốt hơn. Gia đình, nhà trường và xã hội ln có mối quan hệ khơng thể tách
rời, mọi ảnh hưởng của xã hội đều tác động rất lớn đến quá trình phát triển của
trẻ. Sự chăm lo của xã hội như: Phát động ngày vì trẻ em, cấp phiếu khám chữa
bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, tặng quà ngày 1/6, ngày tết trung thu…, đã có nhiều
tác động đến các bậc cha mẹ, giúp họ hiểu hơn trách nhiệm của mình với xã hội

và trong việc giáo dục con cái.

19/22


V. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
Trong những ngày đầu khi đến lớp tơi rất lúng túng khơng tự tin, nhiều
tình huống chưa gặp phải lần nào mà phải đứng lớp dạy trẻ khuyết tật như cháu
Minh Đức. Tôi rất lo lắng khơng biết mình có đảm nhận được khơng. Nhưng
được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu cùng các đồng nghiệp đã giúp tơi vượt qua
những trở ngại và tìm ra phương pháp tốt nhất để dạy dỗ và chăm sóc cháu. Sau
một thời gian áp dụng các biện pháp giáo dục kỹ năng dành cho trẻ khuyết tật, tôi
thấy trẻ đã có sự tiến bộ thay đổi một cách rõ rệt, cụ thể như sau:

Nội dung khảo
sát
Trẻ
uống
Biết
chải răng
Trẻ biết tự rửa tay
Trẻ biết tự đi vệ
sinh
Trẻ
quần áo
Biết
nhau
Biết phát âm, nói
rõ câu, từ...
Hiểu khi nghe cơ

và các bạn nói
Biết
mình,
nắm các đồ dùng
Tham gia các hoạt
động học tập, vui
chơi
Biết tô màu, cầm
bút....
Thực
động
giờ tạo hình
Thực hiện các vận
động thơ
Tn theo các quy
định của lớp
Ghi chú:

biết
súc

biết
chơi

đi

tinh

Rõ rệt: +
Chưa rõ rệ

Chưa được



Sau khi nghiên cứu và áp dụng chương trình giáo dục hòa nhập trẻ khuyết
tật. Bằng các kinh nghiệm và biện pháp đổi mới, sáng tạo, xây dựng môi trường
lớp học thân thiện, tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, phát huy tính độc lập sáng tạo
trong hoạt động cá nhân trẻ.
Qua quá trình tìm một số biện pháp để giúp trẻ khuyết tật hịa nhập tại lớp
tơi thấy có rất nhiều lợi ích của việc giáo dục hịa nhập trẻ vào cộng đồng. Việc
cho trẻ tham gia hòa nhập có vai trị quan trọng đối với trẻ, có thể đó là lần đầu
tiên trong đời chúng được mong đợi và khuyến khích làm những điều chúng có
thể làm cho bản thân. Nếu chỉ sống và học tập mãi với những trẻ khuyết tật, trẻ
khuyết tật sẽ khó có thể khám phá ra những tiềm tàng mà chúng có. Vì vậy
những cơ giáo mầm non xuất phát từ tình u thương trẻ hãy kiên trì, nhẫn nại, tỉ
mỉ để chăm sóc các cháu chẳng may bị kém hơn các bạn cùng trang lứa.
PHẦN C. KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Từ những biện pháp đã áp dụng tôi đã rút ra nhiều bài học, do tích lũy
được trong suốt thời gian công tác với mong muốn gửi đến đồng nghiệp, cha mẹ
trẻ những thơng điệp mang tính thuyết phục nhằm giúp trẻ ngày một hoàn thiện
những kỹ năng trong chặng đường hình thành nhân cách của trẻ.
Giáo viên phải thật sự là người mẹ hiền, bằng tình thương bao la của người
mẹ, bằng những kinh nghiệm, những kỹ năng sư phạm, sự linh hoạt nhạy bén
trong phương pháp giáo dục và quan tâm chăm sóc trẻ mọi lúc mọi nơi trong mọi
hoạt động.
Giáo dục cho trẻ kỹ năng sống, lòng nhân ái, tình yêu thương bạn bè giữa
những trẻ bình thường và trẻ khuyết tật nhằm phát triển nhân cách cho trẻ. Giúp
cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tạo tâm thế vui vẻ, thích dến trường.
Phát huy những thế mạnh của trẻ khuyết tật và hạn chế những khiếm

khuyết cho trẻ, giúp trẻ phát triển đầy đủ cả thể chất và tinh thần, tạo cơ hội phát
triển toàn diện để sau này trở thành những người con có ích cho gia đình và cho
xã hội.
II. KIẾN NGHỊ
Giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật được học tập nâng
cao hiểu biết và biết cách tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ khuyết tật trong lớp hòa
nhập.
Giáo viên biết tổ chức giờ học riêng cho trẻ khuyết tật, biết lập hồ sơ theo
dõi, biết đánh giá và xây dựng kế họach mục tiêu giáo dục riêng cho từng trẻ
khuyết tật
Giáo viên có cơ hội tiếp cận và sử dụng những cơng nghệ mới trong chăm
sóc và giáo dục trẻ khuyết tật mầm non
Tham mưu với các cấp lãnh đạo đầu tư tạo điều kiện về cơ sở vật chất, đồ
dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ khuyết tật, tạo mọi điều kiện giúp đỡ giáo viên có
trẻ khuyết tật cần được giáo dục hịa nhập về thời gian, khơng gian, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non nói chung và trẻ khuyết tật nói
riêng.

21/22


Trên đây là “Một số biện pháp giúp trẻ 4 – 5 tuổi khuyết tật hòa nhập
trong trường mầm non”. Trong q trình tơi thực hiện tuy cịn nhiều khó khăn
nhưng bằng nỗ lực phấn đấu của bản thân cùng với sự giúp đỡ của Ban giám hiệu
và phụ huynh học sinh. Tơi đã cố gắng khắc phục khó khăn để thực hiện tốt
chương trình giáo dục hịa nhập trẻ khuyết tật để giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, phát
triển ngôn ngữ, làm giàu vốn từ, phát triển tư duy sáng tạo góp phần phát triển
tồn diện, hình thành nhân cách và hòa nhập với cộng đồng xã hội. Rất mong
được sự quan tâm hỗ trợ của Hội đồng khoa học, bạn bè đồng nghiệp góp ý xây
dựng, bổ xung thêm để tơi có được kinh nghiệm tốt hơn làm cẩm nang cho mình,

nhằm thu được hiệu quả cao trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ, nhất là việc
giáo dục kỹ năng dành cho trẻ khuyết tật.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Sơn Đông, Ngày...tháng...năm 2018
Tác giả
Phùng Thị Mỹ Bình

22/22



×